B. Lão thật tu hành, tự tại vãng sanh
NIỆM PHẬT TÂM ĐỊA CÔNG PHU
Nguyên tác: Lão Pháp sư Tịnh Không
Nguyên tác: Lão Pháp sư Tịnh Không
Buổi sáng 22-12-1998.
Quý vị ở đây kết thất niệm Phật nhất định
phải hiểu rõ ý nghĩa của Phật thất. Trong 7 ngày này chúng ta hy vọng đạt đến
kết quả gì, được như vậy thì 7 ngày này mới không luống qua.
Chúng ta sinh sống trong thời đại hiện nay,
nếu có trí huệ thì nhất định sẽ có cảnh giác cao độ. Con người sống trong thế
gian bất quá chỉ được mấy chục năm ngắn ngủi, búng ngón tay thì đã trôi qua mất
rồi, bình tĩnh quan sát mới biết đó chỉ là một con số không [to tướng], đây là
sự thật. Sự hạnh phúc quý báu nhất của người ta trong đời là không tạo ác
nghiệp. Nếu có thể không tạo ác nghiệp, tương lai nhất định sẽ sanh vào cõi
lành, cõi tốt đẹp.
Người xưa nhắc nhở người tu hành như chúng
ta cần phải có ‘tiền hậu nhãn’ (mắt phía
trước và sau). Tiền hậu nhãn nghĩa là biết quá khứ, nhìn thấy tương lai,
không chỉ tập trung ở hiện tại. Ðiểm này vô cùng quan trọng.
Lúc Hàn Quán trưởng vãng sanh đã cho chúng
ta rất nhiều bài học, nhắc nhở chúng ta ‘tử sanh sự đại’ (việc sanh tử vô
cùng quan trọng). Chúng ta cần phải có cảnh giác cao độ, đến lúc lâm chung tự
mình phải làm chủ được mình, được như vậy thì tiền đồ mới xáng lạn. Nếu lúc lâm
chung tự mình không làm chủ được, phải chịu sự sắp xếp của người khác, cho dù
có rất nhiều người lo lắng chăm sóc, nhưng những gì mình cảm xúc chưa chắc sẽ
được toại ý. Ðời sau đi về đâu đều quyết định ở một niệm cuối cùng. Một niệm
cuối cùng là tham, sân, si thì sẽ đi vào ác đạo. Chuyện này dễ sợ vô cùng!
Hàn Quán trưởng có phước báo, từ lúc sanh
bịnh đến lúc vãng sanh được ba mươi mấy vị xuất gia có tâm địa thanh tịnh, suốt
ngày đêm ở bên giường bịnh niệm Phật và chăm sóc; sau khi vãng sanh [họ trợ]
niệm suốt 49 ngày đêm không ngừng, ngay cả những vị xuất gia, đại pháp sư cũng
không làm được việc này. Ngay cả lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam ở Ðài Trung cũng sánh
không bằng, lúc cụ Lý sanh bịnh chỉ là do vài người học trò chăm sóc, không có
nhiều người xuất gia đắp y đầy đủ oai nghi giúp đỡ. Phước báo này là một nhân
duyên hiếm hoi! Ðây là quả báo của bà đã hộ trì chánh pháp suốt 30 năm, cho nên
bà có thể vãng sanh Tịnh Ðộ một cách vô cùng thuận lợi -- trợ duyên quá thù thắng,
tốt đẹp!
Suy nghĩ trở lại, tương lai lúc chúng ta
vãng sanh có được duyên phận thù thắng như vậy hay không? Ðiều này chúng ta cần
phải cảnh giác đến, đây thiệt là một việc lớn lao nhất trong đời này. Trong
trường hợp và hoàn cảnh hiện tại, phương pháp [an toàn nhất] là tự mình phải
nhất quyết tu học cho được thành tựu, không cần nhờ người khác, lúc vãng sanh
không bị bịnh khổ, dự biết trước thời giờ [ra đi], đứng vãng sanh, ngồi vãng
sanh, nằm vãng sanh, tuỳ ý muốn của mình, đây là sanh tử tự tại, được vậy chúng
ta mới không bỏ uổng đời này. Mọi người tham dự Phật thất niệm Phật phải
hiểu rõ, nắm chắc tông chỉ này, chúng ta đến đây là để huấn luyện thêm, học tập
để tương lai tự tại vãng sanh.
