Chương 6: Năm Khoa Mục (tt)_Sáu Nguyên Tắc Hòa Kính
NHẬN THỨC PHẬT GIÁO
Nguyên Tác: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Nguyên Tác: Lão Pháp Sư Tịnh Không
II. Sáu nguyên tắc hòa kính
Ba loại tịnh nghiệp là nguyên tắc cơ bản
cho cá nhân tu tập, trong khi Sáu nguyên tắc hòa kính (Lục hòa) là nền tảng cho
đại chúng tu tập. Tăng già[1]
là đoàn thể
gồm 4 vị tăng trở lên cùng cư trú tại một nơi và cùng nhau tu tập. Đức Phật chế
định sáu điều luật, gọi là Sáu nguyên tắc hòa kính (Lục hòa). Nếu đại chúng
tuân theo Sáu nguyên tắc hòa kính nầy, thì mới được gọi là Tăng đoàn, mới gọi
là đệ tử Phật. Sáu nguyên tắc đó là:
1. Cùng chia xẻ hiểu biết nhận thức về giáo lý
và tu tập (Kiến hòa đồng giải).
2. Cùng
sinh hoạt tu tập trong tinh thần giới luật (Giới
hòa đồng tu).
3. Cùng
chung sống trong tinh thần hòa hợp (Thân hòa đồng trú).
4. Không tranh cãi nhau (Khẩu hòa vô tránh).
5. Cùng chia xẻ những niềm vui, sự an lạc do
công phu tu tập (Ý hòa đồng duyệt).
6. Chia
đều cho nhau những lợi lạc (Lợi hòa
đồng quân).
Bất
luận những đoàn thể tu tập là người xuất gia hay cư sĩ đều phải biết rõ và tuân
thủ những nguyên tắc nầy:
1.
Cùng chia xẻ hiểu biết nhận thức về
giáo lý và tu tập (Kiến hòa đồng giải).
Trong một đoàn thể tu học cần phải có sự
chia xẻ những quan điểm về nguyên tắc hay phương pháp tu học, Đây là nền tảng
cho sự hòa hợp của đại chúng trong khi tu học.
Một
xã hội muốn duy trì được nền tảng, thì các thành viên cần phải sống hòa hợp. Chỉ
có hòa hợp mới làm cho chúng ta gần gũi nhau để chia xẻ những quan điểm, tư tưởng,
và phương pháp sinh hoạt. Nói cách khác, hòa hợp mới có thể làm giảm thiểu sự
cách biệt trong mối quan hệ giữa con người và làm phát sinh sự bình đẳng. Sau
đó mới có sự thanh thản và cuối cùng mới đạt được an lạc. Để có niềm an lạc,
chúng ta phải có thân tâm thanh tịnh. Nền giáo dục Phật giáo lẫn giáo dục thế
gian đều chú trọng vào sự hòa kính. Khổng Tử cũng dạy đệ tử trong Luận ngữ rằng:
‘Cái dụng của lễ, lấy hòa hợp làm quý’.[2]
Cách
đây vài năm tôi có dịp sang Bắc Kinh và đến thăm hoàng thành của triều Thanh thời
xưa, gồm ba tòa cung điện lớn, người Trung Hoa gọi là Kim Loan điện, nhưng thực
tế biển đề ở đó lại ghi là Thái Hòa điện.[3] Phía sau Thái Hòa điện là Trung Hòa điện,
phía sau Trung Hòa điện là Bảo Hòa điện. Quý vị nghĩ xem, cả ba tòa cung điện lớn
đều có chữ ‘hòa –和’. Đế vương triều Thanh đã dùng chữ ‘hòa –和’ để
trị thiên hạ. Tuy nhiên, đến cuối đời thì trong triều chính lại bất hòa nên mới
mất nước. Thế nên ‘hòa –和’ là điều cốt yếu để duy
trì an lạc hạnh phúc,
Đức
Phật Thích-Ca Mâu-Ni truyền dạy nhiều pháp môn nhưng không mong chúng ta phải
thử tất cả. Điều cần nhất là phải chọn một pháp môn thích hợp nhất với mình, và
cần nhớ rằng chìa khóa nằm ở chỗ tinh chuyên một pháp môn. Thời xưa, Tịnh độ
