II. KHUYÊN TÍN HẠNH NGUYỆN NÊN CHÂN THÀNH, THA THIẾT
ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC
Bửu Quang Tự Đệ Tử Như Hòa dịch
2.1.
Giảng về lòng tin chân thành, tâm nguyện tha thiết
* Nói đến Tín là nói phải tin Sa Bà
thật sự khổ, Cực Lạc thật sự vui. Sa Bà khổ vô lượng, vô biên. Nói chung, chẳng
ngoài tám nỗi khổ, tức là sanh, già, bệnh, chết, ân ái biệt ly, oán ghét nhưng
vẫn phải gặp mặt, mong cầu chẳng được thỏa ý, năm ấm lừng lẫy. Tám nỗi khổ này
dù người cả đời giàu sang tột bực hay kẻ nghèo đến nỗi phải ăn mày, ai nấy đều
có. Bảy thứ đầu là quả báo do đời quá khứ cảm thành, cứ suy nghĩ kỹ ắt tự biết,
chẳng cần phải nói rõ. Nói rõ sẽ phải tốn nhiều giấy mực.
Nỗi khổ thứ tám (năm ấm lẫy lừng) là do khởi tâm động niệm cũng như những hành
động, nói năng trong hiện tại. Ðây chính là cái nhân thọ khổ trong đời sau.
Nhân quả vấn vít lôi kéo liên tục từ kiếp này sang kiếp khác chẳng thể giải
thoát. Ngũ Ấm là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Sắc chính là cái thân do nghiệp
báo cảm thành. Thọ, Tưởng, Hành, Thức là những thứ do tâm huyễn vọng khởi lên
khi tiếp xúc với cảnh. Do các pháp thân tâm huyễn vọng này, bèn đối với sáu
trần cảnh khởi Hoặc tạo nghiệp như lửa cháy hừng hực chẳng thể dập tắt, nên bảo
là “xí thịnh” (熾盛: lừng lẫy, hừng hực).
Thêm nữa, Ấm (蔭) có nghĩa là ngăn che. Do năm pháp này ngăn che, nên chân
tánh chẳng thể hiển hiện, như mây dầy che khuất mặt trời. Tuy vầng thái dương
rực rỡ trọn chẳng bị tổn giảm, nhưng vì mây che lấp, nên chẳng soi thấu được.
Cũng giống như thế, phàm phu chưa đoạn Hoặc nghiệp bị năm pháp này che phủ, bầu
trời chân tánh và vầng mặt trời trí huệ chẳng thể hiển hiện. Ðấy là nỗi khổ thứ
tám, chính là cội gốc của hết thảy các khổ.
Người tu đạo sức Thiền Ðịnh sâu, đối
với cảnh giới sáu trần trọn không chấp trước, chẳng khởi oán ghét. Từ đấy lại
gia công dụng hạnh, tiến lên chứng đắc Vô Sanh thì Hoặc nghiệp hết sạch, cắt
đứt căn bản sanh tử. Nhưng công phu này đúng là chẳng dễ dàng, trong đời Mạt
quả thật khó có ai đạt được. Vì thế, phải chuyên tu Tịnh nghiệp, cầu sanh Cực
Lạc, nương vào từ lực của Phật, vãng sanh Tây Phương.
Ðã được vãng sanh thì liên hoa hóa
sanh, chẳng còn bị Sanh Khổ, thuần mang hình dáng bé trai, thọ ngang hư không,
thân không có tai biến. Những danh từ lão, khổ, bệnh v.v... còn chẳng nghe đến,
huống là thật sự có! Kề cận thánh chúng, chầu hầu Di Ðà. Chim, nước, rừng cây,
đều diễn pháp âm. Tùy theo căn tánh, nghe xong liền chứng, người thân còn chẳng
thấy, huống có oán thù? Mong áo được áo, tưởng ăn liền ăn. Lầu các, đền đài đều
do bảy báu tạo thành, chẳng nhọc sức người [xây cất], chỉ là hóa hiện. Vậy thì
bảy nỗi khổ cõi Sa Bà biến thành bảy điều vui.
Nơi thân có đại thần thông, có đại
oai lực, chẳng rời chỗ mình đang ở mà ngay trong một niệm ở khắp các thế giới
của chư Phật trong mười phương, làm các Phật sự, thượng cầu, hạ hóa. Tâm có đại
trí huệ, đại biện tài; từ nơi một pháp biết Thật Tướng của hết thảy các pháp.
Tùy cơ thuyết pháp, chẳng hề lầm lạc. Tuy nói những lời thuộc về Thế Ðế, nhưng
đều khế hợp diệu lý Thật Tướng. Không có nỗi khổ Ngũ Ấm Xí Thạnh, hưởng niềm
vui thân tâm tịch diệt. Bởi thế kinh dạy:
“Không có các nỗi khổ, chỉ hưởng
các sự vui, nên gọi là Cực Lạc”.
Sa Bà khổ, khổ chẳng thể nói. Cực
Lạc vui, vui chẳng gì ví nổi. Tin sâu lời Phật, trọn chẳng nghi hoặc, mới gọi
là Chân Tín. Ðừng nên dùng tri kiến ngoại đạo, phàm phu để so lường lầm lạc,
cho rằng mọi thứ trang nghiêm thù thắng nhiệm mầu chẳng thể nghĩ bàn của Tịnh
Ðộ đều là chuyện ngụ ngôn, là thí dụ, là tâm pháp, chẳng phải là cảnh thật. Nếu
có các thứ tà kiến, hiểu biết sai lạc như vậy, sẽ đánh mất điều lợi ích thật sự
là được vãng sanh Tịnh Ðộ. Cái hại ấy rất lớn, chớ nên chẳng biết.
* Ðã biết Sa Bà là khổ, Cực Lạc là
vui, hãy nên phát thệ nguyện thiết thực, nguyện lìa khổ Sa Bà, nguyện hưởng vui
Cực Lạc. Nguyện ấy phải tha thiết như bị rớt xuống hầm xí, cầu được thoát ra
gấp. Lại như bị giam cầm trong ngục, đau đáu nghĩ đến quê nhà. Sức mình chẳng
thể tự thoát, ắt phải cầu người có đại thế lực cứu cho thoát khỏi.
Hết thảy chúng sanh trong thế giới
Sa Bà đối với cảnh thuận, nghịch, khởi tham, sân, si, tạo giết, trộm, dâm, ô uế
diệu giác minh tâm sẵn có. Ðấy chính là hầm xí không đáy. Ðã tạo nghiệp ác, ắt
phải chịu ác báo, luân hồi sáu nẻo trải nhiều kiếp dài lâu! Ðấy chính là chốn
lao ngục chẳng hề phóng thích tội nhân. Trong nhiều kiếp quá khứ, A Di Ðà Phật
đã phát bốn mươi tám nguyện độ thoát chúng sanh, có một nguyện là: “Nếu có chúng sanh nghe danh hiệu ta, cầu
sanh về nước ta, dẫu chỉ mười niệm mà nếu chẳng sanh, chẳng lấy Chánh Giác”.
A Di Ðà Phật thệ nguyện độ sanh; nhưng nếu chúng sanh chẳng cầu tiếp dẫn, Phật
cũng chẳng biết làm cách nào! Nếu như chí tâm xưng danh, thề cầu xuất ly Sa Bà,
không một ai chẳng được Phật rủ lòng Từ nhiếp thọ. A Di Ðà Phật có đại thế lực,
cứu được người đang ở trong hầm phân không đáy, hoặc trong lao ngục chẳng hề
phóng thích, khiến cho họ thoát ngay những chốn ấy, đặt yên họ nơi quê nhà sẵn
có là cõi Cực Lạc, khiến họ nhập cảnh giới Phật, được thụ dụng giống như Phật.
* Phật Di Ðà vì chúng ta phát
nguyện, lập hạnh, để mong chúng ta thành Phật. Chúng ta trái nghịch hạnh nguyện
của đức Di Ðà, nên trong bao kiếp dài lâu, ngụp lặn mãi trong lục đạo, vĩnh
viễn làm chúng sanh. Hiểu rõ Di Ðà chính là đức Phật ở ngay trong tâm chúng ta,
ta chính là chúng sanh trong tâm Phật Di Ðà. Tâm đã là một, nhưng phàm và thánh
cách nhau một trời một vực là do ta cứ một bề mê muội, trái nghịch nên mới đến
nỗi như thế. Tín tâm như vậy mới đáng là Chân Tín. Dùng tín tâm này để phát
nguyện quyết định vãng sanh, hành hạnh quyết định niệm Phật, ngõ hầu thâm nhập
Tịnh Tông pháp giới, thành tựu ngay trong một đời, một phen siêu thăng liền vào
thẳng ngay địa vị Như Lai như mẹ con gặp gỡ, vui sướng vĩnh viễn thường hằng
vậy!
* Trong sự niệm Phật, trọng yếu nhất
là liễu sanh thoát tử. Ðã vì liễu sanh tử thì đối với nỗi khổ sanh tử, tự sanh
tâm chán nhàm; đối với sự vui Tây Phương, tự sanh tâm ưa thích. Như thế thì hai
pháp Tín Nguyện sẽ được đầy đủ, trọn vẹn ngay trong khoảnh khắc ấy. Rồi lại
thêm chí thành, khẩn thiết như con nhớ mẹ mà niệm, thì Phật lực, tự lực, tự tâm
tín nguyện công đức lực, cả ba pháp cùng hiển hiện trọn vẹn, khác nào mặt trời
rực rỡ trên không. Dẫu mây đùn, băng đóng tầng tầng, không bao lâu cũng sẽ tan
hết cả.
* Hãy thử hỏi: Ngoài tâm không Phật,
ngoài Phật không tâm. Chẳng khẩn thiết thì có đạt được như thế hay chăng? Không
Tín Nguyện thì có đạt được như thế hay chăng?
* Phàm là bọn hữu tình chúng ta hễ
nghe nói đến pháp môn Tịnh Ðộ thì phải tin Sa Bà khổ tột bậc, Tây Phương vui
tột bậc, phải tin từ nhiều đời đến nay, nghiệp chướng sâu nặng, chẳng cậy vào
Phật lực, khó thể xuất ly! Phải nên tin rằng: Cầu được vãng sanh thì ngay trong
đời này sẽ được vãng sanh. Phải tin niệm Phật, nhất định được Phật từ bi nhiếp
thọ. Dùng một lòng kiên định này, nguyện lìa Sa Bà như kẻ tù muốn thoát khỏi
lao ngục, trọn chẳng có tâm lưu luyến. Nguyện sanh Tây Phương như lữ khách mong
quay về cố hương, chẳng hề có ý niệm do dự. Từ đó, tùy phận, tùy lực, chí tâm
trì niệm thánh hiệu A Di Ðà Phật, chẳng luận là nói năng, im lặng, động, tịnh,
đi, đứng, nằm, ngồi, đón tiếp khách khứa, mặc áo, ăn cơm, giữ sao cho Phật hiệu
chẳng lìa tâm, tâm chẳng lìa Phật.
