Chương 8: Phương Diện Nghệ Thuật Trong Nền Giáo Dục Phật Giáo

NHẬN THỨC PHẬT GIÁO
Nguyên Tác: Lão Pháp Sư Tịnh Không


I. Khởi thủy của hệ thống giáo dục tiến tu

Khi còn tại thế, Đức Phật đi rất nhiều nơi để giáo hóa, cũng như Khổng Tử, Lão Tử đã từng chu du liệt quốc vậy. Ở Ấn Độ, Đức Phật và chúng đệ tử được các nhóm người thỉnh đến giảng pháp. Ngài đi thuyết pháp nhiều nơi nhưng không trụ hẳn một nơi nào. Có đến 1250 đệ tử tu tập dưới sự hướng dẫn của ngài, nên thật khó có một trụ xứ để hộ trì cho họ đầy đủ. Chỉ sau khi Phật giáo du nhập vào Trung Hoa rồi thì tăng ni mới trụ hẳn một nơi. Do vì các Hoàng đế Trung Hoa cầu thỉnh chư tăng Ấn Độ sang truyền bá Phật pháp, và xem các ngài như bậc thầy dạy đạo cho mình, nên không thể để các ngài đi khất thực, không để chư tăng ngủ dưới gốc cây như truyền thống Phật giáo Ấn Độ, mà kiến lập tự viện, xây dựng tăng xá để chư tăng sinh hoạt tu tập và hành đạo. Đến đời Đường thì các tự viện phát triển thành Tùng lâm. Thiền sư Bách Trượng[1] và Mã Tổ[2] là những người đầu tiên sáng lập Tùng lâm.[3] Thiền sư Mã Tổ là vị Tổ thứ 8 của thiền tông Trung Hoa và là đệ tử thứ 3 của Lục tổ Huệ Năng. Người Trung Hoa thường truyền tụng: ‘Mã Tổ lập tùng lâm, Bách Trượng chế thanh quy’.
Thế nào là Tùng lâm Phật giáo? Đó là nơi mà nền giáo dục Phật giáo được hệ thống hóa, có quy mô có chế độ; là bước tiếp theo cho những vị tăng đã được đào tạo theo lối Phật học gia giáo. Sau thời Mã Tổ, Tùng lâm Phật giáo phát triển thành như một trường Đại học Phật giáo chuyên khoa, đó là điểm đặc sắc của Phật giáo Trung Hoa. Mọi giáo tài, giáo pháp ở đó đều đạt đến tầm mức tối cao của nghệ thuật nếu chúng ta chú ý sẽ thấy từ kinh điển, âm nhạc, điêu khắc, tượng Phật, kiến trúc, pháp khí... Tất cả đều nhằm để phát huy tính toàn thiện cho nền giáo dục Phật giáo. Nhưng tiếc thay nền giáo dục đó ngày nay đã bị thất truyền.