tông tu tập theo Tam kinh nhất luận, ngày nay chúng ta theo Ngũ kinh nhất luận.[4] Ba kinh là Kinh
Vô lượng thọ, Kinh Quán Vô lượng thọ, Kinh A-Di-Đà. Luận là Vô lượng thọ kinh Ưu-ba-đề-xá nguyện
sinh kệ. Vào giữa niên hiệu Hàm
Phong đời Thanh, Cư sĩ Ngụy Nguyên đem phẩm cuối trong Kinh Hoa Nghiêm là Phổ Hiền hạnh nguyện ghép thêm vào thành
bốn. Đến thời Dân quốc năm đầu tiên, Ấn Quang Đại sư lấy chương Bồ-tát Đại Thế
Chí niệm Phật viên thông trong Kinh
Thủ Lăng Nghiêm nhập vào thành
năm. Trong sách Tam tự kinh dành cho lớp đồng ấu ở Trung Hoa thời xưa có câu: ‘Giáo
chi đạo, quý dĩ chuyên – Đạo lý của
giáo dục quý là ở chuyên nhất’. Giả sử có người thích kinh Kinh Vô lượng thọ, trong khi người
khác lại thích Kinh A-Di-Đà. Liệu
hai nhóm người nầy hòa nhập thành một được chăng? Được nhưng họ không thể hòa hợp
trong khi tu tập, vì một nửa sẽ tụng Kinh
Vô lượng thọ và nửa kia tụng Kinh A-Di-Đà. Để có một nhóm thống nhất, cần
thiết phải có hai đạo tràng riêng biệt.
Điều
này giải thích lý do tại sao có rất nhiều đạo tràng mặc dù cùng là Tịnh độ
tông, cùng chọn một bộ kinh để tu nhưng lại theo nhiều bộ luận khác nhau, đó là
nguyên nhân phải lập nhiều đạo tràng. Như chúng ta cùng tu tập theo Kinh A-Di-Đà, nhưng có người y chiếu
theo tinh thần trong bộ Sớ sao của Liên Trì Đại sư để tu học, có người y
chiếu theo nội dung bộ Yếu giải của Ngẫu Ích Đại sư. Chuyện như vậy cũng xảy
ra khi quyết định niệm danh hiệu Phật như thế nào. Có người thích niệm thong thả
‘Nam mô A-Di-Đà Phật’, trong khi có người thích niệm thật nhanh ‘A-Di-Đà Phật’.
Thật là khó cho hai nhóm người nầy hòa hợp khi tu tập. Người tu trong các đạo
tràng thời xưa rất dễ thành tựu vì mọi người đều chia xẻ với nhau sự hiểu biết,
mục đích và phương pháp tu tập trong cùng pháp môn mà không trái nhau. Không
khí ở đạo tràng rất trang nghiêm thanh tịnh khiến mọi người mới đến đều tự
nhiên khởi tâm tôn kính.
Không
may, tình trạng chung trong các đạo tràng thời nay là giảng dạy nhiều pháp môn
pha trộn nhau. Hôm nay mời Pháp sư A đến giảng pháp môn nầy, ngày kia mời Pháp
sư B đến giảng pháp môn khác. Mâu thuẫn và xung đột nhau là điều không tránh khỏi.
Người tu khó chú tâm tu tập nên ít thành công. Rõ ràng cùng chia xẻ hiểu biết
nhận thức về giáo lý và tu tập (kiến
hòa đồng giải) là tinh thần cốt yếu trong một đạo tràng.
Nếu mọi
người trong một đoàn thể cùng chia xẻ hiểu biết nhận thức, chia xẻ niềm an lạc
và những điều quan tâm thì họ duy trì được sự hòa hợp. Trong tăng đoàn cũng vậy.
Tuy nhiên, một tăng đoàn cũng có thể bị phân hóa nếu những bất đồng ý kiến sinh
khởi. Như vậy sẽ có mâu thuẫn và chẳng ai thành tựu trong tu tập. Nên phải có
nhiều pháp môn để đáp ứng cho nhiều người tu tập. Ý nguyện của chư Phật là mong
mọi người với nhiều căn cơ, kiến giải khác nhau đều được thành công khi tu tập.