* Kinh A Di Ðà nói: “Từ đây đi qua Tây Phương khỏi mười vạn ức
cõi có thế giới tên là Cực Lạc. Cõi ấy có Phật hiệu A Di Ðà, nay hiện đang
thuyết pháp”. Kinh còn dạy: “Cõi ấy
vì sao tên là Cực Lạc? Chúng sanh cõi ấy không có các điều khổ, chỉ hưởng những
điều vui, nên gọi là Cực Lạc”. Không có các điều khổ, chỉ hưởng những điều
vui là do được trang nghiêm bởi phước đức, trí huệ, thần thông và đạo lực của A
Di Ðà Phật.
Thế giới chúng ta đang sống có đủ cả
ba khổ, tám khổ, vô lượng các nỗi khổ, hoàn toàn chẳng vui. Vì thế, gọi là Sa
Bà. Tiếng Phạn là Sa Bà, Hán dịch là Kham Nhẫn, ý nói: Chúng sanh trong thế
giới này có thể kham chịu các thứ khổ. Trong thế giới này, chẳng phải là không
có điều vui, nhưng những điều được coi là vui ấy, phần nhiều là khổ. Chúng sanh
mê muội lại ngược ngạo coi đấy là vui, như mê rượu, đắm sắc, săn bắn, bẫy rập,
có gì là vui? Một lũ ngu phu đắm đuối chẳng bỏ được, thích thú đến quên mệt
nhọc, thật đáng xót thương!
Những điều dù thật sự là vui cũng
khó lâu bền! Chẳng hạn như cha mẹ cùng còn sống, anh em không xảy ra chuyện gì;
chuyện như vậy làm sao thường hằng được mãi? Vì thế, cảnh vui sướng vừa thoáng
qua, tâm đau buồn liền tiếp theo ngay, nên bảo là “trọn chẳng có gì vui”, chẳng cần phải bàn nữa! Sự khổ trong thế
giới này chẳng thể nói trọn hết, nhưng có thể dùng tam khổ, bát khổ để bao quát
không sót.
Ba khổ là:
- Khổ Khổ.
- Vui
(lạc) là Hoại Khổ.
- Chẳng
khổ chẳng vui là Hành Khổ.
1) Khổ
Khổ là nói thân tâm Ngũ Ấm này thể tánh bức bách, nên gọi là Khổ. Lại còn phải
luôn chịu đựng các nỗi khổ sanh, già, bệnh, chết v.v... nên gọi là Khổ Khổ.
2) Hoại
Khổ là bất cứ sự gì trong thế gian cũng chẳng được bền lâu. Mặt trời giữa Ngọ
phải chếch về Tây, trăng đầy rồi khuyết, đạo trời còn phải như thế, huống là
việc người? Cảnh vui vừa chớm, cảnh khổ đã đến ngay. Nỗi khổ ấy chẳng thể diễn
tả nổi! Vì thế, gọi Lạc là Hoại Khổ.
3) Hành
Khổ là tuy chẳng khổ, chẳng vui, tựa hồ phải chăng, nhưng tánh nó dời đổi, có
gì là thường trụ? Vì thế, gọi là Hành Khổ.
Nêu lên
ba thứ khổ ấy (Khổ Khổ, Hoại Khổ, Hành
Khổ) thì không có nỗi khổ nào chẳng gộp trong ấy. Ý nghĩa tám khổ trong các
sách đã thuật rõ. Nếu biết cõi này là là khổ thì tâm chán nhàm Sa Bà sẽ bừng
bừng phát sanh. Nếu biết cõi kia là vui thì ý niệm ưa thích, mong cầu Cực Lạc
sẽ hừng hực phát khởi. Do vậy, chẳng làm các điều ác, vâng làm các điều lành để
bồi đắp nền tảng. Lại dùng tâm chí thành, khẩn thiết trì danh hiệu Phật, cầu
sanh Tây Phương thì thoát được cõi Sa Bà này, sanh về cõi Cực Lạc kia, làm con
đích thực của đấng Di Ðà, làm bạn hiền trong Hải Hội vậy!
* Xem
cõi Sa Bà này nhơ xấu còn hơn nhà xí. Tin cõi Cực Lạc kia chính là quê nhà
chính mình vốn sẵn có. Chẳng cầu phước lạc cõi trời, cõi người trong đời này
hay đời sau, chỉ nguyện khi báo hết mạng tận, được Phật tiếp dẫn vãng sanh.
Sáng tối như thế, niệm đâu chú trọng đấy, niệm đến tột bậc, công lao thuần
thục, cảm ứng đạo giao, lúc lâm chung, ắt được thỏa nguyện. Ðã sanh về Tịnh Ðộ,
sẽ đốn ngộ Vô Sanh, nhìn lại phú quý thế gian khác nào ánh dương diệm[1], hoa đốm trên hư không, thật đúng là nhà ngục, biển độc
mà thôi!
2.2. Khuyên trừ nghi sanh tín
* Pháp
môn Tịnh Ðộ nếu tin cho tới nơi, còn gì tốt lành hơn! Nếu trí ta chưa quyết,
hãy nên tin tưởng lời chân thành của chư Phật, chư Tổ, trọn chẳng nên có một
niệm nghi tâm. Nghi sẽ chẳng tương ứng chư Phật, lâm chung nhất định khó thể
cảm thông. Cổ nhân bảo: “Pháp môn Tịnh Ðộ
chỉ có Phật với Phật mới có thể hiểu trọn vẹn. Hàng Ðăng Ðịa Bồ Tát[2] chẳng
biết chút phần”. Hàng Ðăng Ðịa
Ðại Sĩ còn chẳng thể biết hết, huống hồ là hạng phàm phu lè tè sát đất mà lại
lầm lạc sanh tâm ức đoán ư?
* Nếu
tâm sanh tử thật sự thiết tha, tin tới nơi, tâm chẳng sanh một niệm ngờ vực, dù
chưa ra khỏi Sa Bà, đã chẳng còn là khách trọ lâu ngày trong chốn Sa Bà; tuy
chưa sanh về Cực Lạc, nhưng đã là khách quý cõi Cực Lạc. Thấy người hiền mong
ta được bằng, gặp điều nhân, đừng để lỡ. Há có nên do dự, lười nhác, sao nhãng,
để đến nỗi một phen lầm lỡ khiến mình bị lỡ làng mãi mãi ư? Là trang nam nhi có
huyết tánh, dứt khoát chẳng chịu sống làm thây đi, thịt chạy, chết mục nát như
cỏ cây. Hãy gắng lên, hãy cố lên!
* Trong
các pháp môn khác, tiểu pháp thì đại căn chẳng cần tu, đại pháp thì tiểu căn
chẳng thể tu. Chỉ có một pháp Tịnh Ðộ này thích ứng khắp ba căn, gồm thâu lợi
độn. Trên thì Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, không vị nào vượt ra ngoài
pháp này; dưới thì Ngũ Nghịch, Thập Ác, chủng tánh A Tỳ cũng được dự vào. Nếu
Như Lai chẳng mở ra pháp này, chúng sanh đời Mạt muốn liễu sanh thoát tử ngay
trong đời này, tuyệt chẳng có chút hy vọng gì! Tuy pháp môn này rộng lớn như
thế, nhưng cách tu lại cực giản dị. Bởi lẽ đó, chẳng phải là người có thiện căn
Tịnh Ðộ từ kiếp trước, sẽ khó thể tin chắc chẳng nghi. Chẳng riêng phàm phu
không tin, phần nhiều hàng Nhị Thừa cũng nghi. Không chỉ Nhị Thừa chẳng tin,
quyền vị Bồ Tát vẫn có người còn nghi. Chỉ có các vị Bồ Tát Ðại Thừa địa vị cao
sâu mới có thể triệt để tin tưởng, chẳng nghi.
Người
sanh lòng tin sâu xa nơi pháp này, dù là phàm phu đầy dẫy triền phược, nhưng
chủng tánh đã vượt trội Nhị Thừa, khác nào Thái Tử ngã xuống đất vẫn quý hơn
quần thần. Tuy tài đức chưa lập, nhưng cậy vào thế lực của cha, nên cảm được
báo như thế. Người tu Tịnh Ðộ cũng giống như vậy. Do dùng tín nguyện trì danh
hiệu Phật, nên có thể đem tâm phàm phu gieo vào biển giác của Phật. Bởi thế,
ngầm thông Phật trí, ám hợp đạo mầu.
Muốn bàn
về pháp tu trong Tịnh Ðộ mà chẳng nói đại lược sự khó khăn của các pháp cậy vào
tự lực để liễu thoát và sự dễ dàng của pháp cậy vào Phật lực này, thì [người
nghe] nếu chẳng nghi pháp, cũng sẽ nghi chính mình. Nếu tâm có chút mảy may nào
nghi ngờ, sẽ do nghi thành chướng; đừng nói là không tu, dù tu, cũng chẳng đạt
được lợi ích thật sự. Do vậy phải nói: Tín là một pháp chẳng thể không gấp gáp
giảng giải, để mong gây dựng sâu xa đến cùng cực vậy!
* Pháp
môn Tịnh Ðộ do Phật Thích Ca và Phật Di Ðà kiến lập, do Văn Thù, Phổ Hiền chỉ
dẫn đưa về, do Mã Minh, Long Thọ hoằng dương, do các vị Khuông Lô (Huệ Viễn), Thiên Thai (Trí Khải), Thanh Lương, Vĩnh Minh, Liên
Trì, Ngẫu Ích phát huy, xướng suất để khuyên rộng khắp, dù phàm hay thánh, dù
ngu hay trí. Các vị Bồ Tát đại sĩ ấy từ trăm ngàn năm trước, sớm đã vì chúng ta
nghiên cứu khắp các giáo pháp trong Ðại Tạng, đặc biệt chọn ra pháp “chẳng cần
đoạn Hoặc nghiệp mà được dự ngôi Bổ Xứ” này, ngay
trong một đời này quyết định sổ lồng, chí viên, chí đốn, cực kỳ giản dị,
thống nhiếp Thiền, Giáo, Luật, lại vượt xa Thiền, Giáo, Luật, cho dù căn cơ cạn
hay sâu, dù Quyền hay Thật. Thật là một diệu pháp thật đặc biệt, siêu việt lẽ
thường!