II. Nghệ thuật Phật giáo

Ngày nay, chất lượng của lễ nhạc Phật giáo[4] đã bị biến chất khá nhiều, không còn được hoàn mỹ như ban đầu. Chúng ta không có được nhiều nhân tài. Nhân tài sáng tạo nghệ thuật đã hiếm có mà những nghệ sĩ có trình độ nhận thức và tu tập Phật pháp thâm sâu lại càng hiếm hơn. Do vậy nên một nghệ sĩ Phật giáo cần phải tu dưỡng nội tâm, vì chỉ có như thế thì mới dẫn dắt mọi người đến chân thiện mỹ và trí huệ được. Nội dung lễ nhạc Phật giáo ngày nay đều do các bậc cổ đức soạn ra, nội dung ý nghĩa rất cao viễn, nhưng do tâm người sử dụng chưa được hoàn toàn thanh tịnh, nên khi xướng ra ý cũng không được thanh tịnh, vì năng lực tâm linh chưa đạt cảnh giới giác ngộ nên không dẫn phát được sự linh cảm. Nghệ thuật bị biến chất là do không có nhân tài trong giới học Phật, chứ không có nghĩa là Phật giáo thiếu chất liệu nghệ thuật.
Ai đã có dịp đến Trung Hoa để xem các tác phẩm điêu khắc trên vách đá trong động Đôn Hoàng và động Vân Cương, hoặc những bản kinh khắc trên đá ở Phòng Sơn, Bắc kinh, sẽ thấy được nghệ thuật Phật giáo vĩ đại và tuyệt diệu biết bao. Tạng kinh trên đá được tìm thấy sau thời kỳ Cách mạng văn hóa Trung Hoa. Nội dung phong phú hơn Đại tạng kinh hiện nay. Một số kinh được dịch sau nầy mà trong Đại tạng kinh chưa có. Rất may là toàn bộ thạch kinh nầy đang được bảo tồn tại vùng Phòng Sơn. Người ta đã dùng những khối đá rất lớn, hai mặt đều được khắc chữ rất đẹp, mỗi chữ lớn bằng ngón tay cái. Toàn bộ công trình khắc kinh nầy phải mất 400 năm mới xong, bằng thời gian làm Vạn lý trường thành. Công trình nghệ thuật điêu khắc mới phát hiện nầy gồm 10.000 bản kinh khắc trên đá đặt trong bảy hang động. Nay chỉ mở hai động cho công chúng vào xem. Chúng ta sẽ tràn đầy thán phục và kinh ngạc khi thấy tạng kinh khắc trên đá nầy. Không biết làm gì hơn là tri ân cổ đức đã để lại một gia sản giá trị như thế cho con cháu đời sau.
Ngày nay, trường học và viện bảo tàng tách rời nhau. Tuy nhiên, hệ thống Tùng lâm Phật giáo tương tự như sự kết hợp của nhà trường và viện bảo tàng, vì trong đó, các hình thái nghệ thuật được trưng bày đều có mang tính giáo dục chứ không thuần túy chỉ là nghệ thuật. Ở đó sự trưng bày các tác phẩm nghệ thuật với linh tánh trí huệ rất cao, giới phàm phu không thể nào lĩnh hội nổi. Chẳng hạn, khi nhìn thấy nhiều tượng Phật và Bồ-tát, họ kết luận rằng Phật giáo thờ nhiều vị thần, nên Phật giáo là một tôn giáo thứ cấp.
Nhiều người cho rằng một tôn giáo tiến bộ là chỉ thờ một vị thần. Họ không hiểu rằng Phật giáo không phải là một tôn giáo, vì chúng ta không phải thờ cúng hình tượng chư Phật và Bồ-tát như một vị thần, mà xem đó như là đại biểu cho giáo lý, là người chỉ dạy cho chúng ta biết các pháp môn tu học. Chỉ một hình tượng hay một pháp môn thôi thì chưa đại biểu đầy đủ cho mọi hiện tượng trong pháp giới, thế nên đạo Phật dùng nhiều dạng hình tượng nghệ thuật để biểu hiện. Khi chúng ta đã hiểu được biểu tượng giáo dục trong nghệ thuật Phật giáo rồi thì tự nhiên chúng ta sẽ thán phục và thích thưởng ngoạn.
Tất cả chư Phật đều biểu tượng cho tánh đức. Tất cả các vị Bồ-tát và A-la-hán đều biểu tượng cho công đức tu tập. Không có công đức tu tập, thì không thể làm hiển lộ tánh đức được, không đạt được phần thọ dụng. Nên muốn cho tánh đức hiển hiện thì cần phải tu đức. Nên chúng ta khi thờ Phật thì thường tôn trí một tượng Phật và hai tượng Bồ-tát. Tượng Phật đại biểu cho chân như bổn tánh. Bồ-tát biểu tượng cho từ tánh mà khởi dụng. Bổn tánh tức không, gọi là thể, khởi dụng nên có thể, tướng, dụng. Thể tức không tịch, từ thể mới có tướng, có tướng tức sẽ có phần tác dụng. Bồ-tát đại biểu cho cho tướng dụng. Nên trong Kinh Hoa Nghiêm nói rằng chư Phật không thuyết pháp, vì bản thể vốn không tịch, chẳng có gì để