Lời Phi Lộ
NIỆM PHẬT THẬP YẾU
HT. Thích Thiền Tâm
HT. Thích Thiền Tâm
Bản thảo quyển này vừa viết xong, có vài ba đại đức hỏi mượn
luân phiên nhau xem, rồi cật vấn:
- Chúng tôi thấy chư vị hoằng dương về Thiền Tông, dường như
có ý bài xích Tịnh Độ. Chẳng hạn như trong quyển Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất có
câu: “Niệm Phật, tụng kinh đều là vọng
tưởng”. Còn trong đây lại bảo: 'Môn
Tịnh Độ hợp thời cơ, gồm nhiếp ba căn, kiêm thông cả Thiền, Giáo, Luật, Mật'.
Xem ra cũng dường như có ý cho Tịnh Độ là độc thắng, sự việc ấy như thế nào?
Đáp: - Không phải thế đâu? Mỗi môn đều có tông chỉ riêng.
Các bậc hoằng dương tùy theo chỗ lập pháp của mình, bao nhiêu phương tiện
thuyết giáo đều đi về những tông chỉ ấy. Như bên Thiền lấy: 'Chỉ thẳng lòng người, thấy tánh thành Phật'
làm tông chỉ. Tịnh Độ môn lấy: 'Một đời
vãng sanh, được Bất Thối chuyển' làm tông. Bên Hoa Nghiêm lấy: 'Lìa thế gian nhập pháp giới' làm tông.
Thiên Thai giáo lấy: 'Mở, bày, ngộ vào
tri kiến Phật' làm tông. Bên Tam Luận lấy: 'Lìa hai bên, vào Trung Ðạo' làm tông. Pháp Tướng môn lấy: 'Nhiếp muôn pháp về Chân Duy Thức' làm
tông. Mật giáo lấy: 'Tam mật tương ưng,
tức thân thành Phật' làm tông. Và Luật môn lấy: 'Nhiếp thân ngữ ý vào Thi La Tánh' làm tông.
Cho nên, lời nói bên Thiền ở trên, không phải bác Tịnh Độ,
hay bác niệm Phật tụng kinh, mà chính là phá sự chấp kiến về Phật và Pháp của
người tu. Nếu niệm Phật và tụng kinh là thấp kém sai lầm, tại sao từ Đức Thích
Tôn cho đến chư Bồ-Tát, Tổ Sư đều ngợi khen khuyên dạy tụng kinh, niệm Phật?
Nên biết, Vĩnh Minh thiền sư, tương truyền là hóa thân của Phật A-Di-Đà, mỗi
ngày đều tụng một bộ Pháp Hoa. Lại, Phổ Am đại sư cũng nhân tụng kinh Hoa
Nghiêm mà được ngộ đạo. Sự thuyết giáo bên Tịnh Độ cũng thế, không phải bác phá
Thiền Tông, chỉ nói lên chỗ đặc sắc thiết yếu của bản môn, để cho học giả suy
xét tìm hiểu sâu rộng thêm, mà tùy thích tùy cơ, chọn đường thú nhập.
Lại, mỗi môn tuy tông chỉ không đồng, nhưng đều là phương
tiện dẫn chung về Phật Tánh. Như một đô thành lớn có tám ngõ đi vào, mà nẻo nào
cũng tập trung về đô thị ấy. Các tông đại khái chia ra làm hai, là Không môn và
Hữu môn. Không môn từ phương tiện lý tánh đi vào. Hữu môn từ phương tiện sự
tướng đi vào. Nhưng đi đến chỗ tận cùng thì dung hội tất cả, sự tức lý, lý tức
sự, tánh tức tướng, tướng tức tánh, nói cách khác: “Sắc tức là không, không tức là sắc, không và sắc chẳng khác nhau”.
Cho nên khi xưa có một vị đại sư tham Thiền ngộ đạo, nhưng lại mật tu về Tịnh
Độ. Lúc lâm chung, ngài lưu kệ phó chúc cho đại chúng, rồi niệm Phật sắp vãng
sanh. Một vị thiền giả bỗng lên tiếng hỏi: “Cực
Lạc là cõi hữu vi, sao tôn đức lại cầu về làm chi?” Đại Sư quát bảo: “Ngươi nói vô vi ngoài hữu vi mà có hay
sao?” Thiền giả nghe xong chợt tỉnh ngộ. Thế nên Thiền và Tịnh đồng về một
mục tiêu. Hữu môn cùng Không môn tuy dường tương hoại mà thật ra tương thành
cho nhau vậy.