Chúng ta
chẳng tin tưởng Phật, Tổ, chẳng lấy cổ nhân làm thầy, há các Ngài chẳng bằng
những vị tri thức cận đại hay sao? Kinh Hoa Nghiêm là vua trong Tam Tạng, cuối
kinh quy kết, chú trọng nguyện vương. Hoa Tạng hải chúng đều đã chứng Pháp
Thân, đều cầu vãng sanh hòng viên mãn Phật Quả. Bọn ta là hạng người gì, mà lại
dám chẳng bắt chước theo? Hãy bỏ tâm ngông cuồng ấy, tận lực thực hành đạo này.
Công đức lợi ích sẽ tự chứng biết. Há phải đợi tham học trọn khắp rồi mới thành
hạng biết pháp ư?
* Luận
bàn xác thực thì pháp môn Ðại Thừa, pháp nào cũng viên diệu; nhưng căn cơ có
sống, chín, duyên có cạn, sâu. Bởi thế, xét về mặt lợi ích bèn có “khó được” và
“dễ được”. Tổ Thiện Ðạo là hóa thân của Phật Di Ðà, đã dạy chuyên tu. Ngài chỉ
e hành nhân tâm chí bất định, bị các thầy trong những pháp môn khác lung lạc,
nên bảo: Cho dù thánh nhân Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả, Tứ Quả, và Thập Trụ, Thập
Hạnh, Thập Hồi Hướng, Ðẳng Giác Bồ Tát, cho đến thập phương chư Phật tận hư
không, trọn pháp giới hiện thân, phóng quang, khuyên ta bỏ pháp Tịnh Ðộ, giảng
cho pháp thù thắng nhiệm mầu nào khác, ta cũng chẳng chịu nhận. Thưa là “do lúc ban đầu đã phát tâm chuyên tu Tịnh
Ðộ, chẳng dám trái nghịch nguyện ấy”.
Hòa
Thượng Thiện Ðạo đã sớm thấy người đời sau đứng núi này trông núi nọ, chẳng có
kiến giải nhất định. Vì thế, Ngài nói như vậy để dốc cạn hết sức hòng xoay
chuyển cái tâm ngấp nghé cuồng vọng, ưa ham cầu [của người đời sau]. Ai đã biết
ngài Thiện Ðạo là thầy mà lại chẳng tuân theo? Thế mà người tuân theo lời Ngài
thật chẳng được mấy! Có phải là do túc thế ác nghiệp sai khiến đến nỗi ngoảnh
mặt bỏ lỡ pháp khế lý, khế cơ bậc nhất này, không Thiền, không Tịnh Ðộ, nghiệp
thức mịt mờ, làm kẻ không có cội rễ để nương cậy trong nẻo luân hồi đó chăng?
Áo não thay!
* Tu
hành Tịnh Ðộ có cái lẽ quyết định chẳng nghi. Chẳng cần phải hỏi người khác có
hiệu nghiệm hay không! Dù khắp cả người đời không ai được hiệu nghiệm, cũng
chẳng sanh một niệm nghi tâm, cứ lấy lời lẽ chân thành của Phật, Tổ làm căn cứ.
Nếu hỏi người khác về sự hiệu nghiệm, chính là tin Phật chưa đến mức cùng cực,
nên phải dùng lời lẽ người khác để đoán định. Đó chính tâm vẫn còn so đo, chưa
thể trọn vẹn mọi sự. Nam nhi anh liệt quyết chẳng đến nỗi bỏ lời Phật để tin
lời người, trong tâm không có chủ ý, chỉ muốn cậy vào lời người khác khoe
khoang hiệu nghiệm để hướng dẫn tiền đồ của chính mình. Chẳng đáng buồn ư?
* Do tập
khí, mỗi chúng sanh có điểm riêng thiên trọng. Kẻ ngu thiên về cái tầm thường,
hèn kém. Người trí thiên về điều cao thượng. Nếu kẻ ngu cam phận ngu, dụng tâm
chẳng tạp loạn, chuyên tu Tịnh nghiệp, sẽ ngay trong đời này quyết định được
vãng sanh. Như vậy, dù ngu, nhưng chẳng có ai bằng được! Nếu là người trí,
chẳng tự đắc có trí, vẫn theo đuổi pháp môn cậy vào từ lực của Phật, cầu sanh
Tịnh Ðộ, thì có thể nói là bậc đại trí. Còn như cậy vào kiến giải của chính
mình, miệt thị Tịnh Ðộ; sẽ thấy kẻ đó từ kiếp này sang kiếp khác trầm luân
trong ác đạo, muốn học đòi theo kiểu ngu phu ngày nay cũng trọn chẳng thể được!
Những
người thông hiểu sâu xa Tánh, Tướng, Tông, Giáo, tôi thực sự ái mộ, nhưng chẳng
dám học theo. Vì sao? Vì dây ngắn chẳng kéo được nước sâu, giấy nhỏ chẳng thể gói
vật lớn. Tôi chẳng bảo là hết thảy mọi người đều nên phỏng theo việc tôi làm,
nhưng nếu cũng hèn kém như tôi, mà lại toan học theo hành vi của bậc đại thông
gia, toan tiến thẳng vào diệu ngộ tự tâm, xoay lật biển giáo, tôi chỉ e chẳng
thể thành bậc đại thông gia, trái lại còn bị hàng ngu phu, ngu phụ thật thà
niệm Phật, vãng sanh Tây Phương thương xót! Há có phải là biến khéo thành vụng
to, toan bay lên không, nhưng lại bị rớt xuống vực sâu thăm thẳm đó chăng? Một
lời đủ để bao quát hết: Hãy tự xét kỹ căn cơ của chính mình mà thôi!
* Ông La
Ðài Sơn chẳng được vãng sanh, lại bị đọa vào nơi phước báo, là do tập khí văn
chương quá nặng. Tập khí ấy đã nặng, dù nói là niệm Phật, nhưng thực ra niệm
niệm đặt nơi công phu sáng tác văn chương. Công phu niệm Phật chỉ là chống đỡ
mặt ngoài đó thôi. Ðấy là căn bệnh chung của văn nhân, chẳng phải chỉ riêng Ðài
Sơn thôi đâu! Phật bảo Thế Trí Biện Thông là một trong tám nạn chính là vì lẽ
này.
* Người
sống trong cõi đời, nhất nhất phải theo đúng bổn phận của mình, chẳng thể vọng
tưởng tính toán ra ngoài bổn phận. Tức là như thường nói: “Quân tử chẳng vượt ra ngoài phận vị của mình”. Cũng như nói: “Quân tử chỉ làm đúng theo phận vị của
mình”. Tuy ông hơi sanh lòng tin đối với pháp môn Tịnh Độ, nhưng vẫn còn ý
niệm ham cao, chuộng xa, chưa thể buông xuống. chưa chịu đặt mình vào địa vị
ngu phu, ngu phụ. Cần phải biết liễu sanh tử thì ngu phu, ngu phụ dễ dàng do
tâm họ chẳng chẳng có dị kiến. Nếu là bậc thông Tông, thông Giáo, có thể buông
xuống toàn thân, thực hiện công phu của hàng ngu phu, ngu phụ thì cũng dễ dàng.
Nếu không, bậc cao nhân thông Tông, thông Giáo lại chẳng bằng ngu phu, ngu phụ
đới nghiệp vãng sanh! Pháp môn Tịnh Ðộ lấy vãng sanh làm chủ, tùy duyên, tùy
phận chuyên tinh chí mình, Phật quyết chẳng dối người. Nếu không, mong bay lên
hóa ra lại rớt xuống; đấy là tự mình lầm lẫn, há có phải là lỗi của Phật ư?
* Một
pháp Tịnh Ðộ chính là pháp môn tối huyền, tối diệu, chí viên, chí đốn trong
giáo pháp của cả một đời đức Phật (một
pháp có đủ hết thảy các pháp là Viên. Tu ngay trong đời này sẽ chứng đắc ngay
trong đời này, nên bảo là Ðốn). Hạng phàm phu lè tè sát đất cũng được vào
pháp này, bậc Ðẳng Giác Bồ Tát cũng chẳng ra khỏi pháp này. Thật sự là một con
đường tắt để thượng thánh hạ phàm chóng thành Phật đạo, là một chiếc thuyền Từ
phổ độ chúng sanh của chư Phật, chư Tổ. Chẳng sanh tín tâm đối với pháp này,
hoặc tin chẳng chân thành, thiết tha, chính là do nghiệp chướng sâu nặng, chẳng
kham liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh, đời đời kiếp kiếp vĩnh viễn
thường luân hồi trong lục đạo nơi thế giới này, chẳng có thuở thoát ra. Dẫu
được làm thân trời, người, thời gian ấy rất ít, như khách chỉ ở trọ. Một phen
đọa trong tam đồ, thời gian ấy rất dài như ở yên nơi quê nhà. Mỗi lần nghĩ đến,
tâm kinh sợ, lông tóc dựng đứng, nên chẳng nề hà rát miệng khẩn thiết bảo ban
những người cùng một căn tánh.
* Xem kỹ
thơ ngài gởi đến, bàn luận nhiều điều, nhưng có thể nói gọn một lời là “chỉ dùng tri kiến phàm phu để suy lường
xằng bậy Phật trí mà thôi”! Vả như chúng ta từ sống đến chết, trong là thân
tâm, ngoài là cảnh giới, có một ai biết rõ nguyên do của mọi sự hay chăng? Từ
khi chính mình có hiểu biết đến nay, thấy tiền nhân làm như thế nào, ta cũng
bắt chước làm đúng như thế ấy thì thân thể mới được thành lập, mọi sự mới thuận
tiện, thích đáng, thân tâm an lạc, từ sống đến chết, thụ dụng tự tại. Ðối với
những lời khuyên dụ của đức Như Lai, do chẳng biết ngọn ngành Phật trí và ngọn
ngành Tịnh Ðộ như thế nào, nên dù Phật, Tổ nói lời thành thực, cũng chẳng thể
nhân đó sanh lòng tin.
Xin lấy
chuyện này để xét: Các hạ suốt ngày ăn cơm, suốt ngày mặc áo, có biết nguồn gốc
của việc chống đói và ngăn lạnh hay chăng? Nếu nói là biết thì ai là người
biết, xin hãy chỉ ra đích xác. Nếu chỉ không được, vẫn là theo quy củ của tiền
nhân đã lập mà ăn cơm, mặc áo! Sao lại đối với diệu pháp liễu sanh thoát tử bậc
nhất, cứ đòi phải biết trước cội nguồn rồi mới sanh lòng tin, trọn chẳng chịu
do lời thành thật của chư Phật, chư Tổ mà sanh lòng tin vậy?
