I. TỊNH ÐỘ THÙ THẮNG

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC
Bửu Quang TĐệ Tử Như Hòa dịch

* Lớn lao thay! Ðiều được pháp môn Tịnh Ðộ chỉ dạy là “tâm này làm Phật, tâm này là Phật”, chỉ thẳng tâm người. Nếu vẫn cho là kém kỳ lạ, đặc biệt thì mỗi niệm niệm Phật chính là thành Phật ngay trong niệm ấy. Ðộ khắp ba căn, thống nhiếp Thiền, Luật, Giáo. Như mưa đúng thời nhuần thấm vạn vật; giống như biển cả dung nạp trăm sông.
Hết thảy các pháp Thiên, Viên, Ðốn, Tiệm, không pháp nào chẳng phát xuất từ pháp giới này. Hết thảy hạnh Ðại, Tiểu, Quyền, Thiệt, không hạnh nào chẳng quy về pháp giới này. Chẳng đoạn Hoặc nghiệp, liền được dự vào hàng Bổ Xứ, viên mãn Bồ Ðề ngay trong một đời này. Chúng sanh trong chín pháp giới[1] lìa môn này thì trên là chẳng thể viên thành Phật đạo. Mười phương chư Phật bỏ pháp môn này thì dưới là chẳng thể lợi khắp quần manh[2]. Bởi đó, trọn Hoa Nghiêm hải chúng cùng tuân theo mười đại nguyện vương; Pháp Hoa vừa xưng một tiếng, liền chứng Thật Tướng các pháp.
[Tịnh Ðộ là] hạnh phương tiện tối thắng, nên trong luận Khởi Tín, ngài Mã Minh bảo là “dễ hành, mau đến”; ngài Long Thọ xiển dương pháp này trong luận Tỳ Bà Sa. Hậu thân của đức Thích Ca là ngài Trí Giả nói ra Thập Nghi Luận chuyên dốc chí nơi Tây Phương. Sư Vĩnh Minh là Phật Di Ðà thị hiện, soạn Tứ Liệu Giản, suốt đời niệm Phật dẫn tam thừa ngũ tánh[3] cùng chứng Chân Thường, đưa thượng thánh hạ phàm cùng lên bờ kia.
Vì thế, pháp môn này cả cửu giới cùng hướng về, mười phương cùng khen ngợi. Ngàn kinh cùng xiển dương, vạn luận đều tuyên thuyết. Thật có thể nói là pháp cực đàm[4] trong một đời giáo hóa [của đức Phật], là đại giáo Nhất Thừa vô thượng. Chẳng trồng cội đức thì trải bao kiếp khó thể gặp gỡ. Ðã được thấy nghe, phải siêng tu tập.
* Giáo, Lý, Hạnh, Quả là cương tông (cương lãnh, tông yếu) của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật quả thật là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo, Lý, Hạnh, Quả) đều đủ; còn đời này, nếu bỏ Tịnh Ðộ sẽ hoàn toàn chẳng thể chứng đạo quả. Ấy là vì cách biệt thánh đã xa, căn tánh con người hèn kém, nếu chẳng cậy vào Phật lực, quyết khó được giải thoát. Như đã nói: “Pháp môn Tịnh Ðộ nhiếp khắp căn cơ thượng, trung, hạ; cao trỗi hơn Luật, Giáo, Thiền Tông, thật là lòng từ bi triệt để của chư Phật, chỉ bày thể tánh sẵn có của chúng sanh, dẫn tam thừa ngũ tánh đồng quy cõi Tịnh, đưa thượng thánh hạ phàm cùng chứng Chân Thường. Cửu giới chúng sanh lìa pháp này thì trên chẳng thể viên thành Phật đạo. Mười phương chư Phật bỏ pháp môn này thì dưới chẳng thể lợi khắp quần manh”. Vì lẽ đó, vãng thánh tiền hiền (thánh hiền đời trước) ai nấy đều hướng về, ngàn kinh vạn luận đâu đâu cũng chỉ quy. Từ sau hội Hoa Nghiêm dẫn khởi quy hướng, các đại Bồ Tát tận khắp mười phương thế giới không vị nào chẳng cầu sanh Tịnh Ðộ. Kể từ khi diễn thuyết tại Kỳ Viên đến nay, cuối hết thảy các trước thuật của Tây Thiên, Ðông Ðộ, đều quy kết Liên Bang.
* Cổ nhân nói: “Thân người khó được, trung quốc[5] khó sanh, Phật pháp khó nghe, sanh tử khó xong”. Chúng ta may mắn được làm thân người, sanh ở trung quốc, được nghe Phật pháp. Ðiều bất hạnh là tự thẹn nghiệp chướng sâu nặng, không có sức đoạn Hoặc để mau thoát khỏi Tam Giới, liễu sanh thoát tử; nhưng lại may mắn được nghe đức Như Lai ta tâm bi triệt để nói ra pháp môn Tịnh Ðộ là pháp đại quyền xảo, phương tiện lạ lùng, khiến cho hàng phàm phu lè tè sát đất được đới nghiệp vãng sanh, thật không còn gì may mắn hơn nữa! Nếu chẳng phải là từ vô lượng kiếp đến nay đã trồng thiện căn sâu dầy, làm sao được nghe pháp chẳng thể nghĩ bàn này? Chẳng nên gấp sanh lòng tin chân thành, phát nguyện cầu sanh ư?
* Trộm nghe Tịnh Ðộ chính là pháp tỏ bày rốt ráo bổn hoài của Phật, cao vượt hết thảy Thiền, Giáo, Luật, thống nhiếp hết thảy Thiền, Giáo, Luật. Nói gọn thì một lời, một câu, một kệ, một sách đều có thể gồm trọn không còn sót. Nói rộng ra, dù huyền ngôn của Tam Tạng mười hai bộ kinh, diệu nghĩa của chư Tổ năm tông[6], cũng chẳng thể diễn giảng trọn [pháp môn Tịnh Ðộ này]. Giả sử khắp cả đại địa chúng sanh đều thành Chánh Giác, hiện tướng lưỡi rộng dài, dùng sức thần thông, sức trí huệ, vi trần nói, cõi nước nói, nói hăm hở, nói không gián đoạn, vẫn còn chưa thể trọn hết! Bởi lẽ Tịnh Ðộ vốn là chẳng thể nghĩ bàn.
Hãy thử nghĩ xem: Hoa Nghiêm đại kinh là vua trong Tam Tạng, trong phẩm cuối cùng đã quy kết, chú trọng nơi nguyện vương. Áo điển Pháp Hoa mầu nhiệm đứng đầu các kinh, nghe kinh liền vãng sanh, địa vị ngang với Ðẳng Giác. Vậy thì ngàn kinh muôn luận đâu đâu đều chỉ quy Tịnh Ðộ là có nguyên do vậy. Văn Thù phát nguyện, Phổ Hiền khuyến khích. Trong hội Ðại Tập, đức Như Lai thọ ký rằng: “Trong đời Mạt Pháp, không do pháp này chẳng thể đắc độ”. Trong luận Tỳ Bà Sa, ngài Long Thọ phán định là pháp dễ hành, mau thoát sanh tử. Vì lẽ đó, vãng thánh tiền hiền, người người hướng đến, há phải phí công toi! Thật có thể nói là cả một đời giáo hóa đều chỉ là để đặt cơ sở cho pháp môn Niệm Phật!.
Chẳng phải chỉ có thế! Phàm hết thảy cảnh giới đối ứng sáu căn, tức là núi, sông, đại địa, sáng, tối, sắc, không, thấy, nghe, hay, biết, thanh, hương, vị v.v... không gì chẳng phải là văn tự để phô diễn, xiển dương Tịnh Ðộ đó sao? Lạnh, nóng đắp đổi, già, bệnh chen nhau, lụt, hạn, chiến tranh, tật dịch, bạn ma, tà kiến, không gì chẳng phải là để răn nhắc cảnh tỉnh con người mau cầu sanh Tịnh Ðộ đó ư? Nói rộng ra, há có thể trọn hết được sao?