Nên nói mọi con đường đều dẫn về một mục đích, mọi pháp môn đều bình đẳng – Thù đồ đồng quy, pháp môn bình đẳng.
Đây là lòng từ bi rộng lớn của chư Phật, vì các ngài không bao giờ bắt buộc mọi
người chỉ tu tập một pháp môn.
Như
chúng ta đã biết trong Kinh Quán Vô lượng thọ, bà Vi-đề-hi bị quá nhiều
nỗi khổ ở thế gian nên cầu xin Đức Phật chỉ cho bà nơi nào không có cảnh khổ
đau. Thay vì chỉ ngay cho bà Tây phương Cực lạc, Đức Phật giới thiệu cho bà các
cõi Phật để bà chọn lựa. Không như chúng ta ngày nay cứ muốn người khác phải
theo ý mình, ‘Tôi đã tu pháp môn nầy. Hay lắm. Hãy tu đi!’ Nếu người kia có ý
kiến và quan điểm khác biệt thì sẽ đưa đến sự bất hòa trong đạo tràng và điều nầy
chúng ta phải đề phòng để tránh. Cách hay nhất để giới thiệu Phật pháp là trình
bày phương pháp tu tập và giáo lý Đại thừa rồi để cho mọi người tự chọn pháp
môn họ thích.
Những
người thích niệm Phật có thể tu tập với nhau, những người thích tu thiền có thể
cùng nhau hành trì. Theo cách nầy, mọi người đều có đạo tràng để tu tập và
không nhất thiết phải ép buộc người khác phải theo một pháp môn riêng biệt. Mọi
pháp môn đều bình đẳng và đều đáp ứng cho mọi nhu cầu, mọi căn cơ và trình độ
nhận thức. Mỗi tông phái nên tôn trọng và tán thán tông phái kia. Đây là chân
chính thực hành phép hòa kính thứ nhất.
2. Cùng
sinh hoạt tu tập trong tinh thần giới luật
(Giới hòa đồng tu).
Khi
chúng ta cùng sinh hoạt tu tập với
nhau, cần phải có quy luật vì nếu không thì sẽ rối loạn. Tất nhiên quy luật phải
lấy năm giới do Phật chế làm nền tảng. Có nhiều giới luật áp dụng cho cư sĩ,
chư Tăng ni và các đạo tràng. Năm giới áp dụng cho cư sĩ, Tăng ni có giới của
người xuất gia. Luật pháp và những tập quán địa phương cũng phải được tuân thủ.
Tất cả phải được đại chúng bàn bạc và thông qua để thành Thường trụ công ước của
tự viện. Một hoặc hai người được cử ra để soạn thảo, rồi trình bày trước đại
chúng để thảo luận và quyết nghị. Mỗi thành viên đều phải chấp hành công ước nầy
khi đã được đại chúng thông qua. Nếu mỗi thành viên đều tôn trọng và sống đúng
tinh thần đó thì sẽ không có bất hòa trong đại chúng, vì mọi người đều bình đẳng,
không ai có đặc quyền gì để ban phát cho người khác cả. Như vậy tăng già đích
thực là đoàn thể dân chủ, chân thực là những người trì giới thủ pháp.
3.
Cùng chung sống trong tinh thần hòa hợp
(Thân hòa đồng trú).
Mục đích của việc kiến lập đạo tràng là giúp cho
mọi người cùng nhau tu tập. Hoàn toàn không phải là giúp cho cá nhân người nào
trốn tránh trách nhiệm thế gian. Thật sai lầm khi nghĩ như vậy, đặc biệt từ cái
nhìn về các đạo tràng tiếp nhận vật phẩm cúng dường của tín thí. Thực tế là những
vật phẩm cúng dường nầy đều phải được hoàn trả, nếu không vào đời nầy thì đời
sau. Chung sống trong tinh thần hòa hợp không có nghĩa là mỗi người đều có một
phòng riêng. Sống xa xỉ và thuận lợi thì rất khó thành tựu khi tu tập. Sao vậy?