Hơn nữa,
nếu các hạ có bệnh cần phải uống thuốc, trước hết, xem trọn các sách Bản Thảo,
Mạch Quyết để biết dược tánh, nguồn gốc căn bệnh rồi căn cứ trên bệnh chứng mà
kê toa, sau đấy mới uống thuốc; hay là lập tức mời thầy lang chẩn mạch, lập tức
uống thuốc? Nếu lập tức uống thuốc thì việc trị bệnh và học Phật mâu thuẫn với
nhau quá sức! Dù cho có mở sách Bản Thảo, Mạch Quyết ra xem để biết dược tánh,
gốc bệnh, cũng vẫn mâu thuẫn với việc học Phật. Vì sao vậy? Bản Thảo, Mạch
Quyết đều là lời để đời của tiền nhân. Ông chưa thể tận mắt thấy, làm sao tin
được? Nếu bảo những câu trong Bản Thảo và Mạch Quyết chẳng thể không tin thì
lời của Phật, Tổ, thiện tri thức sao lại đều chẳng sanh lòng tin, cứ phải chính
mình trông thấy rồi mới tin? Đối với tri kiến của ông, nếu cứ thực tình mà luận
thì trước hết phải thấy thuốc ấy chạy vào kinh lạc nào, trị được bệnh nào, rồi
mới chịu kê toa, uống thuốc; quyết chẳng chịu dựa theo những điều nói trong Bản
Thảo, Mạch Quyết để lập toa, uống thuốc. Vì sao vậy? Vì chưa từng thấy.
Nay
nguồn gốc của việc chống đói, ngăn lạnh, trị bệnh đều chưa từng thấy, nhưng vẫn
cứ ăn cơm, mặc áo, uống thuốc; thế thì ngọn nguồn của Phật và Tịnh Ðộ chưa từng
thấy, ngay cả lời thành thật của Phật, của Tổ cũng chẳng tin là vì lẽ gì? Với
điều này thì coi là chuyện liên quan đến tánh mạng, tuy không biết, vẫn chẳng
dám không làm đúng như thế. Còn với chuyện kia, lại tự phụ cao minh, đòi phải
thấy tột cùng rồi mới chịu tu trì pháp ấy. Bao nhiêu bậc hào kiệt phi thường xưa
nay, do tri kiến đó, rốt cuộc chẳng được hưởng lợi ích thật sự nơi Phật pháp.
Những kẻ
bị coi là ngu phu, ngu phụ kia, thoạt đầu cũng chẳng biết gì, nhưng y theo quy
củ đã thành lập của tiền nhân, cắm đầu niệm Phật. Bởi đó, ngầm thông Phật trí,
thầm hợp đạo mầu, liền được đới nghiệp vãng sanh, cùng với kẻ đoạn Hoặc vãng
sanh đều sẽ chứng Phật Quả. [Vậy thì] có trỗi vượt kẻ chỉ hiểu biết suông rồi
thôi chăng? Loại người tự mệnh danh là bậc lỗi lạc, do nghi ngờ nên báng bổ, sẽ
từ kiếp này sang kiếp khác đọa mãi trong ác đạo, dù hàng ngu phu, ngu phụ niệm
Phật vãng sanh thương xót muốn cứu vớt cũng chẳng thể được! Vì sao? Vì hạng này
bị ác nghiệp bất tín đời trước chướng ngại. Trí của các hạ như [bảo kiếm] Can
Tương, Mạc Gia, chặt ngọc như chém bùn. Do chẳng khéo dùng trí ấy, khác nào
dùng thanh Can Tương, Mạc Gia để chém bùn, bùn không việc gì, uổng phí kiếm
sắc, chẳng đáng buồn hay sao?
* Phật
pháp là tâm pháp. Hết thảy các pháp thế gian chẳng thể sánh ví được. Có sánh ví
chẳng qua là để khiến cho người ta lãnh hội ý nghĩa. Chớ nên chấp chết cứng rồi
ngỡ chúng giống hệt như nhau. Dùng cái quạt để ví mặt trăng, rung cây để nói về
gió. Nếu cứ tìm quang minh từ nơi cái quạt, tìm sự phất phơ nơi cây, có còn
đáng gọi là trí hay chăng? Tuy mộng cảnh là giả, nhân quả là chân, cũng chẳng
ngại dùng mộng cảnh để tỷ dụ nhân quả, cốt sao chúng phù hợp nhau. Vì sao? Vọng
tâm là Nhân, mộng cảnh là Quả. Nếu không có vọng tâm, chắc chắn chẳng có mộng
cảnh. Ðiều này nhất định chẳng dễ luận. Tâm thiện ác và tu trì là Nhân, đạt được
quả báo thiện ác và quả báo tu trì là Quả. Các hạ có tin hay không? Vọng tâm là
nhân của mộng, [do nhân ấy] mà có mộng cảnh. Tâm niệm Phật là cái nhân thành
Phật, gần là được vãng sanh Tây Phương, xa là rốt ráo viên thành Phật đạo. Ðấy
chính là điều ngài đang nghi, ngăn trở ngài phát khởi lòng tin vậy!
* Hãy để
chuyện Phật rốt ráo là có hay không lại đó. Các hạ cứ muốn cật vấn Phật là có
hay là không, hãy tự hỏi chính các hạ rốt ráo là có hay là không? Nếu bảo là
không, những điều cà kê như trên, ai là người thuật nói? Nếu bảo là có, xin hãy
chỉ đích xác! Lời lẽ của người nói chỉ là do yết hầu và thức tâm hợp lại mà có.
Văn tự cũng do thức tâm, tay, bút vận động mà hiện. Mỗi mỗi đều chẳng ngoài Ngũ
Uẩn Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, đều chẳng phải là bản thân các hạ! Rời ngoài
năm pháp này, có chỉ được ai là các hạ để hỏi Phật rốt ráo là có hay không, mà
[các hạ cứ] ngỡ đó là câu hỏi đại trí huệ?
Nếu
chẳng chỉ ra được chính mình là có hay không, nhưng lại muốn biết Phật là có
hay không trước đã, thì đấy chỉ là câu hỏi cuồng vọng, chẳng đáng luận tới,
chẳng phải là câu hỏi thấu đạt lý đến cùng tận! Phật rốt ráo là có. Vì phàm
tình của ông chưa gột sạch, nên Phật chẳng thể hiện. Chính các hạ cũng là có.
Do Ngũ Uẩn của ông chưa là không, nên cũng chẳng thể lìa Sắc, Thọ, Tưởng, Hành,
Thức để chỉ ra được!
* Kinh
Kim Cang dạy hàng Bồ Tát phát tâm Bồ Ðề, phát tâm độ hết thảy chúng sanh, khiến
cho họ đều chứng Vô Dư Niết Bàn, nhưng chẳng thấy có một chúng sanh được diệt
độ. Chẳng trụ vào Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp để hành bố thí. Bố thí đứng
đầu trong lục độ vạn hạnh. Nêu lên bố thí thì trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn,
Thiền Định, trí huệ, cho đến vạn hạnh cũng đều chẳng trụ vào Sắc, Thanh, Hương,
Vị, Xúc, Pháp để tu. Kinh văn giản lược, chỉ nêu ra bố thí để nói chung tất cả
các pháp kia. Hãy nên không trụ vào đâu để sanh tâm. Không có các tướng ngã,
nhân, chúng sanh, thọ giả mà tu hết thảy thiện pháp. Nói như vậy thì nên bảo là
hữu tướng hay vô tướng?
Tướng
quang minh rộng lớn như thế chật kín thái hư mà bảo là không thì khác gì mù lòa
từ lúc mới sanh? Nói “không có một chúng
sanh được độ” là chẳng trụ vào tướng, vô tướng. “Vô sở trụ” là muốn cho con người chẳng vướng mắc trong phàm tình
lẫn thánh kiến để rồi chấp trước tướng.
Nói “độ tận chúng sanh, hành bố thí, sanh tâm,
tu thiện pháp” là muốn cho con người xứng tánh tu tập pháp tự lợi, lợi tha,
ngõ hầu mình lẫn người cùng được viên mãn Bồ Ðề mới
thôi. Đừng vướng vào đó, vọng chấp vô tướng là rốt ráo, chia sẻ cùng một
tri kiến với kẻ nhai bã hèm, có đáng gọi là người có trí huệ chăng? Tín có gì
là khó khởi, nghi có gì là khó trừ? Ông quyết định chẳng chịu khởi, quyết định
chẳng chịu trừ. Dù Phật có đích thân thuyết pháp cho ông, cũng chẳng làm sao
được! Huống hồ tôi đây chỉ là kẻ phàm phu đầy dẫy triền phược?
* Muốn
biết Phật là thật hay giả, sao chẳng đối
với những lý được bàn trong Tịnh Ðộ Văn, Tây Quy Trực Chỉ và những chuyện được
chép trong ấy mà phát khởi lòng tin, dứt lòng nghi? Lại cho rằng những ngôn
luận, sự tích ấy chỉ là chuyện bịa đặt, lời đồn, chẳng đáng để vào mắt vậy? Nếu
nghĩ như vậy, linh hồn nhất định chẳng đọa trong năm đường khác, chỉ ở ngay
trong địa ngục A Tỳ cho đến hết đời vị lai, cứ mãi mãi thụ dụng vạc sôi, lò
than, rừng gươm, núi đao do tâm hiển hiện, cứ coi chúng như các thứ lạc cảnh tự
tại để thụ dụng. Đã coi những điều đó là vui thì chẳng thể khuyên dụ được nữa!
Ông cứ
muốn biết Phật là thật hay giả, dù Tịnh Ðộ Văn, Tây Quy Trực Chỉ nói gì đi nữa
đều coi là chẳng thật; chỉ những gì chính mình đích thân thấy, đích thân chứng,
mới công nhận là thật; nay tôi lấy một sự tướng để hỏi, ông nên thẳng thắn đáp
lời, chẳng được hàm hồ, thoái thác!
Ông
Vương Thiết San ở Bắc Thông Châu vào thời nhà Thanh trước kia từng giữ chức
Phiên Ðài ở Quảng Tây. Khi ấy, Quảng Tây thổ phỉ rất nhiều. Lúc ông Vương coi
việc binh bị, bèn bày kế diệt hết phỉ đảng, bắt giết rất nhiều. Bốn năm trước
đây, ông mắc bệnh rất nặng. Cứ chợp mắt liền thấy chính mình ở trong căn nhà
tối tăm. Nhà đó rất lớn, lại rất tối, bọn quỷ vô số đều đến bức bách ông, sợ
quá bèn tỉnh dậy. Một lát sau, chợp mắt lại thấy y như cảnh cũ, lại hoảng sợ
tỉnh dậy. Suốt ba ngày ba đêm chẳng dám chợp mắt. Ông ta chỉ còn thở thoi thóp,
vợ bèn khuyên dụ: “Ông cứ như thế chẳng tốt đâu! Ông niệm Nam-mô A Di Ðà Phật
đi nhé, niệm Phật sẽ ổn ngay!”. Thiết San nghe vậy liền gắng niệm. Ðược một
chốc liền ngủ thiếp đi, ngủ đẫy một giấc không mộng mị gì, mà bệnh cũng dần dần
thuyên giảm. Nhân đó, ông ta trường trai niệm Phật. Năm ngoái, Thiết San và
Trần Tích Châu lên núi, có trò chuyện cùng Quang.