1. Những chuyện vãng sanh gần đây
Trong quyển Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục và Vãng
Sanh Truyện có ghi rất nhiều người tự tại vãng sanh, số người không được ghi
chép lại còn nhiều hơn. Gần đây trong quyển Niệm Phật Luận của lão pháp sư Ðàm
Hư, Ngài nói đã chứng kiến tận mắt hơn hai mươi mấy người vãng sanh, [số người
vãng sanh] nghe nói đến còn nhiều hơn. Trong quyển Niệm Phật Luận, Ngài thuật
lại bốn chuyện vãng sanh, trong đó người xuất gia có pháp sư Tu Vô ở chùa Cực
Lạc, Harbin (miền Ðông Bắc Trung-Quốc),
người tại gia có cư sĩ Trịnh Thiết Tân và người em của ông, người thứ tư là
Trương cư sĩ ở chùa Trạm Sơn.
Pháp sư Tu Vô là một người cực khổ cả đời,
không biết chữ, trong pháp hội truyền giới ở chùa Cực Lạc, phát tâm giúp đỡ săn
sóc cho người bịnh. Pháp hội truyền giới còn chưa kết thúc, thầy Tu Vô dự biết
trước thời giờ đã đến, niệm Phật vãng sanh. Trước lúc vãng sanh ngài nhắc nhở
đại chúng ‘có thể nói mà không thể làm
thì chẳng phải trí huệ chơn thật’.
Cư sĩ Trịnh Thiết Tân là một người làm ăn
buôn bán, được dịp nghe lão pháp sư Ðàm Hư thuyết pháp nên rất vui vẻ, tán thán.
Sau này nghỉ buôn bán, học giảng kinh A-Di-Ðà, ông đi đến nhiều nơi giảng kinh
và khuyên người niệm Phật. Ông không sanh bịnh, ngồi mà vãng sanh. Một hôm sau
khi giảng kinh xong ông nói với đại chúng: ‘Tôi
phải đi đây’, thật là siêu thoát! Thật là tự tại! Người em của ông lúc
trước cứ cho rằng ông học Phật quá mê lầm, sau khi nhìn thấy ông tự tại vãng
sanh nên tỉnh ngộ và cũng siêng năng, thật thà niệm Phật. Ba năm sau người em
của ông cũng vãng sanh, lúc vãng sanh mang bịnh nhẹ.
Gia đình cư sĩ Trương ở chùa Trạm sơn vô
cùng nghèo túng, chồng bà làm nghề kéo xe chở khách. Bà làm công quả trong
những pháp hội niệm Phật ở chùa Trạm Sơn, cả ngày từ sáng đến tối Phật hiệu
không gián đoạn. Bà dự biết trước ngày giờ vãng sanh, hôm đó bà nhắn nhủ chồng
phải chăm sóc cho con xong rồi an nhiên ngồi trên giường mà vãng sanh. Ðây là
tấm gương tốt cho những người học Phật chúng ta, không cần phải nhờ cậy người
khác giúp đỡ, tự mình thiệt nắm chắc [có thể tự tại vãng sanh].
Ngoài ra cụ Ðàm [Hư] còn kể chuyện một học
trò của lão pháp sư Ðế Nhàn, ông này là thợ đóng đai thùng và không biết chữ.
[Người này là bạn chơi thân với lão pháp sư lúc nhỏ, đến xin xuất gia vì đời
sống quá cực khổ, muốn tìm lối thoát. Sau khi cho ông xuất gia], cụ Ðế [Nhàn]
dạy ông đến một ngôi miếu đổ nát ở miền quê gần Ôn Châu, tìm vài người hộ pháp
săn sóc [việc ăn uống] cho ông. Cụ Ðế chỉ dạy cho ông niệm một câu ‘A-Di-Ðà Phật’, dạy ông thật thà niệm
câu Phật hiệu này, niệm đến mệt thì nghỉ, nghỉ ngơi xong thì niệm tiếp tục. Ông
niệm trong vòng 3 đến 4 năm thì thành công; ông đứng mà vãng sanh, còn đứng 3
ngày sau khi vãng sanh [để đợi lão pháp sư Ðế Nhàn đến lo hậu sự]. Thật là vô
cùng tự tại! Cụ Ðế khen ông: ‘So với
những đại pháp sư giảng kinh thuyết pháp, những vị phương trượng trụ trì, [sự thành
tựu của] ông còn vượt hơn họ quá nhiều, quá nhiều!’
2. Dứt ác tu thiện, chuyên cần giữ gìn ba nghiệp
Phẩm vị vãng sanh của những người này không
phải ở Trung phẩm, Hạ phẩm mà là ‘Thượng
phẩm vãng sanh’ nói trong kinh Vô Lượng Thọ. Họ có thể làm được là vì họ đã
buông xả danh văn (tiếng tăm), lợi
dưỡng, ngũ dục lục trần. Ngày nay chúng ta làm không nổi là vì buông xả không
nổi những sự quyến rũ, khó là ở chỗ này. Phải nên biết danh tiếng lợi dưỡng,
ngũ dục lục trần đều là giả hết, đã hại chúng ta đời đời kiếp kiếp kẹt mãi
trong lục đạo luân hồi, đọa lạc trong ác đạo chịu hết bao nhiêu khổ nạn.