Đến như nói: 'Tịnh Độ
hợp thời cơ, gồm nhiếp ba căn, kiêm thông cả Thiền, Giáo, Luật, Mật', chính
là lời khai thị của chư cổ đức như: Liên Trì, Triệt Ngộ, Ngẫu Ích, Kiên Mật.
Các đại sư này là những bậc long tượng trong một thời, sau khi tham thiền ngộ
đạo, lại xương minh về lý mầu của Tịnh Độ pháp môn. Như Triệt Ngộ đại sư, trong
tập Ngữ Lục, đã bảo: 'Một câu A-Di-Đà,
tâm yếu của Phật ta. dọc quán suốt năm thời, ngang gồm thâu tám giáo'. Và
Kiên Mật đại sư sau khi quán sát thời cơ, trong Tam Đại Yếu, cũng bảo: “Đời nay tham thiền chẳng nên không kiêm
Tịnh Độ, phòng khi chưa chứng đạo bị thối chuyển, há chẳng kinh sợ lạnh lòng?
Một câu A-Di-Đà, nếu không phải là bậc thượng căn, đại triệt, đại ngộ, tất
không thể hoàn toàn đề khởi. Nhưng với câu này, kẻ hạ căn tối ngu vẫn chẳng
chút chi kém thiếu!” Thế nên, thuốc không quý tiện, lành bệnh là thuốc hay;
pháp chẳng thấp cao, hợp cơ là pháp diệu. Tịnh Độ với Thiền Tông thật ra chẳng
thấp cao hơn kém. Nhưng luận về căn cơ thì Thiền Tông duy bậc thượng căn mới có
thể được lợi ích; còn môn Tịnh Độ thì gồm nhiếp cả ba căn, hạng nào nếu tu cũng
đều dễ thành kết quả. Luận về thời tiết thì thời mạt pháp này, người trung, hạ
căn nhiều, bậc thượng căn rất ít nếu muốn đi đến thành quả giải thoát một cách
chắc chắn, tất phải chú tâm về Tịnh Độ pháp môn. Đây do bởi lòng đại bi của
Phật, Tổ, vì quán thấy rõ thời cơ, muốn cho chúng sanh sớm thoát nỗi khổ luân
hồi, nên trong các kinh luận đã nhiều phen nhắc nhở. Điều này là một sự kiện
rất quan yếu và hết sức xác thật!
Tuy nhiên, như trong kinh nói: chúng sanh sở thích và tánh
dục có muôn ngàn sai biệt không đồng, nên chư Phật phải mở vô lượng pháp môn
mới có thể thâu nhiếp hết được. Vì vậy Tịnh Độ tuy hợp thời cơ, song chỉ thích
ứng một phần, không thể hợp với sở thích của tất cả mọi người, nên cần phải có
Thiền Tông và các môn khác, để cho chúng sanh đều nhờ lợi ích, và Phật Pháp
được đầy đủ sâu rộng. Cho nên dù đã tùy căn cơ, sở thích của mình mà chọn môn
Tịnh Độ, thâm ý bút giả vẫn mong cho Thiền Tông và các môn khác được lan truyền
rộng trên đất nước này. Và các môn khác, nếu đem lại cho chúng sanh dù một điểm
lợi ích nhỏ nhen nào, bút giả cũng xin hết lòng tùy hỷ. Tóm lại, Hữu môn và
Không môn nói chung, Thiền Tông và Tịnh Độ nói riêng, đồng cùng đi về chân
tánh, tuy hai mà một, đều nương tựa để hiển tỏ thành tựu lẫn nhau, và cũng đều
rất cần có mặt trên xứ Việt Nam, cho đến cả thế giới.
Mấy vị đại đức sau khi nghe xong đều tỏ ý tán đồng. Nhân
tiện, bút giả lại trần thuật bài kệ của Tây Trai lão nhơn để kết luận, và chứng
tỏ người xưa cũng đã từng đồng quan điểm ấy:
Tức
tâm là độ lý không ngoa
Tịnh
khác Thiền đâu, vẫn một nhà
Sắc
hiển trang nghiêm miền Diệu Hữu
Không
kiêm vô ngại cõi hằng sa
Trời
Tây sáng đẹp màu châu ngọc
Nguyện
Phật bao la đức hải hà
Ngoảnh
lại đường tu, ai sớm tỉnh?
Nỗi
thương ác đạo mãi vào ra!
Thích Thiền Tâm cẩn chí
Nhận xét
Đăng nhận xét