Nếu các
hạ lâm vào cảnh ấy, thì cứ phải biết trước là Phật là thật hay giả rồi mới niệm
hay chăng? Hay là nghe xong liền niệm? Nếu lúc ấy chẳng tốn công xét thật, giả,
cứ niệm ngay, thì hiện tại sao lại cùng người đời nay bàn bạc ngôn luận, sự
tích người đời trước là thật hay hư? Cứ nhất loạt cho là vọng, chỉ cầu điều
chẳng trọng yếu, [lo toan] cứu vớt tâm cảnh mơ màng, mờ mịt, mà muốn toan nhỏ
lệ khóc cầu nữa ư? Ðã có thể coi phú quý như chiếc dép rách, sao không thể coi
chấp trước giống như chiếc dép rách để bỏ sạch cả đi? Ông tính dùng tri kiến ấy
để làm cửa nhập đạo đấy ư? Chẳng biết nó chính là con đường để đạt tới địa ngục
A Tỳ đấy!
Dùng
mộng để ví với Phật thì vọng tâm là Nhân, mộng cảnh là Quả. Ví như niệm Phật là
Nhân, vãng sanh gặp Phật là Quả. Vì sao có thể lấy sáu tỷ dụ trong kinh Kim
Cang[3] để làm chứng? Đối với ngôn ngữ, văn tự thế gian, một
chữ, một sự, chẳng ngại gì diễn tả cả sang lẫn hèn, giảng giải cả tốt lẫn xấu.
Chẳng hạn như chữ “Tử”, dùng để chỉ
mình đức Phu Tử cũng được, mà chỉ người bình thường cũng được, dùng để gọi con
cái cũng được. Ðều phải dựa vào văn mạch để xác định ý nghĩa, quyết chẳng thể
đối với chữ Tử có nghĩa là Phu Tử, mà lại giảng là “nhi tử” (con cái) được!
Cõi Phật là mộng cảnh, đâu cần chờ các hạ thành Phật rồi mới nói sau. Nói như
vậy chỉ tự tổn hại, vô ích mà thôi!
* Sự,
Lý, Tánh, Tướng, Không, Hữu, Nhân, Quả lẫn lộn chẳng phân, chi bằng học theo
ngu phu, ngu phụ, cắm cúi niệm Phật, cứ chí cung, chí kính, một mực thành khẩn.
Lâu ngày chầy tháng, nghiệp tiêu, trí rạng, chướng tận, phước dầy, mối nghi tâm
ấy triệt để rơi rụng hết, thì những chuyện Phật có hay là không, chính mình là
có hay là không, đường nẻo “vào cửa Phật, lên bờ kia” đã có căn cứ chính xác,
há phải đợi hỏi ai nữa!
Nếu
chẳng chuyên tâm, dốc chí niệm Phật, cứ cùng người khác bàn suông những hiểu
biết chỉ mới được một phần thì cũng giống như xem kinh Kim Cang nhưng chẳng
biết Thật Tướng. Xem Tịnh Ðộ Văn, Tây Quy Trực Chỉ nhưng chẳng sanh tín tâm là
do nghiệp ngăn chướng tâm, chẳng thể lãnh hội. Như kẻ mù nhìn mặt trời, mặt
trời ở ngay trên không trung, mắt nhìn ngay vào mặt trời nhưng chẳng thấy được
tướng sáng, nào khác lúc chẳng thấy. Nếu mắt được sáng lại, vừa nhìn liền thấy
ngay tướng sáng.
Một pháp
Niệm Phật chính là một pháp tối thiết yếu để mắt được sáng lại. Muốn thấy tướng
trạng Thật Tướng, hãy nên dốc trọn lòng thành nơi pháp này, ắt sẽ mau có ngày
được thỏa nguyện. Muốn tự thấy Chân Ngã, nếu chẳng phải là bậc đại triệt đại
ngộ, sẽ chẳng thể làm được. Muốn chứng mà chẳng đoạn Hoặc, chứng Chân, sẽ không
thể được! Muốn viên chứng, nếu ba Hoặc chưa đoạn sạch, hai tử (phần đoạn sanh tử và biến dịch sanh tử)
chưa vĩnh viễn mất, sẽ chẳng thể được!
Luận
trên thực tại, các hạ luân hồi bao kiếp dài lâu và nay đang cật vấn những điều
trái với giáo lý đều do nương vào sức lực của Chân Ngã để làm. Do các hạ quay
lưng với giác, xuôi theo trần lao, nên chẳng thể thụ dụng chân thật. Khác nào
cái đầu của gã Diễn Nhã[4], hạt châu trong áo, từ đầu đến cuối chưa hề mất, lại lầm
lạc sanh sợ hãi, lầm lẫn chịu khốn cùng vậy!
* Tất cả
thế gian dù là căn thân (thân của chúng
ta) hay là thế giới (tức khoảng trời
đất chúng ta đang sống) đều là do đồng nghiệp (thế giới) và biệt nghiệp (căn
thân) trong tâm của chúng sanh cảm thành, đều có thành hoại, đều chẳng
trường cửu. Thân có sanh, già, bệnh, chết; thế giới có thành, trụ, hoại, không.
Câu nói: “Vật cực tắc phản, cực lạc sanh
bi” (mọi sự đến chỗ cùng cực sẽ
chuyển biến theo chiều ngược lại, vui quá hóa buồn) là nói về ý này. Do
Nhân đã là sanh diệt, Quả cũng chẳng thể không sanh diệt.
Thế giới
Cực Lạc do A Di Ðà Phật đã chứng ngộ triệt để Phật tánh sẵn có trong tự tâm,
tùy tâm biến hiện một thế giới xứng tánh trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn. Vì
thế, sự vui trong cõi ấy chẳng có lúc nào cùng tận. Ví như hư không rộng lớn
mênh mông, bao hàm hết thảy sâm la vạn tượng. Dù thế giới nhiều lần thành,
nhiều lần hoại, hư không rốt ráo chẳng bị tăng giảm. Ông đem sự vui thế gian để
vặn hỏi sự vui trong Cực Lạc, nhưng sự vui Cực Lạc ông chưa thể thấy. Dẫu ông
chưa thể thấy toàn bộ hư không, nhưng đối với khoảng hư không trong vòng trời
đất này, có bao giờ ông thấy nó bị biến đổi hay chưa?
Phải
biết: Hết thảy chúng sanh đều có Phật Tánh. Vì thế, đức Phật (chỉ Phật Thích Ca) dạy con người niệm
Phật cầu sanh Tây Phương để nhờ vào nguyện lực đại từ bi của Phật Di Ðà, cũng
sẽ thụ dụng niềm vui bất sanh bất diệt ấy. Do căn thân là liên hoa hóa sanh,
nên không có nỗi khổ sanh, già, bệnh, chết. Thế giới do công đức xứng tánh hóa hiện,
nên không có biến chuyển Thành, Trụ, Hoại, Không. Dù là thánh nhân vẫn có những
điều không biết, há có nên vì những pháp sanh diệt trong thế gian mà khởi nghi
ư?
* Pháp
môn Tịnh Ðộ là bi tâm triệt để của đức Như Lai, là pháp môn phổ độ chúng sanh,
khiến cho những kẻ phàm phu đầy dẫy triền phược, không có sức đoạn Hoặc, nhờ
tín nguyện trì danh sẽ được liễu thoát ngay trong đời này, cùng làm bè bạn với
Quán Âm, Thế Chí. Trên đến bậc Ðẳng Giác Bồ Tát, địa vị gần kề Phật Quả, vẫn
còn phải vãng sanh mới thành Chánh Giác. [Pháp môn này] chí viên, chí đốn,
thông trên, suốt dưới, vượt trội hết thảy các pháp môn đã được giảng trong cả
một đời giáo hóa [của đức Phật]. Vì thế, trong khi đức Phật giảng kinh A Di Ðà,
sáu phương chư Phật hiện tướng lưỡi rộng dài đồng thanh tán thán, khen là kinh
Công Ðức Chẳng Thể Nghĩ Bàn Ðược Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm.
Phật lại
nói: Ta là Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn làm được chuyện rất khó, hiếm có. Ðức Thế
Tôn ta tự phô bày túc nhân, bảo: “Ta
trong đời ác ngũ trược, làm được chuyện khó làm sau đây: Chứng đắc Bồ Ðề, vì
hết thảy thế gian nói pháp khó tin này. Thật là rất khó” khiến cho người
nghe tin nhận, phụng hành, nhằm thỏa thích rốt ráo bổn hoài xuất thế mà thôi.
Nhưng
pháp môn này rất sâu, khó lường, tuy đã được Bổn Sư và chư Phật Thế Tôn cùng
khuyên nên tin tưởng, nhưng trong cõi đời vẫn còn rất nhiều kẻ nghi. Không chỉ
hạng thế trí phàm tình chẳng tin, ngay cả hạng tri thức thông hiểu Tông, Giáo
sâu xa cũng còn ngờ vực. Không chỉ hạng tri thức chẳng tin, mà bậc Thanh Văn,
Duyên Giác đã chứng Chân Ðế, nghiệp tận tình không hãy còn nghi ngờ. Không chỉ
bậc tiểu thánh chẳng tin, ngay cả Quyền Vị Bồ Tát cũng hãy còn ngờ. Ngay đến
bậc Pháp Thân Ðại Sĩ dù đã tin chắc, nhưng vẫn chẳng thể thấu hiểu tận cùng
nguồn cội. Ấy là vì pháp môn này lấy Quả Giác làm Nhân Tâm (cái tâm để tu nhân), toàn thể là cảnh giới Phật, chỉ có Phật
với Phật mới có thể hiểu trọn, chẳng phải là trí của những hạng người khác hòng
thấu hiểu được nổi! Bọn phàm phu ta ngửa tin lời Phật, y giáo phụng hành, sẽ tự
được lợi ích thật sự. Nếu được nghe pháp môn chẳng thể nghĩ bàn này thì phải là
trong nhiều kiếp đã gieo sâu căn lành, huống hồ là tin nhận, phụng hành ư?