Còn như bảo “một lời đã gộp hết cả” thì lời đó là “Tịnh”. Tịnh đến cùng cực bèn sáng tỏ, thông suốt. Nếu chưa đạt tới Diệu Giác, há dễ dàng đảm đương nổi một lời này ư? Nghiên cứu bài tụng Lục Tức Thành Phật[7] sẽ biết.
“Một câu” là “Tín, Nguyện, Hạnh”. Với Tín, Nguyện, Hạnh, thì không có Tín sẽ chẳng đủ để khởi Nguyện, không có Nguyện sẽ chẳng đủ để dẫn dắt Hạnh. Không có diệu hạnh Trì Danh thì chẳng đủ để viên mãn điều mình Nguyện, chứng điều mình tin. Hết thảy các kinh luận Tịnh Ðộ đều nhằm nêu tỏ ý chỉ này.
“Một kệ” là kệ tán Phật[8]: Nêu chánh báo để gồm thâu y báo, thuật Hóa Chủ để bao gồm đồ chúng; tuy chỉ gồm tám câu, nhưng đã nêu trọn đại cương của ba kinh Tịnh Ðộ.
Một cuốn sách là cuốn Tịnh Ðộ Thập Yếu. Chữ chữ đều là bến cầu[9]cho đời Mạt Pháp, lời lời đều là gương báu của Liên Tông. Buốt lòng trào lệ, phanh tim vẩy máu, xứng tánh phát huy, chỉ bày cốt tủy. Dù dùng những thí dụ như cứu người chết đuối, cứu người bị lửa cháy, vẫn chẳng thể diễn tả lòng thống thiết [của chư Tổ] được. Bỏ qua [sách này] thì chánh tín không thể do đâu mà sanh, tà kiến không thể do đâu mà diệt!
* Hãy nên biết: Chúng ta từ vô thỉ đến nay đã tạo ác nghiệp vô lượng, vô biên. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Giả sử ác nghiệp có thể tướng thì mười phương hư không chẳng thể chứa đựng”. Lẽ đâu tu trì lơ mơ, hời hợt, lại tiêu nổi nghiệp ư? Bởi vậy, Thích Ca, Di Ðà, giáo chủ hai cõi, đau đáu nghĩ đến chúng sanh không có sức đoạn Hoặc, riêng mở ra một pháp môn nương vào từ lực của Phật để đới nghiệp vãng sanh. Lòng hoằng từ đại bi ấy, dù trời đất, cha mẹ cũng chẳng thể bằng được một phần Hằng hà sa. Chỉ nên phát lòng thẹn hổ, phát tâm sám hối, thì mới tự có thể được Phật gia bị, nghiệp tiêu, thân an mà thôi!
* Hòa Thượng Thiện Ðạo nói: “Nếu muốn học về Giải, thì hết thảy các pháp từ địa vị phàm phu cho đến địa vị Phật, không pháp nào chẳng nên học. Nếu muốn học về Hạnh, hãy nên chọn lấy một pháp khế lý, khế cơ để chuyên tinh tận sức thì mới mau chứng được lợi ích chân thật. Nếu không, từ kiếp này qua kiếp nọ, vẫn khó xuất ly!” Pháp khế lý, khế cơ như Ngài vừa nói đó không gì hơn là Tín, Nguyện, Trì Danh, Cầu Sanh Tây Phương!
* Kinh A Di Ðà, kinh Vô Lượng Thọ, và kinh Quán Vô Lượng Thọ gọi là Tịnh Ðộ Tam Kinh, chuyên luận về Sự Lý duyên khởi của Tịnh Ðộ. Các kinh Ðại Thừa khác đều nói kèm thêm Tịnh Ðộ. Nhưng kinh Hoa Nghiêm chính là khi đức Như Lai mới thành Chánh Giác, vì bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân Ðại Sĩ mà xứng tánh giảng thẳng vào diệu pháp Nhất Thừa. Cuối kinh, Thiện Tài đến tham học với khắp các vị thiện tri thức. Sau khi chứng ngộ như chư Phật, Thiện Tài đồng tử được Phổ Hiền Bồ Tát giảng cho nghe mười đại nguyện vương. Bồ Tát dạy Thiện Tài và khắp Hoa Nghiêm hải chúng hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới ngõ hầu được viên mãn Phật Quả.
Trong Quán Kinh, phần nói về hạ phẩm hạ sanh, kẻ Ngũ Nghịch, Thập Ác trọn đủ các điều bất thiện, lúc lâm chung, tướng địa ngục hiện ra, có thiện tri thức dạy kẻ ấy niệm Phật. Kẻ ấy liền vâng lời dạy, xưng niệm danh hiệu Phật, chưa đầy mười tiếng liền thấy Hóa Thân Phật xòe tay tiếp dẫn vãng sanh.
Kinh Ðại Tập dạy: “Ðời Mạt Pháp ức ức người tu hành, hiếm có một người đắc đạo. Chỉ có nương vào Niệm Phật thì mới thoát khỏi sanh tử”. Do vậy, ta biết pháp Niệm Phật là đạo để thượng thánh hạ phàm cùng tu, là pháp dù trí hay ngu đều có thể hành. Thực hiện dễ, thành công cao, dùng sức ít, nhưng đạt được hiệu quả nhanh chóng. Do chuyên cậy vào Phật lực, nên lợi ích thù thắng, vượt trội những giáo pháp thông thường. Người xưa nói: “Các môn khác học đạo như kiến bò lên núi cao. Niệm Phật vãng sanh như căng buồm thuận gió, nước xuôi”, thật rất khéo hình dung vậy!
* Ðại Giác Thế Tôn thương các chúng sanh mê trái tự tâm, luân hồi lục đạo, trải bao kiếp dài lâu chưa thể thoát ra. Do vậy, Ngài hưng khởi Vô Duyên Từ, vận lòng Bi đồng thể, thị hiện sanh trong thế gian, thành Ðẳng Chánh Giác, tùy thuận cơ nghi, nói rộng các pháp. Nói đại cương, gồm có năm tông. Năm tông gì? Là Luật, là Giáo, là Thiền, là Mật, là Tịnh. Luật là thân Phật, Giáo là lời Phật, Thiền là tâm Phật. Sở dĩ Phật được gọi là Phật, chỉ là do ba pháp này mà thôi. Sở dĩ đức Phật độ sanh, cũng chỉ là do ba pháp này. Nếu chúng sanh thật sự có thể nương theo Luật, Giáo, Thiền để tu trì thì ba nghiệp của chúng sanh sẽ chuyển thành ba nghiệp của chư Phật. Ba nghiệp đã chuyển thì phiền não chính là Bồ Ðề, sanh tử chính là Niết Bàn.
Lại sợ túc nghiệp sâu nặng chẳng thể dễ chuyển, nên dùng sức đà-ra-ni tam mật gia trì để un đúc; giống như tò vò dặn dò sâu minh linh: “Giống ta, giống ta”, bảy ngày sau [minh linh] sẽ biến thành tò vò. Hoặc lại sợ rằng căn khí kém cỏi, chưa thể giải thoát, phải thọ sanh lần nữa, sẽ khó tránh khỏi mê lầm; vì thế, đặc biệt mở ra một môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ, ngõ hầu dù thánh hay phàm đều cùng vãng sanh Tây Phương ngay trong đời này. Bậc thánh bèn mau chứng Vô Thượng Bồ Ðề, kẻ phàm vĩnh viễn thoát khỏi sanh tử trói buộc. Do dựa vào từ lực của Phật, nên công đức, lợi ích chẳng thể nghĩ bàn.
Hãy nên biết rằng: Luật là nền tảng của Giáo, Thiền, Tịnh, Mật. Nếu chẳng nghiêm trì giới cấm, sẽ chẳng thể đạt được lợi ích chân thật nơi Giáo, Thiền, Tịnh, Mật. Như lầu cao vạn trượng, nếu nền móng chẳng vững thì chưa cất xong đã sụp. Tịnh là chỗ quy túc của Giáo, Thiền, Tịnh, Mật, như trăm sông, vạn dòng đều đổ vào biển cả. Bởi lẽ, pháp môn Tịnh Ðộ là pháp môn để mười phương chư Phật trên thành Phật đạo, dưới độ chúng sanh, thành thỉ, thành chung. Vì thế trong phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài được ngài Phổ Hiền gia bị, khai thị, chứng Ðẳng Giác. Ðức Phổ Hiền lại khuyên Thiện Tài hãy nên phát mười đại nguyện vương, hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, ngõ hầu mau viên mãn Phật Quả. Ngài lại dùng pháp này phổ khuyến toàn bộ Hoa Tạng đại chúng [hãy nên tu tập như thế].