Kinh Địa Tạng nói, ‘Mỗi khi
chúng sinh ở cõi Diêm-phù-đề móng tâm khởi niệm, không điều gì là không có tội’.[5] Vô lượng kiếp nay chúng ta quá si mê, chắc chắn
đã phạm vô số tội nghiệp, chất chồng biết bao thói quen xấu. Trong khi trước mặt
mọi người, ta làm ra vẻ có tư cách oai nghi; nhưng khi ở một mình, thì làm mọi
điều mình thích, tùy ý tùy tiện, phóng dật, không hợp quy củ.
Để giải quyết việc nầy, đại chúng nên dùng chung
phòng ngủ. Giường ngủ trong các tự viện là một cái đơn vừa cho một người nằm. Mền chiếu được xếp gọn
như trong trại lính. Sinh hoạt trong tự viện nghiêm túc hơn trong quân đội và
tăng ni còn kỷ luật hơn quân đội rất nhiều. Chỉ nhờ sống trong một đạo tràng có
kỷ luật như vậy chúng ta mới có thể chuyển hoá tập khí và tu dưỡng theo Ba môn
học vô lậu giới, định, huệ. Đây mới chân thực là tu tập.
Tuy nhiên, vẫn còn một số ngoại lệ trong các tự
viện. Chẳng hạn, vị trú trì và các vị chấp sự, vì trách nhiệm công việc mà phải
có phòng riêng, thường cũng rất nhỏ, để tiện giải quyết công việc hằng ngày mà
không phiền đại chúng. Chư tăng ni đã già yếu hoặc bị bệnh cũng cần có phòng
riêng. Để thành tựu việc tu tập, việc dùng chung phòng ngủ nầy rất cần thiết,
ngay cả trong giai đoạn xã hội phát triển như ngày nay.
4.
Không tranh cãi nhau (Khẩu hòa vô tránh).
Mọi
thành viên trong đại chúng cần nhất là đừng tranh cãi. Nhờ vậy họ có thể tập
trung tốt nhất vào nỗ lực tu tập. Khi sống chung với nhau, điều thường chung đụng
nhất là lời nói, nên khẩu nghiệp là điều dễ phạm nhất. Có câu ngạn ngữ, ‘Bệnh
tùng khẩu nhập, họa tùng khẩu xuất’. Hoặc câu, ‘Đa ngôn, đa quá’. Người ăn nhiều
thì dễ sinh bệnh. Người nói nhiều tất sẽ có điều sai trái. Đôi khi có sự hiểu lầm
phát sinh giữa người nghe có tình ý và người nói lại vô tâm. Cả hai phía đều
đem lòng oán hận, về sau không quan hệ với nhau nữa. Đó là lý do mà cổ đức đã dạy,
‘Nói chuyện ít, niệm Phật nhiều’. Càng ít nói, càng ít phiền toái. Hay nhất là
chỉ nói khi cần thiết.
Có lần
tôi đến Los Angeles giảng kinh, một người bạn nói với tôi về người con của ông
ta đang học cao trung, vừa tham dự một khóa thiền thất ba ngày do người Nhật Bản
tổ chức. Khi vào đó rồi, không ai được nói chuyện. Chương trình hằng ngày là ngồi
thiền từ 8 giờ sáng cho đến 5g30 chiều, rồi từ 7g30 cho đến 9g30 tối. Ngoài ra
không làm việc gì khác. Giữ im lặng suốt ba ngày trong một đạo tràng như thế sẽ
giúp cho chúng ta tĩnh tâm và thư giãn, Đứa bé rất cảm kích đến nỗi muốn về dự
khóa mùa đông dài ngày hơn. Điểm đặc sắc ở đạo tràng đó là khẩu hòa vô tránh.