Cho nên mới nói người đời nay ‘ngu si’, không những không hiểu rõ chân
tướng của vũ trụ nhân sinh, mà còn không có khả năng phân biệt những thứ tà
chánh, thiện ác, lợi hại. Không biết tự tư tự lợi, danh tiếng lợi dưỡng, ngũ
dục lục trần tai hại vô cùng; chỉ có buông xuống vạn duyên, nhất tâm niệm Phật
là việc thiện lớn nhất. Ðây là lời kinh dạy: ‘Ðoạn dứt tất cả điều ác, tu
tất cả đều thiện’, chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa chân chánh của nó.
Trong đời này mỗi vị đồng tu có thể đạt
được sự thành tựu thù thắng nhất hay không? Có thể. Thiện Ðạo đại sư nói: ‘Chín
phẩm vãng sanh đều là do gặp duyên khác nhau’. Chúng ta đã gặp được nhân
duyên thù thắng, gặp được Phật pháp Ðại thừa, gặp được Tịnh Tông, gặp được bản
hội tập của kinh Vô Lượng Thọ, gặp được đồng tham đạo hữu tốt, nếu trong đời
này không thể thành tựu thì đó là vì tập khí phiền não của mình quá nặng, cứ
mỗi ngày tạo nghiệp như cũ.
Khi khởi tâm động niệm đều vì mình là tạo
nghiệp. Ngôn ngữ gây tổn hại cho người khác, thị phi nhân ngã đều là khẩu
nghiệp. Trong kinh Vô Lượng Thọ nói đến tam nghiệp, đặt khẩu nghiệp ở hàng đầu:
‘thiện hộ khẩu nghiệp, bất cơ tha quá’ (khéo giữ gìn khẩu nghiệp, đừng chê
bai lỗi của người khác) tức là cảnh giác chúng ta khẩu nghiệp quan trọng
nhất, dễ phạm nhất. Nhìn thấy chúng sanh có lỗi lầm đều không thể nói đến; nếu
[người ta] không có lỗi mà mình đặt chuyện, và còn hoài nghi người ta có lỗi
thì tội nghiệp này còn nặng hơn.
Người tu học còn chịu ảnh hưởng của phiền
não tập khí [tích lũy] từ vô lượng kiếp đến nay nên thoái chuyển rất dễ dàng,
tinh tấn rất khó khăn. Thế nên những vị đại đức, tổ sư ngày xưa đề xướng tu tập
chung, kết Phật thất để cùng nhau niệm Phật, nương vào đại chúng để tu tập, đó
là đạo lý của việc tu tập chung.
Niệm Phật đường ở Tân Gia Ba càng ngày càng
thù thắng, từ mồng một tháng Giêng đến 30 tháng Chạp (tháng 12), mỗi ngày niệm
Phật 24 giờ đồng hồ không gián đoạn, đây là Phật thất [kéo dài] quanh năm.
Giảng đường mỗi ngày giảng kinh 2 giờ, 365 ngày trong năm không gián đoạn,
thiệt đúng là giải và hành đều quan trọng như nhau, đều cùng nhau tu tập định
và huệ. Lão hòa thượng Tịch Ðộ ở Ngũ Ðài Sơn, lão hòa thượng Nhân Ðức ở Cửu Hoa
Sơn, lão hòa thượng Mính Sơn ở chùa Ðịnh Huệ, Tiêu Sơn, Trung-Quốc, đều tán
thán đạo tràng này là ‘đạo tràng đệ nhất
trên thế giới’.
Mọi người ở Cư Sĩ Lâm từ trên xuống dưới
đều hòa thuận, ai cũng thường nở nụ cười tươi, chúng ta ở đây có thể nhìn thấy
việc ‘thường sanh tâm hoan hỷ’ nói trong kinh. Hy vọng mọi người có cơ
hội đến Tân Gia Ba tham học, đem phương pháp tu học ở đây phổ biến đến khắp nơi
trên thế giới, để mọi nơi đều có thể xây dựng đạo tràng như vậy. Chúng ta nỗ
lực hết lòng tu học, không những tự mình trong đời này nhất quyết vãng sanh,
chúng ta còn có thể đem lại sự an định cho xã hội, hòa bình cho thế giới, đây
là công đức chân thật, tự hành hóa tha nói trong nhà Phật. Hy vọng mọi người
siêng năng tinh tấn niệm Phật.
Nhận xét
Đăng nhận xét