Trong Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, phần nói về Hạ Phẩm Hạ Sanh, hạng người Ngũ Nghịch, Thập Ác, sắp đọa địa ngục A Tỳ, được thiện tri thức dạy niệm Phật, niệm mười tiếng hoặc chỉ niệm mấy tiếng bèn mạng chung, vẫn được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương.
Xem đó thì trên từ bậc Ðẳng Giác Bồ Tát chẳng thể ra khỏi pháp này, dưới đến kẻ tội Ngũ Nghịch, Thập Ác cũng có thể chứng nhập pháp này. Công đức, lợi ích của pháp môn này vượt trỗi [các giáo pháp khác trong] cả một đời giáo hóa của đức Phật. Bởi lẽ, các giáo pháp khác hoàn toàn dạy dùng tự lực để thoát ly sanh tử. Kẻ chưa đoạn Hoặc, nương vào từ lực của Phật, liền có thể đới nghiệp vãng sanh. Kẻ đã đoạn Hoặc, nếu nương theo từ lực của Phật, sẽ mau lên địa vị cao hơn.
Vì thế, đây là một pháp môn đặc biệt nhất trong cả một đời giáo hóa của đức Phật, chẳng thể dùng những giáo pháp thông thường để bàn luận pháp này được! Do đó, các kinh Ðại Thừa như kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa v.v..., các đại Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, các đại tổ sư như Long Thọ, Mã Minh... đều hiển thị, xiển dương, khen ngợi, chỉ dạy, khuyên khắp mọi người vãng sanh.
* Ðức Di Ðà, đức Thích Ca trong những kiếp xưa, phát đại thệ nguyện độ thoát chúng sanh. Vị này thì thị hiện sanh trong uế độ, dùng nhơ, dùng khổ để chiết phục, hòng đưa chúng sanh đi. Vị kia thì an cư Tịnh Ðộ, dùng tịnh, dùng vui nhiếp thọ để lôi kéo, uốn nắn.
Ông chỉ thấy ngu phu, ngu phụ cũng có thể niệm Phật, bèn coi thường Tịnh Ðộ; sao chẳng thấy trong phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm, sau khi Thiện Tài đã chứng ngộ ngang với chư Phật thì Phổ Hiền Bồ Tát bèn chỉ dạy phát khởi mười đại nguyện vương, hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới hòng viên mãn Phật Quả? Huống hồ Bồ Tát còn đem pháp này khuyên khắp cả Hoa Tạng hải chúng nữa? Hoa Tạng Hải Chúng không một ai là phàm phu hay Nhị Thừa, mà toàn là Pháp Thân Ðại Sĩ thuộc bốn mươi mốt địa vị, cùng phá vô minh, cùng chứng pháp tánh, đều có thể do bổn nguyện mà hiện làm Phật trong thế giới không có Phật.
Hơn nữa, trong biển Hoa Tạng, tịnh độ vô lượng, nhưng ai nấy đều hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đủ biết là vãng sanh Cực Lạc chính là huyền môn để thoát khổ, là đường tắt để thành Phật. Vì thế, từ xưa tới nay, trong tất cả tùng lâm Thiền, Giáo, Luật, không đâu chẳng sớm chiều trì danh hiệu Phật cầu sanh Tây Phương vậy.
* Hết thảy chúng sanh vốn sẵn có trí huệ, đức tướng Như Lai. Chỉ do mê chân theo vọng, quay lưng với Giác, xuôi theo trần lao, nên toàn thể chuyển thành phiền não, ác nghiệp. Vì thế, phải trải bao kiếp dài lâu, luân hồi sanh tử. Như Lai thương xót giảng ra các pháp, khiến họ bỏ vọng, quy chân, ngoảnh mặt với trần lao, xuôi theo giác ngộ, khiến cho toàn thể phiền não ác nghiệp lại trở thành trí huệ, đức tướng. Từ đây cho đến cùng tột đời vị lai, an trụ trong cõi Thường Tịch Quang. Khác nào nước đóng thành băng, băng lại tan thành nước. Thể vốn chẳng khác, nhưng công dụng thật sự khác nhau một trời một vực.
Nhưng căn cơ chúng sanh có Tiểu, có Ðại, mê có cạn, có sâu; Phật tùy thuận cơ nghi của mỗi người ngõ hầu ai nấy đều được lợi ích. Pháp môn Ngài nói ra mênh mông như Hằng sa, nhưng ở trong ấy, cầu lấy pháp chí viên, chí đốn, tối diệu, tối huyền, thực hiện dễ, thành công cao, dùng sức ít, được hiệu quả nhanh, độ khắp ba căn, thống nhiếp các pháp, thượng thánh hạ phàm cùng chung tu, đại cơ cùng tiểu căn cùng có thể lãnh thọ thì không gì thù thắng, siêu tuyệt bằng pháp môn Tịnh Ðộ. Vì sao nói như thế?
Hết thảy các pháp môn tuy đốn, tiệm khác nhau, quyền, thật đều khác, nhưng đều phải dụng công tu tập sâu xa mới hòng đoạn Hoặc, chứng Chân, xuất ly sanh tử, siêu phàm nhập thánh. Ðó gọi là hoàn toàn cậy vào tự lực, không nương dựa vào điều gì khác. Nếu như còn có chút Hoặc chưa tận, thì vẫn bị luân hồi như cũ. Ðấy đều là [trong các pháp môn khác] phải thấu đạt lý rất sâu, chẳng dễ tu tập. Nếu chẳng phải là hạng sẵn có linh căn từ trước, đời này thật khó lòng chứng nhập. Chỉ có pháp môn Tịnh Ðộ, bất luận phú quý hay bần tiện, già, trẻ, gái, trai, trí, ngu, tăng, tục, sĩ, nông, công, thương, hết thảy hạng người đều có thể tu tập là do đại bi nguyện lực của A Di Ðà Phật nhiếp thủ chúng sanh khổ não cõi Sa Bà. Vì thế, so với các pháp môn khác, tu Tịnh Ðộ đắc quả dễ dàng hơn.
* Một niệm tâm tánh của chúng sanh và một niệm tâm tánh của Phật chẳng hai. Tuy còn mê chưa giác, khởi Hoặc tạo nghiệp, gây đủ các tội, Phật tánh sẵn có vẫn không bị tổn thất. Ví như ma-ni bảo châu vứt trong nhà xí, sánh cùng phân nhơ trọn chẳng khác gì. Kẻ ngu chẳng biết là vật báu, coi giống hệt như phẩn uế. Người trí biết là diệu bảo vô giá, chẳng hiềm ô uế, ắt vào trong nhà xí nhặt lên, dùng đủ mọi cách gột rửa cho sạch. Sau đó, treo lên tràng cao, châu liền phóng đại quang minh, tùy lòng người muốn gì đều tuôn khắp các thứ báu. Bởi đó, kẻ ngu mới biết là quý báu.
Ðại Giác Thế Tôn thấy các chúng sanh cũng giống như vậy: Do hôn mê, điên đảo, Hoặc (phiền não), tạo đủ các nghiệp Ngũ Nghịch, Thập Ác, vĩnh viễn đọa trong đường ác tam đồ; Phật không hề có tâm niệm vứt bỏ, luôn tìm kiếm cơ duyên, hiển nhiên hoặc ngấm ngầm gia bị, vì họ thuyết pháp, mong họ giũ sạch Hoặc nghiệp huyễn vọng, ngộ Phật tánh chân thường, mãi cho đến khi viên chứng Vô Thượng Bồ Ðề mới thôi. Ðối với kẻ tội tày đình, ác cùng cực, cũng vẫn như vậy. Với kẻ tội nghiệp ít, dạy họ tu Giới và Thiện. Với người có sức Thiền Định sâu, không một ai là chẳng [được Phật hóa độ] như vậy.