* Kinh
Hoa Nghiêm vua của Tam Tạng, do đức Như Lai lúc tối sơ thành Chánh Giác, vì các
bậc Pháp Thân Ðại Sĩ thuộc bốn mươi địa vị đã vượt ngoài cửu giới, giảng pháp
“thành Phật trong một đời”. Chỗ quy tông kết đảnh của Thật Nghĩa rốt ráo “thành
Phật trong một đời” là “dùng mười đại
nguyện vương, hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới để mong viên mãn
Phật Quả”.
Cảnh sở
chứng của Thiện Tài đã bằng với Phổ Hiền, bằng với chư Phật, được gọi là bậc
Ðẳng Giác Bồ Tát. Ðẳng Giác chỉ kém Phật một chút, nhưng vẫn còn phải hồi hướng
vãng sanh. Toàn bộ các Bồ Tát trong Hoa Tạng thế giới hải đều bẩm thọ giáo pháp
này, cùng tu pháp này. Huống chi mức độ căn tánh thông lợi và mức độ chứng nhập
sâu xa của những kẻ thông Tông, thông Giáo có hơn nổi các vị Bồ Tát ấy hay
chăng? Ngàn kinh, vạn luận, đâu đâu cũng dạy quy hướng, vãng thánh tiền hiền,
ai nấy đều hướng về, những kinh luận ấy há chẳng đáng để tuân thủ, hành theo ư?
Các vị thánh hiền ấy đều là hạng ngu phu, ngu phụ ư? Nói gọn một lời: Nghiệp
sâu, chướng nặng, chưa được giải thoát, nên đến nỗi đối với những việc hằng
ngày còn chẳng biết, cứ quen
thói chẳng suy xét đó thôi.
* Nếu
bảo: “A Di Ðà Phật an cư Cực Lạc. Mười phương thế giới vô lượng, vô biên. Trong
một thế giới, chúng sanh niệm Phật đã nhiều vô lượng, vô biên, A Di Ðà Phật một
thân làm sao tiếp dẫn trọn khắp hết thảy những chúng sanh niệm Phật trong mười
phương vô lượng vô biên thế giới được?”.
Ðáp: Sao
ông lại dùng tri kiến phàm phu để suy lường Phật cảnh? Tôi mượn thí dụ nói rõ
cho ông khỏi lầm. Một vầng trăng sáng ngời trên không, hiện bóng trong vạn con
sông, trăng có tâm chăng? Trên trời chỉ có một vầng trăng, nhưng biển cả, sông
ngòi, sông to, suối nhỏ, đều hiện trọn vẹn khuôn trăng. Dù nhỏ như một chước[5], một giọt nước, không nơi nào chẳng hiện toàn thể bóng
trăng.
Vả nữa,
vầng trăng hiện nơi sông, rạch, một người nhìn thì có một vầng trăng ở ngay
trước người ấy. Trăm ngàn vạn ức người trong trăm ngàn vạn ức chỗ cùng nhìn,
không một ai là chẳng có một vầng trăng ở ngay trước mặt. Nếu trăm ngàn vạn ức
người ai nấy đi qua Ðông, Tây, Nam, Bắc; mỗi người đi đến đâu, luôn thấy trăng
cũng đi theo qua đấy, chẳng hề gần, xa! Nếu trăm ngàn vạn ức người đứng yên
chẳng động, trăng cũng đứng yên chẳng động, thường ở bên người. Chỉ là nước
trong lặng, trăng sẽ hiện; nước đục ngầu, chao động, trăng ẩn mất. Trăng vốn
chẳng lấy bỏ. Trăng chẳng hiện là do nước đục ngầu, lay động, chẳng phản chiếu
bóng trăng. Tâm chúng sanh như nước, A Di Ðà Phật như trăng. Chúng sanh đầy đủ
Tín, Nguyện, Hạnh, chí thành cảm Phật thì Phật sẽ ứng như nước trong, trăng
hiện. Nếu tâm chẳng thanh tịnh, chẳng chí thành, ứng với tham, sân, si, trái
nghịch Phật, giống như nước vừa đục vừa xao động, dù trăng vẫn chiếu xuống, nhưng
chẳng thể hiện bóng rõ ràng.
Trăng là
sắc pháp thế gian, còn có diệu dụng như thế, huống hồ A Di Ðà Phật đã hết sạch
phiền hoặc, phước huệ đầy đủ, tâm trùm thái hư, lượng trọn pháp giới ư? Vì thế,
kinh Hoa Nghiêm bảo: “Phật thân đầy khắp
pháp giới, hiện trước khắp hết thảy chúng sanh. Tùy duyên cảm ứng không đâu là
chẳng trọn khắp, nhưng luôn ngồi nơi tòa Bồ Ðề này”. Do đó, biết rằng: Khắp
pháp giới cảm, Phật bèn ứng khắp pháp giới. Phật quả thật chưa từng khởi tâm
động niệm, chưa hề có ý tưởng đến đi, nhưng có thể khiến cho chúng sanh duyên
đã thành thục bèn thấy Ngài đến nơi đây tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Vì lẽ
đó, Phật chẳng phải là một, chẳng phải là hai. Do vậy, chỉ bày đại ý để sanh
chánh tín mà thôi.
* Hãy
nên biết pháp môn Tịnh Ðộ chính là để nhiếp phục người thượng thượng căn. Vì
thế, Thiện Tài đã chứng Ðẳng Giác, Phổ Hiền Bồ Tát vẫn dạy Ngài dùng mười đại
nguyện vương hồi hướng vãng sanh, ngõ hầu viên mãn Phật Quả; nhân đó, khuyên
khắp Hoa Tạng hải chúng. Do vậy, ta biết một pháp hồi hướng vãng sanh Tịnh Ðộ
chính là pháp tối hậu để viên mãn Phật Quả.
Ðời có
kẻ cuồng chẳng hiểu kỹ giáo lý, thấy ngu phu, ngu phụ đều có thể tu tập pháp
này, bèn khinh rẻ, cho là pháp Tiểu Thừa, chẳng biết đây chính là pháp môn đệ
nhất thành Phật trong một đời, thành thỉ, thành chung của Hoa Nghiêm. Cũng có
kẻ ngu, tri kiến hẹp kém, nghĩ mình công phu cạn mỏng, nghiệp lực sâu dầy, làm
sao có thể sanh ngay được; chẳng biết tâm tánh chúng sanh và tâm tánh của Phật
chẳng hai. Ngũ Nghịch, Thập Ác sắp đọa địa ngục, gặp thiện tri thức dạy cho
niệm Phật đủ cả mười tiếng, hoặc chỉ mấy tiếng rồi liền chết đi, còn được vãng
sanh. Cớ sao chẳng tin lời Quán Kinh dạy? Bọn họ còn vãng sanh, huống hồ chúng
ta dù có tội nghiệp, dù ít công phu, nhưng so với với kẻ Thập Ác, Ngũ Nghịch
kia [chỉ niệm] mười tiếng hay là mấy tiếng, còn vượt trội rất nhiều, lẽ nào tự
phụ rẫy chính mình đến nỗi đánh mất lợi ích vô thượng này?
Như Lai
gọi pháp môn Tịnh Ðộ này là “pháp khó tin” vì thực hiện dễ, lại thành công cao,
dùng công ít, đạt được hiệu quả nhanh chóng. Chí viên, chí đốn, thẳng tắt, rộng
lớn, đơn giản, dễ dàng, vượt trội hết thảy giáo lý thông thường. Nếu chẳng phải
là xưa kia vốn có thiện căn, quyết sẽ khó tin nhận, phụng hành. Tôi thường nói:
“Cửu giới chúng sanh lìa khỏi pháp môn
này thì trên chẳng thể viên thành Phật đạo. Mười phương chư Phật bỏ pháp môn
này thì dưới chẳng thể lợi khắp quần manh”, đó là sự thật vậy!
* Pháp
môn Tịnh Ðộ độ khắp ba căn, chính là để tiếp độ căn khí thượng thượng, kiêm
tiếp dẫn hạng trung hạ căn. Kẻ ngu thường hay chê là pháp thiển cận, Tiểu Thừa;
nói chung là vì chẳng đọc kinh luận Ðại Thừa, chưa phải là người thông suốt có
đủ con mắt, chỉ dùng cái tâm điên đảo, chấp trước của chính mình để suy lường
đạo trọng yếu từ đầu đến cuối của Như Lai. Như kẻ mù ngó mặt trời, như người
điếc nghe sấm, đương nhiên chẳng thấy, chẳng nghe, chỉ đành suy luận vọng
tưởng!
Phải
biết một pháp tín nguyện niệm Phật là do Như Lai vì bi tâm triệt để phổ độ
chúng sanh mà tuyên thuyết. Chỉ có các vị Bồ Tát như Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù,
Phổ Hiền mới có thể rốt ráo đảm đương. Bọn họ thấy ngu phu, ngu phụ đều có thể
niệm Phật, bèn coi là pháp Tiểu Thừa thiển cận, khác nào thấy ngôi sao bé tí lơ
lửng trên bầu trời bèn chê trời bé, con trùng nhỏ xíu bò trên mặt đất bèn chê
đất hẹp ư?
Nếu có
thể sanh lòng tin tưởng pháp này, đó là do nhiều kiếp đã trồng sâu thiện căn.
Nếu có thể dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật, nhiếp trọn sáu căn, tịnh
niệm tiếp nối thì cái tâm phàm phu đó liền biến thành Như Lai Tạng, như người
nhiễm hương, thân có mùi thơm. Hiện tại đã tiếp xúc khí phận của Phật, lúc lâm
chung lại chẳng cảm ứng đạo giao, được Phật tiếp dẫn hay sao?
2.3. Khuyên đầy đủ tín nguyện
* Dù
kính cẩn tu trì Ngũ Giới, Thập Thiện, được làm thân trời người, nhưng phước lạc
nhân gian lại chính là cội rễ đọa lạc. Dù trên trời phiền hoặc chẳng mãnh liệt
như trong nhân gian, nhưng một khi phước trời đã tận, nhất định sẽ đọa xuống.
Do túc phước chưa hết, nên được hưởng phước. Do hưởng phước nên tạo nghiệp. Ðã
tạo nghiệp thì đọa lạc ác đạo chỉ trong khoảng nháy mắt, một hơi thở mà thôi!
Huống hồ có kẻ khi mạng trời đã hết, vì sức ác nghiệp đời trước đã chín muồi,
liền đọa ngay trong ác đạo! Vì thế, cổ đức bảo người tu hành nhưng không có
chánh niệm tu trì Tịnh nghiệp, chỉ đạt được phước báo trời người, thì gọi là “oán thù đời thứ ba”. Kinh Pháp Hoa nói:
“Tam giới không yên, giống như nhà lửa.