Thế
nên ở nơi đạo tràng mà mọi sự tán gẫu hoặc nói những chuyện tạp nham khác đều bị
cấm thì chắc chắn không xảy ra tranh cãi. Hầu như chỉ còn nghe được sự im lặng
và tiếng niệm Phật liên tục ‘A-Di-Đà Phật’ ở trên chánh điện. Ở trong các đạo
tràng Mật tông đích thực thì tiếng trì chú sẽ không gián đoạn. Hồi tôi mới học
Phật được thân cận với Chương Gia Đại sư ba năm, tôi thấy miệng ngài không bao
giờ ngưng trì chú ngay cả khi tiếp khách. Ngài chỉ dừng để nói chuyện và khi
nói xong, lại tiếp tục trì chú. Phương pháp niệm thầm chỉ nhấp môi là một pháp
tu gọi là ‘Kim cang trì’. Chương Gia Đại sư là người chí thiết với pháp tu nầy
nhất mà tôi từng gặp. Tâm ngài rất bình thản, không vướng bận chút chấp trước
và vọng tưởng. Phương pháp dạy của ngài rất độc đáo, ngài không bao giờ nói một
lời cho đến khi nào thấy người nghe chú tâm. Ngài nói rất ít lời trong khi nhìn
thẳng vào mắt người nghe. Mỗi lời nói của ngài rất chí lý khiến người nghe
không bao giờ quên mà còn nhớ mãi trong lòng suốt đời. Mục đích tu tập của
chúng ta là đoạn trừ phiền não và thành tựu được pháp niệm Phật tam muội. Nếu
chúng ta không thực hành phương pháp nầy thì rất khó đạt được mục tiêu.
5. Cùng
chia xẻ những niềm vui, sự an lạc do công phu tu tập (Ý
hòa đồng duyệt).
Đây
chính là hương vị của niềm vui trong khi tu học Phật pháp. Bất luận chúng ta tu
tập theo pháp môn nào, thành tựu đạt được trong sự tu tập là niềm vui. Nếu
chúng ta thấy không có được niềm vui sau thời gian dài tu học thì chắc chắn là
có vấn đề. Nhưng vấn đề không phải do Phật pháp mà ở ngay trong chúng ta. Có thể
chúng ta đã làm sai nguyên tắc hoặc chúng ta đã chọn lầm pháp môn. Nếu không, kết
quả rất hiển nhiên là chúng ta được tỉnh giác, không còn si mê, thoát khổ và đầy
niềm vui.
Trải
qua chừng ấy năm tháng, chúng ta sẽ ít ưu phiền hơn trong khi được hưởng niềm
vui và tự do càng nhiều hơn. Đây là bằng chứng thành công trong tu học. Nếu
không được như vậy, chúng ta cần phải xem xét lại nguyên nhân nào khiến chưa được
thành công, tìm ra căn gốc phiền não và tìm cách chuyển hóa chúng là ta sẽ có
được lợi lạc từ công phu tu tập.
Tu học
Phật pháp là để trải nghiệm trong đời sống và làm thanh tịnh tâm ý. Sự tu học
Phật pháp phải phát khởi từ bản tâm một cách thiết tha như là sinh hoạt hằng
ngày của mình. Chúng ta dùng tâm nào để tu tập? Đem tâm thanh tịnh mà tu tập.
Khi chúng ta đã có chính kiến và chân thật hiến mình cho Phật pháp, bất luận
chúng ta gặp hoàn cảnh nào hoặc gặp người thiện người ác, chúng ta đều xem như
đó là cơ hội để ta trả nghiệp và gieo trồng hạt giống trí huệ an lành. Cảm giác
hỷ lạc tự nhiên sinh khởi trong tâm, như là hương vị của pháp lạc. Nếu chúng ta
cùng tu học trong tinh thần hòa hợp, thì mọi người sẽ hưởng được pháp lạc, mọi
người sẽ thành tựu.
6. Chia
đều cho nhau những lợi lạc
(Lợi hòa dồng quân)
Thời
xưa, những người xuất gia sống đơn giản chỉ ăn một bữa trong ngày. Họ nhận vật
phẩm do dân trong làng cúng dường, họ ngủ dưới gốc cây và ngồi thiền suốt thời
gian còn lại. Thế nên đạo tràng giống như ngôi trường học để dạy người địa phương
tu học Phật pháp. Những người có học thức hoặc những người có tầm nhìn sâu rộng
đã đề xướng kiến lập đạo tràng, hoặc là những vị đại phú trưởng giả đem tiền của
sức lực dựng nên đạo tràng rồi cầu thỉnh các vị đại đức cao tăng đến để hướng dẫn
tu học.