Phàm là trong tam giới, người nhiếp được tâm, chế ngự các phiền hoặc, nhưng còn chấp thân, tình chủng vẫn còn; một khi phước báo hết, sanh xuống cõi dưới, gặp cảnh, đụng duyên, lại khởi Hoặc, tạo nghiệp. Do nghiệp cảm khổ, luân hồi lục đạo không lúc nào xong! Vì thế, kinh Pháp Hoa bảo: “Ba cõi không an giống như nhà cháy. Các khổ đầy dẫy, thật đáng sợ hãi”. Nếu chẳng phải là kẻ nghiệp tận, tình không, đoạn Hoặc, chứng Chân, thì chẳng có hy vọng thoát khỏi tam giới.
Nay chỉ có mỗi pháp môn Tịnh Ðộ, cốt sao có lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, trì danh hiệu Phật, liền có thể nương Phật từ lực vãng sanh Tây Phương. Ðã được vãng sanh, liền nhập cảnh giới Phật, thụ dụng như Phật, hai thứ phàm tình và thánh kiến đều chẳng sanh. Thật là ngàn phần ổn thỏa, vạn phần thích đáng, là pháp môn vạn phần chẳng thể bỏ sót vậy. Nay đang lúc Mạt Pháp mà bỏ pháp môn này thì không còn có cách nào khác cả!
* Phật quang chính là bản thể trí huệ có sẵn ngay trong tâm của phàm, thánh, chúng sanh và Phật trong mười pháp giới. Bản thể ấy linh thông, sáng suốt, rỗng rang, thấu triệt, trong lặng, thường hằng, bất sanh, bất diệt, vô thỉ, vô chung, theo chiều dọc tột cùng ba đời, nhưng ba đời bởi đó mà mất hết, theo chiều ngang trọn khắp mười phương, nhưng mười phương bởi đó mà tiêu sạch. Nếu bảo là Không thì vạn đức cùng hiển bày trọn vẹn. Nếu bảo là Có thì mảy trần chẳng lập. Chính là hết thảy các pháp, nhưng lìa hết thảy tướng. Tại phàm chẳng giảm, nơi thánh chẳng tăng. Dù có Ngũ Nhãn cũng chẳng thấy được, dẫu có Tứ Biện Tài cũng chẳng diễn tả được; nhưng pháp nào cũng phải nương vào sức nó, chỗ nào cũng gặp nó cả.
Nhưng do chúng sanh chưa triệt ngộ, nên không chỉ chẳng thể thụ dụng; trái lại, còn dùng sức chẳng thể nghĩ bàn ấy để khởi Hoặc, tạo nghiệp. Do nghiệp cảm khổ, đến nỗi sanh tử, luân hồi không lúc nào xong, dùng chân tâm thường trụ để nhận lãnh huyễn báo sanh diệt. Ví như đang say thấy nhà cửa quay cuồng, nhà thật sự chẳng quay; do mê bảo là phương vị di chuyển, phương vị thật sự chẳng dời động! Toàn là do vọng nghiệp hóa hiện, trọn không có pháp nào để đạt được cả!
Vì thế, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn thị hiện thành Phật đạo, lúc Ngài chứng ngộ triệt để Phật quang, bèn than: “Lạ thay! Lạ thay! Hết thảy chúng sanh đều có đủ trí huệ và đức tướng của Như Lai; chỉ vì vọng tưởng, chấp trước, nên chẳng thể chứng đắc. Nếu lìa được vọng tưởng thì Nhất Thiết Trí, Tự Nhiên Trí, Vô Ngại Trí sẽ được hiện tiền”.
Kinh Lăng Nghiêm chép: “Diệu tánh viên minh lìa các danh tướng, vốn chẳng có thế giới, chúng sanh. Do vọng mà có sanh; do sanh, nên có diệt. ‘Sanh diệt’ gọi là Vọng. ‘Diệt vọng’ gọi là Chân. Ðấy gọi là Như Lai Vô Thượng Bồ Ðề hay Ðại Niết Bàn, hai danh hiệu sử dụng lẫn nhau”.
Ngài Bàn Sơn nói: “Một mảnh trăng tâm lưỡi liềm, nuốt mất ánh sáng muôn vật. Tâm chẳng chiếu cảnh, cảnh cũng chẳng còn. Tâm, cảnh cùng mất, còn là vật gì?”.
Ngài Quy Sơn nói: “Linh quang riêng chiếu, thoát khỏi căn - trần. Thể lộ chân thường, chẳng trói buộc bởi văn tự. Tâm tánh chẳng nhiễm, vốn tự viên thành. Chỉ lìa vọng niệm, bèn chính là Như Như Phật”.
Do đấy, biết rằng mọi ngôn giáo của Phật, Tổ, không lời nào chẳng nhằm chỉ bày tâm tánh sẵn có của chúng sanh, khiến cho họ bỏ mê trở về ngộ, phản bổn hoàn nguyên (trở về nguồn gốc) đó thôi! Nhưng chúng sanh căn cơ có sâu cạn, mê có dầy mỏng, nếu chẳng nhọc nhằn dùng mọi thứ ngôn giáo để khai thị, chỉ dẫn, dùng các thứ pháp môn để đối trị thì mỗi người nhờ đâu mới nhìn xuyên mây mê che lấp tánh Không, thấy thấu triệt vầng tâm nguyệt?
Bởi thế, lúc đức Như Lai mới thành đạo, trước hết Ngài diễn giảng Ðại Hoa Nghiêm, luận thẳng vào đại pháp vượt ngoài cửu giới, chẳng xen lẫn với pháp Quyền, Tiểu, ngõ hầu những hàng đại cơ túc căn thành thục đều chứng Chân Thường, vượt lên bến Giác. Lại do độn căn chúng sanh chưa được hưởng lợi ích, Phật liền khéo dẫn dụ dần dần, tùy cơ diễn thuyết, hoặc dùng Ngũ Giới, Thập Thiện để nhiếp phục hai thừa nhân, thiên, khiến họ gieo nhân Phật đạo thù thắng; hoặc là dùng Tứ Ðế, Thập Nhị Nhân Duyên, Lục Ðộ Vạn Hạnh để nhiếp phục ba thừa Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, khiến họ chứng được cận duyên của Phật đạo.
Bắt đầu từ thời A Hàm cho đến thời Bát Nhã, không kinh nào là chẳng tuyên thuyết thuận theo căn tánh của chúng sanh, khiến cho họ lần lượt tiến dần trên đường về nhà. Bổn hoài của Phật vẫn giữ kín chưa nói. Mãi đến thời Pháp Hoa, Phật mới khai Quyền hiển Thật, khai Tích hiển Bổn[10], nhân, thiên, quyền, tiểu đều là Nhất Thừa, khách làm thuê hèn hạ thật sự là con ông trưởng giả! Ba căn đều được thọ ký, phô bày trọn vẹn bổn hoài xuất thế, [hội Pháp Hoa cuối cùng] và hội Hoa Nghiêm ban sơ, đầu cuối chiếu rọi lẫn nhau. Có thể nói là một đại sự nhân duyên đã được giao phó trọn vẹn, không còn giấu diếm chút gì.
Lại vì chúng sanh đời Mạt căn cơ hèn kém, thật sự chẳng người nào có thể đoạn Hoặc chứng Chân. Vì thế, Phật đặc biệt mở ra một môn Tịnh Ðộ, hòng thượng, trung, hạ căn, dù phàm hay thánh, cùng lìa khỏi Sa Bà, sanh về Cực Lạc ngay trong đời này, chứng dần dần vô lượng quang thọ. Lòng từ bi sâu xa to lớn quả thật tột bậc, không còn gì hơn được nữa!