Thật đáng sợ hãi”. Người biết tốt xấu phải gấp cầu xuất ly để được yên ổn
thì mới là kế sách bậc thượng vậy.
* Một
pháp Niệm Phật cậy vào Phật lực để thoát tam giới, sanh về Tịnh Ðộ. Nay đã
chẳng phát nguyện, há có tin được hay chăng? (Người tin thật sự, ắt sẽ phát nguyện tha thiết). Tín nguyện đều
không có, chỉ niệm danh hiệu Phật thì thuộc về Tự Lực. Vì không có tín nguyện,
nên chẳng thể cảm ứng đạo giao với hoằng thệ của đức Di Ðà. Nếu đã trừ hết Kiến
Tư Hoặc, có lẽ được vãng sanh. Còn nếu hoàn toàn chưa đoạn hay chưa đoạn hết
sạch thì nghiệp căn vẫn còn, làm sao có thể thoát ngay khỏi luân hồi cho được?
Ngũ Tổ Giới Diễn, Thảo Ðường Thanh v.v... chính là những chứng cớ xác thực.
Phải biết: Không có tín nguyện mà niệm Phật, sẽ chẳng khác gì tham cứu bên
Tông, bên Giáo. Dù có được vãng sanh, nhưng nhân quả chẳng phù hợp với nhau!
Ngài Ngẫu Ích nói: “Ðược vãng sanh hay
không, toàn là do có tín nguyện hay không. Phẩm vị cao hay thấp, toàn là do trì
danh sâu hay cạn”. Ðấy chính là phán định sắt đanh vậy.
* Bình
sinh tuyệt chẳng có tín nguyện thì khi lâm chung nhất định khó cậy vào Phật
lực. Ðã bảo là “thiện ác đồng thời cùng hiện”, nên đừng nói là đối với kẻ do
bốn chữ A Di Ðà Phật chẳng hiện nên chẳng được vãng sanh; ngay cả [bốn chữ ấy]
có hiện [đi nữa, kẻ ấy] vẫn chẳng được vãng sanh! Vì sao? Do chẳng nguyện vãng
sanh, do chẳng cầu Phật, nên chẳng được Phật tiếp dẫn. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giả sử ác nghiệp có thể tướng thì mười
phương hư không chẳng thể chứa đựng”. Cổ đức nói: “Như người mắc nợ, chủ nợ nào mạnh sẽ kéo đi trước”. Tâm tình đa
đoan, đặt nặng nơi nào sẽ rơi về đó. Nay thiện ác đều hiện, do không có tín
nguyện, nên đối với ác nghiệp, chẳng thể làm gì được! Phải biết: Cậy vào tự lực
thì nếu hãy còn một mảy ác nghiệp, sẽ chẳng thể xuất ly sanh tử, huống hồ nhiều
ác nghiệp!
Lại nữa,
nếu không có tín nguyện, dù niệm đến Nhất Tâm thì trong vô lượng vô biên người
như thế, may ra có một hai người được vãng sanh. Quyết chẳng thể lấy đó làm
gương để cắt đứt thiện căn vãng sanh Tịnh Ðộ của hết thảy mọi người trong đời
sau. Vì cớ sao? Người có thể cậy vào tự lực, niệm đến mức nghiệp tận tình
không, chứng Vô Sanh Nhẫn, trong cả cõi đời ít có được một, hai. Nếu ai nấy tu
hành theo cách đó, bỏ Tín Nguyện chẳng theo, thì đông đảo chúng sanh sẽ ở mãi
trong biển khổ, không có cách nào xuất ly, đều là do bị một lời này chèn ép.
Thế mà kẻ ấy vẫn nhơn nhơn đắc ý, cho mình là thật cao, chẳng biết chính mình
bị đoạn Phật huệ mạng, là chúng sanh ngu si ăn nói ngông cuồng. Buồn thay! Đối
với pháp Tịnh Ðộ, phải tránh nhìn bằng một mắt, chớ nên dùng những giáo nghĩa
thông thường để so bì. Nếu Như Lai chẳng mở ra pháp này thì sự liễu sanh thoát
tử của chúng sanh đời Mạt sẽ chẳng thể thấy được.
* Hãy
thường nên phát tâm quyết định: Lâm chung quyết định muốn được sanh về Tây
Phương. Ðừng nói là chẳng muốn thọ lại thân người tầm thường, ngay cả thân vua
trong cõi trời người và xuất gia làm Tăng, nghe một, ngộ cả ngàn, đắc đại tổng
trì, hoằng dương pháp hóa rộng lớn, làm thân cao tăng lợi lạc trọn khắp chúng
sanh, cũng coi như chỗ chất chứa tội lỗi, độc hại, tâm quyết định chẳng sanh
một niệm muốn thụ lãnh. Quyết định như thế thì Tín, Nguyện, Hạnh của chính mình
mới cảm được thệ nguyện của Phật, mới được Phật nhiếp thọ. Cảm ứng đạo giao,
được Phật tiếp dẫn, thẳng lên chín phẩm, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi.
* Hãy
nên biết Tây Phương Cực Lạc thế giới, đừng nói là phàm phu chẳng đến được, ngay
cả thánh nhân Tiểu Thừa cũng chẳng đến được, vì nơi ấy thuộc về cảnh giới Ðại
Thừa chẳng thể nghĩ bàn. Tiểu thánh hồi tâm hướng đại thì liền đến được. Phàm
phu nếu không có tín nguyện để cảm Phật, dù tu hết thảy các hạnh thù thắng khác
lẫn hạnh trì danh thù thắng, cũng chẳng thể vãng sanh! Vì thế, Tín Nguyện là
tối khẩn yếu. Ngài Ngẫu Ích nói: “Ðược
vãng sanh hay không, toàn là do có tín nguyện hay không. Phẩm vị cao hay thấp,
toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thể
thay đổi lời phán định sắt đanh này! Hễ tin cho tới nơi, dám chắc ông phải có
phần nơi Tây Phương.
* Nếu
luận về pháp
môn Niệm Phật
thì chỉ có
ba pháp Tín, Nguyện, Hạnh là tông yếu. Ðầy đủ ba
pháp, quyết định vãng sanh. Nếu không có tín thật, nguyện thiết, dù có chân hạnh,
cũng chẳng thể vãng sanh, huống là kẻ tu hành hời hợt, qua loa ư? Ngài Ngẫu Ích
từng bảo: “Ðược vãng sanh hay chăng, toàn
là do có tín nguyện hay không. Phẩm vị cao hay thấp, toàn là do trì danh sâu
hay cạn”. Bởi lẽ, pháp này cả ba đời chẳng dễ thường bàn, là đạo mầu độ
khắp ba căn. Hãy nên dốc trọn toàn thân nương về tu tập, mới hòng chứng được
lợi ích thật sự.
Ba thứ
Tín, Nguyện, Hạnh, sách Thập Yếu đã giảng rõ từng thứ, nhưng trọng yếu nhất là
trong phần giảng về Ngũ Trùng Huyền Nghĩa của sách Yếu Giải, phần thứ ba là
Minh Tông (minh định tông thú của kinh)
đã nêu tỏ ba pháp này tinh tường bậc nhất. Tiếp đó, trong mỗi một đoạn văn, Tổ
đều giảng giải về Tín, Nguyện, Hạnh. Hãy nên đọc thật kỹ cuốn sách chẳng thể
thiếu này.
* Muốn
sanh về Tây Phương, trước hết phải có Tín thật, Nguyện thiết. Nếu không có lòng
tin chân thật, nguyện thiết tha, dù cho tu hành vẫn chẳng thể cảm ứng đạo giao
cùng Phật, chỉ đạt được phước báo nhân thiên và tạo thành cái nhân đắc độ trong
đời vị lai mà thôi. Nếu đầy đủ Tín, Nguyện, thì vạn người [được vãng sanh],
chẳng sót một ai. Tổ Vĩnh Minh bảo: “Vạn
người tu, vạn người đến” là nói về Tín, Nguyện, Hạnh đấy!
* Phàm
lễ bái, đọc tụng kinh điển Ðại Thừa và làm trọn những việc lợi ích cho đời, cho
người, thảy đều đem hồi hướng Tây Phương, chẳng cứ gì niệm Phật mới có thể hồi
hướng Tây Phương. Nếu đem các công đức khác hồi hướng về phước báo thế gian thì
niệm chẳng quy một mối, càng khó vãng sanh. Hãy nên biết: Nếu thật sự niệm
Phật, chẳng cầu phước báo thế gian, nhưng tự được hưởng phước báo thế gian (như trường thọ, không bệnh tật, gia đình
yên vui, con cháu phát đạt, các duyên như ý, vạn sự tốt lành v.v…). Nếu cầu
phước báo thế gian, chẳng chịu hồi hướng vãng sanh thì đâm ra phước báo thế
gian đạt được đó sẽ tệ kém. Do tâm chẳng chuyên nhất, nên càng khó quyết định
vãng sanh!
* Người
niệm Phật chỉ nên chân thành, thiết tha niệm Phật, tự có thể nương vào Phật tự
lực hòng tránh khỏi nạn đao binh, lửa, nước. Dẫu vì túc nghiệp lôi kéo, hoặc do
báo nặng trong địa ngục chuyển thành báo nhẹ trong hiện đời, nên mắc phải những
nạn ấy, nhưng do thường ngày có lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, nên ngay
khi ấy sẽ được Phật tiếp dẫn. Dù hiện tại chưa chứng tam-muội, nhưng đã dự vào
dòng thánh. Tự thân như hình bóng, [các tai nạn] đao binh, nước, lửa đều chẳng
trở ngại chi. Dù hiện tại gặp phải tai ương, thật sự chẳng bị khổ. Cả thế giới
mênh mông, mấy ai được như vậy?
* Nguyện
lìa Sa Bà như tù nhân mong thoát lao ngục. Nguyện sanh về Cực Lạc như đứa con
nghèo túng mong về lại cố hương. Nếu trước khi chưa sanh về Tịnh Ðộ mà được
trao cho ngôi vua trong cõi trời người thì cũng nên coi đó là nhân duyên đọa
lạc, trọn không có một niệm mong cầu, hâm mộ. Dẫu đời sau chuyển nữ thành nam,
xuất gia từ thơ ấu, nghe một, ngộ cả ngàn, đắc đại tổng trì, cũng phải coi đó
là đường quanh ngõ rẽ trên đường tu, trọn chẳng có một tâm niệm mong mỏi! Chỉ mong
lúc lâm chung, được Phật tiếp dẫn, vãng sanh Tây Phương.