nói. Nhưng Bồ-tát thì còn thuyết pháp, vì đó là khởi dụng từ tánh. Trên phương diện tướng dụng thì có nói năng, nhưng trên phương diện bản thể thì một niệm cũng không có, nói chi đến lời. Nên có câu, ‘Mở miệng liền sai, động niệm tức trái’. Đó là chỉ cho bản thể, được biểu tượng bằng sự tôn trí một hình tượng Phật. Tại sao lại thờ đến hai vị Bồ-tát để biểu tượng cho phần tướng dụng? Vì vô lượng vô biên tướng dụng trong pháp giới được phân thành hai phạm trù: tri và hành, hoặc giải và hạnh. Vương Dương Minh[5] đề xướng ‘tri hành hợp nhất’, là từ nhà Phật mà ra. Phật pháp dạy, ‘hạnh giải tương ưng’. Nho gia lấy tinh thần ấy đổi thành ‘tri hành hợp nhất’, rồi đề ra một hệ thống triết học. Thật ra thì triết học ấy hoàn toàn phát xuất từ tinh thần Phật pháp. Giải hạnh chính là sự.
Chúng ta thường thấy bên cạnh tượng Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni có hai vị Đại A-la-hán là A-nan và Ca-diếp. Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni biểu tượng cho bản thể. A-nan là vị đa văn đệ nhất, biểu tượng cho trí huệ (giải). Ca-diếp là vị khổ hạnh đệ nhất, biểu tượng cho sự hành trì (hạnh). Chúng ta cũng thấy tượng Đức Phật Tỳ-lô-giá-na, là trí pháp thân của Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni, Bồ-tát Văn-Thù Sư-Lợi và Bồ-tát Phổ Hiền ở hai bên. Bồ-tát Văn-Thù Sư-Lợi biểu tượng cho trí huệ (giải), Bồ-tát Phổ Hiền biểu tượng cho sự hành trì (hạnh).
Tịnh độ tông Phật giáo xem Đức Phật A-Di-Đà Phật là bản thể và Bồ-tát Quán Thế Âm biểu tượng cho lòng từ và sự tu tập (hạnh). Bồ-tát Đại Thế Chí biểu tượng cho trí huệ (giải). Dó ý nghĩa thâm sâu nầy mà có thể được biểu tượng nhiều hơn hai hoặc ba vị Bồ-tát.
Mỗi Đức Phật biểu tượng cho một phần của tánh đức, mà mỗi phần đều viên mãn ‘một là tất cả, tất cả là một’. Mỗi danh hiệu đều biểu tượng cho tánh đức. Chẳng hạn, Thích ca (s: Śākya) có nghĩa là nhân từ, dạy cho chúng ta cần phải đối xử với mọi người bằng lòng từ bi. Mâu-Ni (s: Muni) có nghĩa là thanh tịnh. Danh hiệu Thích Ca Mâu Ni dạy cho chúng ta cần phải đối xử với mọi người bằng lòng từ bi và hãy nỗ lực làm cho tâm ý minh thanh tịnh. Đây là ý nghĩa của Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni, nhắc nhở chúng ta tánh đức của mình xưa nay vốn tự đầy đủ. Danh hiệu A-Di-Đà Phật là tiếng phiên âm chữ Amitābha từ tiếng Sanskrit. A có nghĩa là . Di-đà có nghĩa là lượng . A-Di-Đà nghĩa là vô lượng. Cái gì vô lượng? Tất cả đều là vô lượng. Trí huệ vô lượng, thần thông vô lượng, đạo lực vô lượng, thọ mạng vô lượng. Nhưng trong tất cả vô lượng ấy, thọ mạng vô lượng là đệ nhất, nếu không thì tất cả vô lượng kia đều là vô ích.
Làm thế nào để chúng ta đạt được những vô lượng nầy? Vô lượng ấy chẳng khác gì hơn chính là tự tánh của chúng ta, chính là chân như bổn tánh của mình. Lục tổ Huệ nói: ‘Nào ngờ tự tánh xưa nay vốn tự tròn đầy. Nào ngờ tự tánh thường hay sanh các pháp.[6] Đó chính là ý nghĩa vô lượng. Dùng phương pháp nào tu tập để đạt vô lượng? Chúng ta tu tập theo hạnh của Bồ-tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí. Bồ-tát Quán Thế Âm dạy chúng ta tu tập lòng từ bi. Bồ-tát Đại Thế Chí dạy chúng ta tu tập nhất tâm niệm Phật A-Di-Đà. Ngài dạy ‘tâm thanh tịnh hướng về Đức Phật A-Di-Đà Phật liên tục không ngừng, không ỷ lại các phương tiện khác, chắc chắn tâm sẽ được tự nhiên khai ngộ’.[7]
Hỗ trợ thêm là phương tiện từ bi của Bồ-tát Quán Thế Âm. Ban rãi tâm từ đến mọi loài và niệm Nam mô A-Di-Đà Phật thì sẽ giúp chúng ta hưởng được thọ mạng vô lượng. Tu tập như thế thì chúng ta sẽ phát huy được tánh đức và đạt được công đức vô lượng vô biên. Thế nên khi cung kính đảnh lễ tôn tượng chư Phật và Bồ-tát, chúng ta cần phải biết ý nghĩa biểu tượng của từng vị cho chân lý của vũ trụ và phương pháp tu tập.