* Phật pháp rộng sâu như biển cả. Kẻ phàm phu sát đất há có thể một hơi hút sạch tận nguồn, cạn đáy ư? Tuy nhiên, nếu có thể sanh tâm chánh tín, sẽ tự có thể tùy theo sức mình mà được hưởng lợi ích. Ví như Tu La, hương tượng và các loài muỗi mòng cùng uống nước biển cả; loài nào, loài nấy uống no mới thôi. Ðức Như Lai xuất thế tùy thuận chúng sanh thuyết pháp, khiến cho mỗi loài đạt được lợi ích cũng giống như thế. Chúng sanh đời Mạt nghiệp chướng sâu dầy, thiện căn cạn mỏng, tâm trí hẹp kém, thọ mạng ngắn ngủi. Ðã thế, tri thức ít ỏi, ma tà, ngoại đạo tung hoành. Tu các pháp môn khác mà muốn đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử ngay trong hiện đời, đúng là một việc hy hữu cực khó. Chỉ riêng pháp Tịnh Ðộ chuyên cậy vào Phật lực. Thế nên chẳng cần biết đến Ðoạn, Chứng, chỉ trọng Tín Nguyện. Nếu có đủ tín nguyện, dẫu là hạng tội ác cực đại, sắp đọa A Tỳ địa ngục, vẫn có thể nương vào sức thập niệm, mau chóng được Phật từ tiếp dẫn vãng sanh. Ôi! Như Lai đại từ phổ độ chẳng bỏ sót một ai. Chỉ có mỗi pháp này tóm thâu trọn khắp nhất!
* Pháp môn Niệm Phật nguyên lai ra sao? Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng, bất biến. Tuy thường hằng, bất biến, nhưng lại niệm niệm tùy duyên. Nếu chẳng duyên theo Phật giới, sẽ duyên theo cửu giới. Chẳng duyên theo tam thừa, sẽ duyên theo lục đạo. Chẳng duyên theo nhân thiên, ắt sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên theo nhiễm, tịnh sai khác, nên trở thành quả báo sướng, khổ khác xa.
Dù bản thể trọn chẳng biến đổi, nhưng Tướng và Dụng dĩ nhiên khác biệt một trời, một vực! Ví như hư không, mặt trời chiếu thì sáng, mây đùn thì tối. Tuy bản thể của hư không chẳng vì mặt trời hay mây mà tăng, giảm, nhưng tướng trạng hiện rõ hay ngăn che, cố nhiên chẳng thể nói là cá mè một lứa. Do nghĩa này, Như Lai dạy mọi chúng sanh duyên niệm nơi Phật. Vì thế mới nói: “Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật thì hiện tại, tương lai nhất định thấy Phật, cách Phật chẳng xa”. Lại nói: “Chư Phật Như Lai là pháp giới thân vào trong tâm tưởng của hết thảy chúng sanh. Vì thế, lúc tâm các ngươi tưởng Phật thì tâm ấy chính là ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp phụ. Tâm này làm Phật, tâm này là Phật. Biển Chánh Biến Tri của chư Phật sanh từ tâm tưởng”.
Hễ duyên theo Phật giới thì tâm này làm Phật, tâm này là Phật. Nếu duyên theo các giới chúng sanh thì tâm này làm chúng sanh, tâm này là chúng sanh. Ðã hiểu như vậy rồi mà vẫn chẳng niệm Phật, đúng là chuyện chưa từng có! Pháp Niệm Phật lấy vạn đức hồng danh của Như Lai làm duyên, mà vạn đức hồng danh ấy chính là Vô Thượng Giác Ðạo do đức Như Lai đã chứng khi Ngài đắc quả. Do lấy Quả Ðịa Giác (sự giác ngộ khi đã chứng quả) làm Nhân Ðịa Tâm (cái tâm dùng để tu nhân), cho nên Nhân trùm biển Quả, Quả thấu tột nguồn Nhân. Như người nhiễm hương, thân có mùi thơm; như tò vò nuôi nhện, lâu ngày hóa tò vò con[11]. Thành Phật ngay trong đời này, chuyển phàm thành thánh; công năng và lực dụng của pháp này vượt xa hết thảy các pháp môn khác trong cả một đời giáo hóa của đức Phật. Bởi lẽ, các pháp môn khác đều cậy vào Tự Lực, phải đoạn Hoặc chứng Chân thì mới hòng liễu sanh thoát tử.
Pháp môn Niệm Phật: Tự Lực và Phật Lực cả hai cùng đủ. Bởi thế, người đã đoạn Hoặc Nghiệp sẽ mau chứng Pháp Thân. Người đầy dẫy Hoặc Nghiệp bèn đới nghiệp vãng sanh. Pháp này cực kỳ bình thường, dù là kẻ ngu phu, ngu phụ cũng được hưởng lợi ích; nhưng lại cực kỳ huyền diệu, dẫu là Ðẳng Giác Bồ Tát cũng chẳng thoát khỏi phạm vi của pháp này. Vì thế, không một ai là chẳng thể tu. Thực hiện dễ, thành công cao. Dùng sức ít, hiệu quả nhanh chóng. Đúng là pháp môn đặc biệt trong cả một đời giáo hóa của Như Lai. Bởi đó, chẳng thể dùng những giáo lý thông thường để bình luận, phán đoán được! Chúng sanh trong thời Mạt Pháp phước mỏng, huệ cạn, chướng dầy, nghiệp sâu, chẳng tu pháp này, toan cậy vào Tự Lực để đoạn Hoặc chứng Chân hòng liễu sanh tử, đúng là vạn nan, vạn nan!
* Kể từ Ðại Giáo truyền sang Ðông (ý nói Phật giáo truyền sang Trung Hoa), Lô Sơn hưng khởi Liên Xã, một xướng trăm hòa, không đâu chẳng thuận theo; nhưng những vị có đại công làm rạng rỡ Tịnh Tông thì đời Bắc Ngụy có ngài Ðàm Loan. Ngài Ðàm Loan là bậc chẳng thể suy lường nổi. Do có việc, Ngài phải xuống phương Nam gặp Lương Vũ Ðế; về sau Ngài về Bắc, Vũ Ðế thường hướng về phương Bắc cúi lạy, nói: “Loan Pháp Sư là bậc nhục thân Bồ Tát!”.
Ðời Trần - Tùy có ngài Trí Giả. Ðời Ðường có ngài Ðạo Xước, noi theo giáo pháp của ngài Ðàm Loan, chuyên tu Tịnh nghiệp, cả đời giảng ba kinh Tịnh Ðộ hơn hai trăm lượt. Từ môn đình ngài Ðạo Xước, có ngài Thiện Ðạo. Cho đến các vị Thừa Viễn, Pháp Chiếu, Thiếu Khang, Ðại Hạnh thì liên phong đã thổi khắp cả trung ngoại (trong và ngoài Trung Hoa). Do vậy, tri thức các tông không ai là chẳng dùng đạo này để mật tu (ngầm tu) hoặc hiển hóa (giáo hóa công khai), tự lợi, lợi tha.
Đối với nhà Thiền, nếu chỉ đề cao hướng thượng thì một pháp chẳng lập, Phật còn chẳng thèm bận tâm tới, huống là niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ? Ðấy là Chân Ðế: Một pháp đã mất, hết thảy đều mất. Nói “Thật Tế Lý Ðịa chẳng chấp nhận một mảy trần” là nói về Tánh Thể. Nếu luận đích xác về mặt tu trì thì lại chẳng bỏ một pháp nào, chẳng làm việc thì chẳng ăn, huống hồ niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ! Ðấy là Tục Ðế: Một pháp đã lập thì hết thảy đều lập.
Nói “Trong cửa Phật sự, chẳng bỏ một pháp” là nói về Tánh sẵn đủ vậy. Nếu toan bỏ Tục Ðế để luận Chân Ðế, sẽ chẳng phải là Chân Ðế, khác nào bỏ Tứ Đại, Ngũ Uẩn để tìm tâm tánh. Thân đã chẳng còn, tâm gởi vào đâu? Nếu dùng Tục Ðế để hiển Chân Ðế thì đích thực là Chân Ðế. Như ở nơi mắt thì bảo là thấy, ở tai gọi là nghe; tức là dùng Tứ Đại, Ngũ Uẩn để hiển tâm tánh.
Những điều vừa nói trên đây chính là ý chỉ lớn lao của việc chư Tổ ngầm tu Tịnh Ðộ; nhưng các Ngài chẳng giảng rộng, thuật rõ, nên nếu chẳng hiểu sâu xa ý Tổ, sẽ chẳng thể biết. Cứ theo như quy chế kỳ đảo cho những vị Tăng mắc bệnh và quy cách thiêu hóa, tống táng những vị đã mất do ngài Bách Trượng xác lập, ta thấy đều quy về Tịnh Ðộ.