Ðã được
vãng sanh, sẽ liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh, ở vào địa vị Bổ Xứ,
chứng Vô Sanh Nhẫn, nhìn lại những sự như làm vua trong cõi trời người, xuất
gia làm Tăng v.v... há bằng Tịnh Ðộ. Tu các pháp môn khác, phải trải bao kiếp
khó nhọc, chuyên cần, nhưng chẳng thể do đâu mà được giải thoát! Như lửa đóm
sánh với vầng mặt trời rạng rỡ, như gò mối sánh cùng Thái Sơn, khó ngăn đau
xót, khó kìm buồn bã! Bởi vậy, người tu Tịnh Ðộ trọn chẳng thể cầu những sự như
hưởng phước lạc nhân thiên trong đời sau và đời sau xuất gia làm Tăng! Nếu có
chút mảy may mong cầu đời sau, tức là chẳng có lòng tin chân thành và nguyện
thiết tha, đối với thệ nguyện của đức Di Ðà sẽ bị cách trở, chẳng thể cảm ứng
đạo giao, chẳng được Phật tiếp dẫn! Như vậy là đã dùng diệu hạnh thù thắng
chẳng thể nghĩ bàn này để tạo tác cái nhân phước báo hữu lậu trong cõi nhân
thiên.
Vả nữa,
lúc hưởng phước, ắt sẽ tạo nghiệp. Ðã tạo ác nghiệp, ắt khó tránh ác báo. Như
bỏ chất độc vào đề hồ liền có thể giết người. Kẻ chẳng khéo dụng tâm, phạm lỗi
như thế. Phải nên triệt để cắt đứt ý niệm ấy thì mới hòng đạt được lợi ích hoàn
toàn nơi Tịnh Ðộ, toàn thân thụ dụng vậy!
* Dù thọ
cả trăm năm, chỉ là trong khoảng khảy ngón tay. Hễ còn một hơi thở, hãy nên cầu
tìm đường thoát, chớ để đến lúc lâm chung, hối cũng chẳng kịp! Thường nhớ kinh
dạy: “Thân người khó được, trung quốc khó
sanh, Phật pháp khó nghe, tín tâm khó khởi”. Nay may mắn có đủ cả bốn điều,
càng phải nên nỗ lực như đã lên được núi báu, phải tìm cho được ngọc Ma Ni.
Chúng sanh vì còn trong địa vị phàm phu, chưa đoạn Hoặc Nghiệp, sanh tử giải
quyết chưa xong, khó tránh đọa lạc; cho nên, đức Như Lai cực lực khuyên chúng
sanh phát tâm chân tín và nguyện tâm thiết tha, trì danh hiệu Phật, cầu sanh
Tịnh Ðộ. Ðối với hết thảy công đức đã tạo như cúng dường Tam Bảo, giữ giới cả
đời... chẳng cầu phước báo đời sau trong cõi nhân thiên, chẳng cầu đời này
trường thọ, khỏe mạnh, yên vui, chỉ cầu lâm chung vãng sanh Tịnh Ðộ thì phù hợp
với thệ nguyện của Phật, cảm ứng đạo giao, chắc chắn được mãn nguyện. Như người
rớt xuống biển, có thuyền đến cứu, nếu chịu lên thuyền, sẽ lên được bờ kia. Cầu
phước nhân thiên, chẳng cầu vãng sanh, giống như chẳng lên thuyền, khó khỏi
chết chìm! Phật muốn ông siêu phàm nhập thánh, ông lại chỉ nguyện đạt được
phước hữu lậu. Một khi phước báo đã hết, vĩnh viễn đọa trong tam đồ. Khác nào
dùng ngọc Ma Ni để ném chim sẻ, được thì ít, mất quá nhiều. Chẳng tiếc lắm ư?
Hãy nên tự cảnh tỉnh!
* Nếu
muốn trong đời này được hưởng lợi ích chân thật, hãy nên nương vào pháp môn
Tịnh Ðộ, tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương, quyết định được liễu sanh
thoát tử. Nếu chẳng nương vào pháp môn Niệm Phật, đừng nói tới kẻ chưa được
chân truyền Phật giáo, ngay cả kẻ đã được chân truyền, vẫn chẳng thể liễu sanh
thoát tử! Vì sao thế? Dù đã được chân truyền, đại triệt, đại ngộ, nhưng vẫn
chưa thật sự chứng. Có chứng thì mới có thể liễu sanh thoát tử, chứ chỉ ngộ thì
chẳng thể liễu!
Tu các
pháp môn khác đều phải đoạn Hoặc chứng Chân thì mới có thể liễu sanh thoát tử.
Tu pháp môn Tịnh Ðộ, chỉ cần đầy đủ tín thật, nguyện thiết, trì danh hiệu Phật,
đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, Chánh, Trợ cùng hành, không chỉ
chắc chắn được vãng sanh, mà phẩm vị còn ưu thắng nữa. Chẳng riêng kẻ tin tưởng
thuần thành, siêng tu được vãng sanh, mà hạng Ngũ Nghịch Thập Ác sanh lòng hổ
thẹn lớn lao, chí tâm niệm Phật mấy tiếng, ngay trong lúc mạng chung, nhất định
được vãng sanh. Do lòng Từ rộng lớn của Phật chuyên chú trọng độ sanh, nên
[chúng sanh] nhất niệm hồi quang liền được nhiếp thọ. Đó gọi là “nương vào Phật từ lực, đới nghiệp vãng
sanh”. Chúng sanh đời Mạt chẳng nương theo Tịnh Ðộ, tu các pháp môn khác,
chỉ đạt được phước báo nhân thiên và tạo nhân duyên đắc độ cho đời vị lai mà
thôi. Do không có sức đoạn Hoặc, gốc
sanh tử vẫn còn, há mầm
mộng sanh tử chẳng nẩy sanh nữa hay sao?
* Pháp
Niệm Phật chú trọng Tín Nguyện. Tín Nguyện chân thiết, dù trong tâm chưa thanh
tịnh, cũng được vãng sanh. Vì sao vậy? Do chí tâm niệm Phật là năng cảm, nên A
Di Ðà Phật liền năng ứng. Như nước trong sông, biển, chưa thể dứt sạch tướng
động; nhưng nếu không gió cuồng, sóng to, vầng trăng rạng ngời trên không sẽ
hiện bóng lồ lộ. Cảm ứng đạo giao như mẹ con nhớ nhau. Các pháp khác chuyên
trọng tự lực, chẳng nhờ vào Phật lực là do chẳng hiểu nghĩa này.
* Ước
theo những cách giảng dạy thông thường thì trong địa vị phàm phu mà muốn liễu
sanh thoát tử, quả thật chẳng phải là chuyện dễ dàng! Nếu ước theo pháp môn đặc
biệt tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ thì ngay trong hiện đời ắt được liễu
thoát. Nếu như đầy đủ chân tín, nguyện thiết, trong vạn người, nhất định [được
vãng sanh] chẳng sót một ai. Chúng sanh đời Mạt chỉ có mỗi pháp này đáng để
nương cậy. Bởi thế, khi vận mạng đạo pháp ngày càng suy giảm, pháp này càng
thích đáng căn cơ, thiện tri thức càng đề xướng thiết tha. Do chân thật tu trì,
liền được vãng sanh là điều chứng nghiệm thường thấy.
* Pháp
môn Tịnh Ðộ lấy ba pháp Tín, Nguyện, Hạnh làm Tông. Có tín nguyện, bất luận tu
hành nhiều, ít, cạn, sâu, đều được vãng sanh. Không có tín nguyện, dẫu đạt đến
địa vị cả Năng lẫn Sở cùng mất, vượt thoát căn trần, vẫn khó thể vãng sanh! Nếu
thật sự chứng đắc Thật Lý “Năng lẫn Sở
cùng mất, vượt thoát căn trần”, có thể cậy vào tự lực để liễu sanh thoát
tử, thì chẳng phải bàn đến nữa. Nhưng nếu công phu chưa [đạt đến mức] thấy được
lý ấy, vẫn còn chưa thật chứng, nếu không có tín nguyện, thì cũng khó vãng
sanh!
Thiền
gia giảng Tịnh Ðộ thường quy về Thiền Tông, bỏ qua tín nguyện. Nếu thật sự y
theo đó để tu, cũng có thể khai ngộ, nhưng do chưa đoạn Hoặc nghiệp, muốn liễu
sanh tử thì có mơ cũng chẳng mơ được! Bởi lẽ, phàm phu vãng sanh là do tín
nguyện cảm Phật, nên có thể nương vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh. Nay đã
chẳng sanh tín nguyện, lại toan đem Phật và cõi nước quy hết vào tự tâm, làm
sao cảm Phật cho được? Cảm ứng chẳng phù hợp thì chúng sanh là chúng sanh, Phật
là Phật, biến pháp Hoành Siêu (siêu việt
tam giới theo chiều ngang) thành pháp Thụ Xuất (thoát tam giới theo chiều dọc), được lợi thì ít, nhưng lại bị tổn
hại rất sâu! Chớ nên không biết điều này! Ðược lợi là do tuân theo thuyết ấy,
cũng có thể khai ngộ. Còn bị tổn hại là: Do bỏ tín nguyện, sẽ không cách nào
cậy nhờ Phật từ lực! Bởi vậy, tôi bảo: “Người
thật sự tu Tịnh Ðộ, đừng dùng lời khai thị của nhà Thiền, vì tông chỉ của pháp
môn bất đồng vậy”.
[1] Dương diệm (mirage): Ảo ảnh do sức nóng hay ánh nắng soi lên các lớp không khí
lạnh hay nóng khác nhau tạo thành, trông xa giống như có nước đọng.
[2] Ðăng Ðịa Bồ Tát còn gọi
là Ðịa Thượng Bồ Tát, chính là bậc Bồ Tát đã chứng từ Sơ Ðịa trở lên.
[3] Sáu tỷ dụ trong kinh Kim Cang là mộng,
huyễn, bọt nước, hình bóng, sương và tia chớp.
[4] Ðầu gã Diễn Nhã: Theo kinh Lăng Nghiêm,
Diễn Nhã Đạt Đa soi gương thấy mặt mình, bèn sanh vọng tưởng là đầu của ai đây,
đầu của mình ở đâu, rồi đâm ra sợ hãi phát cuồng.
[5] Chước (勺): Một phần trăm của Thăng (ta thường dịch Thăng là Thưng), là một đơn vị đo dung lượng rất
nhỏ. Mười chước là một Cáp (ta thường
dịch là một “lẻ”). Một Thưng gần bằng một Lít (người Hoa gọi litre là “công thăng”). Như vậy, có thể tạm hiểu
một chước gần bằng một centilitre.
Nhận xét
Đăng nhận xét