Đạo
tràng là nơi truyền dạy Phật pháp, khi đã đến tu học trong đạo tràng, bất luận
là thành phần nào, cũng đều bình đẳng thọ nhận các vật phẩm cúng dường. Nếu
nguyên tắc nầy được áp dụng cho xã hội thì sẽ không có tâm lý bất bình đẳng vì
vậy nên không có sự xáo trộn xã hội. Ở trong đạo tràng, không có một điều nào
trong Sáu nguyên tắc hòa kính bị bỏ qua, nếu không thì đó không phải là đạo
tràng chân thực. Như người Trung Hoa thường nói, ‘Hòa hợp trong gia đình là nền
tảng của mọi hiểu biết’. Cũng vậy, nếu một quốc gia thống nhất, thì không có một
thế lực nào thống trị được, vì sức mạnh của sự thống nhất là ưu việt. Do vậy nếu
một gia đình, công ty, xã hội hay một quốc gia thực hiện được ba điều trong Sáu
nguyên tắc hòa kính: cùng chia xẻ hiểu biết nhận thức về giáo lý và tu tập (Kiến
hòa đồng giải), cùng sinh hoạt tu tập trong tinh thần giới luật (Giới hòa đồng
tu), chia đều cho nhau những lợi lạc (Lợi hòa đồng quân) thì chắc chắn sẽ được
thịnh vượng.
Chúng
ta lấy một ví dụ về kinh tế thế giới, trong đó ngoại thương Nhật Bản cực kỳ
phát triển sau thế chiến thứ II. Chỉ sau một nửa thế kỷ, mà kinh tế nước nầy được
xem là thành công nhất trên thế giới. Tại sao? Vì họ đã thực hiện ba nguyên tắc
hòa kính trên.
Nhờ
cùng chia xẻ hiểu biết nhận thức về giáo lý và tu tập (Kiến hòa đồng giải), mà
tăng đoàn cùng đạt được một nhận thức chung. Nhờ cùng sinh hoạt tu tập trong
tinh thần giới luật (Giới hòa đồng tu), mà tất cả đại chúng tu học đều an trú
trong giới luật. Nhờ chia đều cho nhau những lợi lạc (Lợi hòa dồng quân), mà mọi
người đều cảm thấy rằng mọi việc đều bình đẳng.
Những
nguyên tắc hòa kính cũng nên áp dụng trong gia đình như người Trung Hoa thường
nói, ‘Hòa hợp trong gia đình là nền tảng của mọi hiểu biết’. Có hôm một học trò
tôi hỏi rằng anh ta nên lập gia đình với người như thế nào. Tôi nói: ‘Anh nên
tìm người nào có cùng quan điểm với mình và cùng chí hướng với mình. Rồi hai
người sẽ cùng giúp đỡ nhau để đạt mục tiêu và sẽ hưởng được hạnh phúc. Anh
không nên chỉ dựa vào tình yêu vì tình yêu là hay thay đổi và không đáng tin cậy,
nó sẽ phai nhạt đi sau khi cưới nhau vài ba năm vào lúc mà mọi thứ đều thay đổi’.
Do vậy một gia đình hạnh phúc là được xây dựng trên nền tảng của Sáu nguyên tắc
hòa kính. Nếu không hiểu được điểm nầy, rất khó để có được một gia đình hạnh
phúc.
[4] Ba bộ kinh là: Vô lượng thọ Kinh, 2 quyển. Khương
Tăng Khải dịch đời Tào Ngụy. Quán
Vô lượng thọ Kinh. 1 quyển, Cương-lương-da-xá dịch vào đời Lưu Tống. A-Di-Đà Kinh, 1 quyển, Cưu-ma-la-thập
dịch đời Diêu Tần. Một bộ luận là Vô lượng thọ Kinh Ưu-ba-đề-xá nguyện sinh
kệ. Còn gọi là Vãng sanh luận,
Tịnh độ luận, Nguyện sinh kệ, Vô lượng thọ Kinh luận; 1 quyển. Thế Thân soạn,
Bồ-đề Lưu-chi dịch đời Nguyên Ngụy.
Nhận xét
Đăng nhận xét