Có vị nói: “Tu hành dùng niệm Phật là ổn thỏa, thích đáng”. Ngài Chân Hiệt Liễu bảo: “Pháp môn Tịnh Ðộ chính là để tiếp dẫn căn khí thượng thượng, chỉ kiêm tiếp dẫn căn khí trung hạ”. Ngài còn bảo: “Trong cả tông Tào Ðộng, hết thảy đều ngầm tu, vì tu Tịnh Ðộ thấy Phật giản dị hơn Tông Môn rất nhiều”. Ngài cũng bảo: “Dù Phật hay Tổ, dù Giáo hay Thiền, đều tu Tịnh Ðộ, đồng quy một nguồn”. [Những lời ấy] đủ cho ta thấy được đại khái [quan điểm của các thiền sư thuở ấy].
Cho đến ngài Vĩnh Minh đại sư, bản thân là Cổ Phật, do nương theo bổn nguyện mà xuất thế nên mới lưu lại ngôn giáo rõ ràng, soạn sách lưu truyền, hoằng dương. Ngài lại sợ người học chẳng hiểu rõ đường nẻo, lẫn lộn lợi hại, nên cực lực xướng ra bài kệ Tứ Liệu Giản; có thể nói [Tứ Liệu Giản] là cương tông của cả Ðại Tạng. Ngài làm bậc hướng đạo nơi đường rẽ, khiến cho người học chỉ trong tám mươi chữ đốn ngộ đạo trọng yếu thoát sanh tử, chứng Niết Bàn. Tấm lòng đau đáu cứu thế của Ngài đúng là ngàn đời chưa hề có!
Sau đấy, các tông sư đều lưu lại ngôn giáo rõ ràng, chuyên khen ngợi pháp này như các đại tổ sư Trường Lô Trách, Thiên Y Hoài, Viên Chiếu Bổn, Ðại Thông Bổn, Trung Phong Bổn, Thiên Như Tắc, Sở Thạch Kỳ, Không Cốc Long v.v... tuy hoằng dương Thiền Tông, vẫn chú trọng khen ngợi Tịnh Ðộ.
Ðến khi Liên Trì đại sư tham học với Tiếu Nham, sau khi đại ngộ, cân nhắc mọi bề, đề xướng: “Nếu Tịnh nghiệp đã thành, Thiền Tông sẽ tự chứng. Giống như tắm nơi biển cả là đã dùng nước của cả trăm sông. Thân đã đến điện Hàm Nguyên[12], cần gì hỏi Trường An đâu nữa!”. Sau đấy, các đại tổ sư Ngẫu Ích, Triệt Lưu, Tỉnh Am, Mộng Ðông v.v... không vị nào chẳng đề xướng như vậy. Bởi lẽ, lập cách hóa độ theo thời, pháp phải phù hợp căn cơ. Nếu không như thế, chúng sanh chẳng thể đắc độ!
Từ đấy về sau, Phật pháp suy dần, lại thêm quốc gia gặp lắm biến cố[13], pháp luân cơ hồ ngừng chuyển. Dù có bậc trí thức ra sức chống chọi, nhưng chẳng đủ sức, đến nỗi chẳng có ai hỏi đến đạo này. Nếu có ai bàn đến pháp này, người nghe cứ như đang bị làm phiền. May mà còn có một hai vị Tăng, Tục có đại tâm, in khắc lưu truyền, khiến cho những lời giáo huấn của chư Tổ chẳng bị diệt, khiến cho người ta được tạm nghe đến, quả thật chẳng còn gì may mắn hơn!
* Cho đến khi đại giáo truyền sang Ðông, Viễn Công đại sư (tổ Huệ Viễn) bèn dùng pháp này lập tông. Lúc đầu, Ngài muốn cùng đồng học là Huệ Vĩnh qua La Phù, nhưng bị pháp sư Ðạo An lưu lại. Ngài Huệ Vĩnh bèn một mình đi trước qua Tầm Dương. Thứ sử Ðào Phạm ngưỡng mộ đạo phong của Sư, bèn lập chùa Tây Lâm cho Ngài ở. Ðấy là năm Ðinh Sửu niên hiệu Thái Nguyên thứ hai (377) đời Hiếu Vũ Ðế nhà Ðông Tấn. Ðến năm Thái Nguyên thứ chín (Giáp Thân 384), Viễn Công mới đến Lô Sơn.
Thoạt đầu, Ngài trụ tại Tây Lâm, nhưng bạn tu tìm đến quá đông, chùa Tây Lâm chật hẹp không chứa nổi. Thứ sử Hoàn Y bèn bắt đầu dựng chùa tại phía Ðông núi, đặt tên là Ðông Lâm. Ðến ngày Hai Mươi Tám tháng Bảy năm Canh Dần (390 - Thái Nguyên thứ 15), Viễn Công bèn cùng tăng, tục một trăm hai mươi ba người, kết Liên Xã niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, sai ông Lưu Di Dân soạn bài văn khắc vào đá để nêu rõ thệ nguyện.
Pháp Sư Huệ Vĩnh cũng dự vào Liên Xã. Vĩnh công sống tại Tây Lâm, trong gian nhà tranh biệt lập trên đảnh núi. Khi ấy có người đi Thiền hành, đến bên thất Ngài, liền ngửi thấy mùi hương lạ, nhân đó đặt tên là Hương Cốc (hang thơm), như vậy thì suy ra sẽ biết Ngài là người như thế nào.
Lúc Viễn Công mới kết xã, có một trăm hai mươi ba người đều là bậc long tượng trong pháp môn, Thái Sơn - Bắc Ðẩu trong làng Nho. Do đạo phong của Viễn Công lan tỏa nên họ đều rủ nhau tìm tới. Nếu tính suốt cả hơn ba mươi năm trong đời Ngài thì số người dự vào Liên Xã tu Tịnh nghiệp, được tiếp dẫn vãng sanh rất nhiều, không thể tính nổi.
Sau này, các vị Ðàm Loan, Trí Giả, Ðạo Xước, Thiện Ðạo, Thanh Lương, Vĩnh Minh... không vị nào chẳng như thế, tự hành, dạy người. Ngài Ðàm Loan soạn Vãng Sanh Luận Chú diệu tuyệt cổ kim. Ngài Trí Giả viết Thập Nghi Luận, diễn giải đến tột cùng lẽ được mất. Ngài soạn Quán Kinh Sớ giảng sâu xa cách quán tưởng dựa trên Tam Đế. Ngài Ðạo Xước giảng ba kinh Tịnh Ðộ gần hai trăm lượt. Ngài Thiện Ðạo sớ giải ba kinh Tịnh Ðộ, cực lực khuyên chuyên tu. Ngài Thanh Lương sớ giải Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, nêu rõ rạng ngời đạo rốt ráo thành Phật. Ngài Vĩnh Minh nói Tứ Liệu Giản, chỉ thẳng pháp liễu thoát ngay trong đời này.
Từ xưa, các bậc cao nhân trong các tông, không vị nào lại chẳng hướng lòng về Tịnh Ðộ, chỉ có các tông sư nhà Thiền lại chuyên ngầm tu, nên không xiển dương rõ rệt. Từ sau khi ngài Vĩnh Minh xướng xuất, các vị mới lưu lại ngôn giáo rõ rệt, thiết tha khuyên tu trì. Vì thế, bài Khuyến Tu Tịnh Ðộ Văn của Tử Tâm Tân thiền sư có câu: “Di Ðà rất dễ niệm, Tịnh Ðộ thật dễ sanh”. Còn viết: “Người tham Thiền rất nên niệm Phật. Nếu căn cơ độn, chỉ e đời này chưa thể đại ngộ, phải nhờ vào Di Ðà nguyện lực tiếp dẫn vãng sanh”. Ngài còn viết: “Nếu ông niệm Phật mà chẳng sanh Tịnh Ðộ thì lão tăng sẽ đọa trong địa ngục kéo lưỡi”.
Tác phẩm Tịnh Ðộ Thuyết của thiền sư Chân Hiệt Liễu có câu: “Cả một tông Tào Ðộng thảy đều chú trọng ngầm tu. Vì sao vậy? Vì pháp môn Niệm Phật là đường tắt tu hành, thật sự căn cứ theo Ðại Tạng, tiếp dẫn căn khí thượng thượng, kiêm tiếp dẫn căn cơ trung, hạ”.
Ngài còn viết: “Bậc đại tượng trong Tông Môn đã ngộ pháp bất hữu bất không, bèn quyết chí khăng khăng nơi Tịnh nghiệp. Do Tịnh nghiệp thấy được Phật giản dị hơn Tông môn rất nhiều”.
Ngài còn nói: “Dù Phật hay Tổ, dù Giáo hay Thiền, đồng quy một nguồn. Nhập được pháp môn này thì vô lượng pháp môn thảy đều chứng nhập”.
Thiền sư Trường Lô Trách kết Liên Hoa Thắng Hội phổ khuyến tăng, tục niệm Phật cầu vãng sanh, cảm hai vị Bồ Tát Phổ Hiền và Phổ Huệ trong mộng đến xin dự hội. Sư liền để tên hai vị Bồ Tát đứng đầu hội. Ðủ thấy pháp này khế lý, khế cơ, chư thánh ngầm khen ngợi.
Trong hai triều Tống Thái Tông và Tống Chân Tông, pháp sư Tỉnh Thường trụ trì chùa Chiêu Khánh ở Chiết Giang, do hâm mộ đạo phong của tổ Lô Sơn Huệ Viễn, bèn lập Tịnh Hạnh Xã. Văn Chánh Công Vương Ðán quy y đầu tiên, làm người chủ xướng. Những bậc tể quan, quyền cao chức trọng, học sĩ, đại phu đều xưng là đệ tử, tham dự Tịnh Hạnh Xã đến hơn một trăm hai mươi người. Hàng sa-môn tham dự đến hơn ngàn người, còn thường dân chẳng thể tính nổi số.
Về sau, lại có Lộ Công Văn Ngạn Bác làm quan suốt bốn triều Nhân Tông, Anh Tông, Thần Tông, Triết Tông, xuất tướng, nhập tướng[14] hơn năm mươi năm, quan phẩm đến chức Thái Sư, được phong là Lộ Quốc Công. Ông Văn bình sinh dốc lòng tin Phật pháp, tuổi già càng tận lực hỗ trợ đạo pháp, chuyên niệm A Di Ðà Phật. Sáng, chiều, đi, đứng, chưa từng thiếu sót, lười nhác. Ông cùng với pháp sư Tịnh Nghiêm kết xã mười vạn người ở kinh đô để cầu sanh Tịnh Ðộ. Phần lớn các sĩ đại phu thời ấy đều được ông giáo hóa. Ông có bài tụng như sau:
Tri quân khí đảm đại như thiên,
Nguyện kết Tây Phương thập vạn duyên,
Bất vị tự thân cầu kế hoạt,
Ðại gia tề thượng độ đầu thuyền.

(Tạm dịch:
Biết ngài lớn mật bằng trời,
Xin cùng Tịnh Ðộ kết mười vạn duyên,
Cứu thân nào tính kế riêng,
Ai ai đều đã bước lên thuyền rồi!)
Ông thọ đến chín mươi hai tuổi, niệm Phật qua đời.
Ðời Nguyên - Minh thì có các ngài Trung Phong, Thiên Như, Sở Thạch, Diệu Hiệp. Mỗi vị để lại thi ca, hoặc tạo luận giải thích, không vị nào là chẳng cực lực xiển dương pháp khế lý, khế cơ, suốt trên, tột dưới này; nhưng các vị Liên Trì, U Khê, Ngẫu Ích là những người thành khẩn, thiết tha tột bực nhất.
Ðời Thanh có ngài Phạm Thiên Tư Tề và Hồng Loa Triệt Ngộ đều tận lực hoằng dương đạo này. Các tác phẩm Khuyến Phát Bồ Ðề Tâm Văn của ngài Phạm Thiên, Thị Chúng Pháp Ngữ của ngài Hồng Loa có thể nói là những tác phẩm tiếp nối chí nguyện cổ thánh, khai phát kẻ học trong mai sau, kinh thiên địa, động quỷ thần. Nếu người học thật sự có thể hành theo đó, không ai chẳng giã biệt Sa Bà, cao đăng Cực Lạc, làm đệ tử của Phật Di Ðà, làm bạn hiền trong Hải Hội.
* Cho đến khi nào căn cơ của chúng sanh hết sạch, đức Như Lai mới nghỉ ngơi, nhưng lòng đại bi lợi sanh của Phật chẳng bao giờ cùng tận. Do đó, các vị đại đệ tử phân phát xá-lợi, kết tập Kinh Tạng mong được lưu thông khắp mọi cõi, ngõ hầu tất cả đều được Phật pháp thấm nhuần. Mãi đến đời Ðông Hán, đại giáo mới bắt đầu truyền đến [Trung Quốc], nhưng do phong khí chưa mở mang nên chỉ lưu thông ở phương Bắc. Ðến đời Tôn Ngô, vào năm Xích Ô thứ tư (241), tôn giả Khang Tăng Khải sang giáo hóa tại Kiến Nghiệp, cảm được xá-lợi của Như Lai giáng lâm, khiến cho Tôn Quyền sanh lòng tin tưởng tột bậc. Họ Tôn bèn sửa chùa, dựng tháp để hoằng dương pháp hóa. Phương Nam bắt đầu được thụ hưởng giáo pháp từ đấy.
Ðến đời Tấn, giáo pháp lan khắp các nước Cao Ly, Nhật Bản, Miến Ðiện, An Nam, Tây Tạng, Mông Cổ. Từ đấy về sau, ngày càng hưng thịnh. Ðến đời Ðường, các tông đã thành lập đầy đủ, có thể nói là cực thịnh. Các tông Thiên Thai, Hiền Thủ, Từ Ân hoằng Giáo. Lâm Tế, Tào Ðộng, Quy Ngưỡng, Vân Môn, Pháp Nhãn hoằng Tông. Nam Sơn thì nghiêm tịnh Tỳ Ni (Luật). Liên Tông chuyên tu Tịnh Ðộ. Giống như các bộ chia nhau coi sóc công việc, hệt như sáu căn hỗ trợ nhau. Ấy là vì Giáo là lời Phật, Tông là tâm Phật, Luật là hạnh Phật. Tâm, ngữ, hạnh, ba thứ khó thể tách rời, chỉ là ước trên phương diện chú trọng vào mặt nào mà lập danh.
Chỉ riêng pháp Tịnh Ðộ thoạt nhìn thì là phương tiện để phàm phu nhập đạo, nhưng thật ra, nó là chỗ quy túc rốt ráo của các tông. Bởi thế, kẻ sắp đọa A Tỳ được dự vào phẩm chót, bậc đã chứng ngộ ngang với chư Phật vẫn cầu vãng sanh. Lúc đức Như Lai còn tại thế, ngàn căn cơ cùng được nuôi dưỡng, vạn phái đều quy hướng. Sau khi Phật diệt độ, bậc đại sĩ hoằng pháp ai nấy chỉ hoằng dương một pháp để mong thâm nhập một môn, chư pháp đều dung thông. Ví như ngàn hạt châu nơi cái lưới của Ðế Thích, mỗi hạt châu chẳng lẫn vào nhau, nhưng ánh sáng của mỗi hạt châu lại chiếu vào hàng ngàn hạt châu khác, ánh sáng của ngàn hạt châu chiếu vào một hạt châu. Soi rọi lẫn nhau nhưng chẳng tạp, riêng biệt nhưng chẳng thể tách lìa. Kẻ câu nệ vào Tích thì bảo: “Hết thảy các pháp, mỗi pháp đều sai khác”. Kẻ khéo hiểu sẽ nói: “Hết thảy các pháp, các pháp viên thông”. Như bốn cửa thành, gần cửa nào bèn theo cửa đó mà vào. Cửa tuy khác nhau, nhưng vào thành chẳng khác. Nếu biết ý này thì chẳng phải chỉ có những giáo lý rất sâu do chư Phật, chư Tổ đã nói mới là pháp để “quy chân đạt bổn” (thấu hiểu một cách chân thật, thông đạt tận nguồn cội), minh tâm kiến tánh, mà hết thảy Ấm, Nhập, Xứ, Giới, Ðại v.v... trong khắp thế gian cũng đều là pháp để quy chân đạt bổn, minh tâm kiến tánh! Mà mỗi một pháp cũng chính là chân, là bổn, là tâm, là tánh!
Bởi vậy, kinh Lăng Nghiêm coi Ngũ Ấm, Lục Nhập, Thập Nhị Xứ, Thập Bát Giới, Thất Ðại đều là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh. Vì thế bảo rằng: Hết thảy các pháp không pháp nào chẳng phải là Phật pháp, cũng như không một ai chẳng phải là Phật. Hiềm rằng chúng sanh châu đeo trong vạt áo, trọn chẳng hay biết, ôm của báu đi ăn xin, chịu khốn cùng oan uổng. Dùng tâm Như Lai tạo nghiệp chúng sanh, dùng pháp giải thoát chịu khổ luân hồi, đáng thương lắm thay! Vì thế, bậc đại sĩ hoằng pháp chẳng nề gian nan, cay đắng, dùng đủ mọi phương tiện để khai ngộ, dẫn dắt, khiến cho chúng sanh hiểu đúng Sự Lý, nhân quả của mười pháp giới, triệt ngộ tự tánh nơi tâm này, ngõ hầu viên chứng rốt ráo.
Từ Ðường, sang Tống, sang Nguyên, sang Minh, đến Thanh, cả một ngàn năm, thanh giáo[15] chẳng khuất lấp. Dẫu chẳng hưng thịnh bằng thời Ðường, nhưng cũng có thể nói là suýt soát. Từ đời Hàm Phong, Ðồng Trị trở đi, chiến tranh liên miên, đói kém liên tiếp, cao nhân ngày một hiếm hoi, kẻ dung tục ngày càng nhiều, quốc gia chẳng bận tâm đề xướng, tăng lữ không có sức chấn hưng. Do đó, hàng cao nhân tại gia vì chưa từng nghiên cứu Phật pháp, lầm lạc phỏng theo khuôn sáo cũ của Âu - Hàn (Âu Dương Tu, Hàn Dũ), đến nỗi đạo pháp suy sụp sát đất. Mãi đến cuối đời Thanh, học vấn phát triển, những người có thiên tư cao tìm đọc kinh Phật mới hay gốc đạo chính là đây, mới bèn quyết chí nghiên cứu.


[1] Chín pháp giới là nhân, thiên, A Tu La, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, địa ngục, súc sanh và ngạ quỷ.
[2] Quần manh (群萌): Danh từ khác để gọi chúng sanh. Do chúng sanh đều có chủng tử thành Phật, nên dùng chữ “quần manh” để sánh ví họ sẵn có mầm mộng thành Phật.
[3] Tam Thừa là Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa và Bồ Tát Thừa. Ngũ Tánh là cách phân chia căn tánh của chúng sanh theo Pháp Tướng Tông:
1. Định Tánh Thanh Văn: Chúng sanh có vô lậu chủng tử sẽ chứng quả A La Hán.
2. Định Tánh Duyên Giác: Chúng sanh có vô lậu chủng tử sẽ thành Bích Chi Phật.
3. Định Tánh Bồ Tát: Chúng sanh có vô lậu chủng tử sẽ thành Phật quả.
4. Bất Định Tánh: Chủng tử không nhất định, có thể thuộc vào hai ba loại chủng tánh, tùy theo cơ duyên mà chứng quả.
5. Vô Tánh: Không có chủng tánh thành tựu quả vị trong Tam Thừa.
[4] Cực đàm: Đàm luận đến chỗ tột cùng, xứng tánh.
[5] Trung quốc: Không phải là Trung Hoa, mà có nghĩa là ở chính giữa đất nước, hoặc những vùng văn minh, đô hội, không sanh nơi biên cương, mọi rợ.
[6] Năm tông ở đây là Thiền, Giáo, Tịnh, Luật, Mật, không phải là năm tông trong Thiền gia.
[7] Lục Tức Thành Phật: Lục Tức là cách phán định các địa vị Phật của tông Thiên Thai bao gồm xứng lý, danh tự, tương tự, phần chứng, cứu cánh, và quán hạnh. Nói thô thiển, Lục Tức Thành Phật là phán định sự thành Phật từ Lý Tánh đến thật chứng. Chẳng hạn như: Xứng Lý Tức Thành Phật nghĩa là chúng sanh ai cũng sẵn có Phật Tánh, nên về mặt Lý, chúng sanh đều là Phật. Khi nhận hiểu rằng ai cũng có Phật tánh, tin chắc không nghi, nhưng chưa đoạn được phiền não, chưa chứng đạo quả, thì chỉ là Danh Tự Tức Thành Phật. Khi khởi công tu tập, đoạn dần phiền não thì gọi là Quán Hạnh Tức Thành Phật...
[8]Tức là kệ tán Phật A Di Ðà: A Di Ðà Phật thân kim sắc…
[9] Nguyên văn là “tân lương” (bến và cầu), nghĩa bóng là những hướng dẫn chỉ nam.
[10] Khai Tích hiển Bổn: Bổn là bản thể, Tích là hình tướng thị hiện. Ví như mặt trăng là Bổn, bóng trăng hiện trong các chỗ có nước là Tích. “Khai Tích hiển Bổn” là chỉ dạy về Pháp Thân, chỉ rõ Ứng Thân. Chẳng hạn trong hội Pháp Hoa, phẩm Như Lai Thọ Lượng, đức Phật chỉ rõ: Thân thuyết pháp trong cõi Sa Bà, thọ tám mươi tuổi là ứng thân thị hiện để dẫn dụ chúng sanh về đạo Nhất Thừa, chứ Pháp Thân của Phật thường trụ bất hoại. Không chỉ riêng thị hiện trong cõi Sa Bà, đức Phật còn thị hiện trong nhiều thế giới khác nhau, dùng nhiều danh hiệu khác nhau để hóa độ chúng sanh.
[11] Nguyên văn là “minh linh” (một loại sâu cắn lúa). Dịch là “nhện” để thuận theo câu ca dao “tò vò mà nuôi con nhện...”. Thật ra, tò vò bắt các loài sâu hay nhện, tiêm nọc cho chúng mê đi, nhưng vẫn sống, rồi bỏ vào ổ có chứa trứng tò vò con để làm mồi cho con. Ở đây, Tổ dùng ví dụ này do thuận theo cách hiểu của thế gian.
[12] Điện Hàm Nguyên là một cung điện nổi tiếng của nhà Đường ở kinh đô Trường An. Điện này được xây vào năm Long Sóc thứ ba (663), đây là nơi các vua nhà Đường thiết đại triều vào các dịp Nguyên Đán, Đông Chí v.v…
[13] Nguyên văn “Phát phỉ, Hồi phỉ”, tức là các cuộc biến loạn trong lịch sử Trung Hoa. “Phát phỉ” là giặc tóc dài, tức loạn Thái Bình Thiên Quốc do Hồng Tú Toàn lãnh đạo. Vì quân Thái Bình Thiên Quốc để tóc dài, không gọt đầu, thắt bím theo quy định của nhà Mãn Thanh, nên gọi là Trường Phát Phỉ (bọn giặc tóc dài), hay gọi tắt là Phát Phỉ. Hồi Phỉ là cuộc phiến loạn của dân theo đạo Hồi ở vùng Tân Cương, Cam Túc dưới thời vua Đồng Trị.
[14] Xuất tướng nhập tướng (出入将相): Chữ Tướng thứ nhất là tướng cầm quân, chữ Tướng thứ hai là thừa tướng. Tức là nói người đã từng cầm quân bên ngoài, sau về triều làm Thừa Tướng (Thái Sư). Hiểu theo nghĩa rộng là người dù làm quan tại các địa phương hay làm quan trong triều đình đều có địa vị cao tột.
[15] Thanh giáo: Giáo pháp của Phật. Do trong thế giới Sa Bà, đức Phật dùng âm thanh thuyết pháp, nên giáo pháp của Ngài còn gọi là Thanh Giáo.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này