III. Thiên vương điện

Kiến trúc Phật giáo mang tính nghệ thuật rất cao. Giữa là chính điện lớn thờ Phật. Từ ngoài nhìn vào thấy như có hai tầng, nhưng bên trong chỉ có một tầng. Ý nghĩa là bên ngoài nhìn vào thấy có hai chân lý, chân đế và tục đế. Khi vào bên trong rồi mới biết được chân đế tục đế vốn chẳng phải hai, vạn pháp nhất như. Từ ý nghĩa ấy có thể nói rằng, bên ngoài biểu thị cho sự sai biệt, thực chất đều là nhất trí, chẳng phải là hai.
Với quy mô kiến trúc của Phật giáo, khi vào cổng chùa, trước hết ta thấy Thiên vương điện. Ở giữa thờ Bồ-tát Di-lặc, hai bên là bốn vị Thiên đại tướng quân, tức các vị thần Hộ pháp. Người Tây phương gọi Bồ-tát Di-lặc là ‘Đức Phật hoan hỷ’, được biểu tượng qua nhân vật lịch sử là Hòa thượng Bố Đại. Bồ-tát Di-lặc với khuôn mặt có nụ cười rất lớn như muốn nói với chúng ta, ‘Quý vị muốn học Phật pháp chăng? Trước hết hãy vui vẻ chào hỏi mọi người bằng nụ cười. Hãy trừ bỏ tập khí, nếu còn phát ra tập khí thì không thể học Phật được.’ Bồ-tát nầy còn có cái bụng rất lớn, biểu tượng cho lòng bao dung và tâm bình đẳng, dạy chúng ta phải đối xử với mọi người, mọi việc với tâm hoan hỷ và điềm tĩnh. Có đủ các đức tính ấy mới tu học Phật pháp được. Nên Bồ-tát Di-lặc ngồi ngay chính giữa lối vào chùa như để dạy bảo mọi người đến với Phật pháp rằng, chỉ những ai có đủ điều kiện trên thì mới đủ tư cách học Phật. Đó là những biểu tượng hộ trì cho người tu học Phật pháp. Họ hộ trì chúng ta bằng cách nhắc nhở chúng ta phải giữ gìn chánh kiến. Mỗi vị hộ pháp biểu hiện một khía cạnh khác nhau của tư tưởng hoặc hành động.
Phía đông là Trì quốc Thiên vương biểu tượng cho trách nhiệm bảo hộ quốc gia lãnh thổ. Nhắc nhở chúng ta phải có trách nhiệm với chính mình, với gia đình, với xã hội và với cả đất nước. Làm sao để hoàn thành trách nhiệm nầy? Nếu mỗi chúng ta đều thực hiện mọi bổn phận, mọi trách nhịệm trọn vẹn, giúp đỡ người  khác cũng như chính mình hết lòng thì xã hội sẽ được hài hòa, quốc gia sẽ được hưng thịnh.
Phía nam là Tăng trưởng Thiên vương biểu tượng cho sự tiến bộ, dạy cho chúng ta sự tinh tấn. Không những chỉ hoàn thành trách nhiệm của mình thôi, mà còn tinh tấn thúc đẩy sự tiến bộ vì không tiến bộ có nghĩa là lùi lại. Vị hộ pháp nầy nhấn mạnh vào sự tinh cần tu tập phẩm đức, trí huệ, học vấn, tài năng ngày càng tăng trưởng, bao quát cả mọi bổn phận và tiêu chuẩn trong sinh hoạt hằng ngày. Từ điểm nầy, chúng ta thấy rằng Phật giáo rất sinh động, luôn luôn đi trước thời đại.
Phía tây là Quảng mục Thiên vương biểu tượng cho cái nhìn và hiểu biết bao trùm khắp cả mọi hướng trong thế gian. Vị hộ pháp nầy dạy chúng ta cần phải mở rộng tầm nhìn để quán sát thế giới tự nhiên và nhân tính, để tinh lọc được cái gì chúng ta cần phải thấy và học hỏi, và để phân biệt cái gì là thiện, cái gì là ác.
Phía bắc là Đa văn Thiên vương biểu tượng cho sự sáng suốt, thông hiểu qua nghiên cứu, học hỏi. Hai vị sau nầy dạy cho chúng ta phương pháp thực tiễn để hành trì. Như người Trung Hoa thời xưa thường nói, ‘Phải đọc ngàn quyển sách, phải đi ngàn dặm đường’. Đọc sách là để thành tựu nền tảng tri thức. Đi xa ngàn dặm là để học hỏi những điều nhìn thấy. Đi khắp nơi chúng ta sẽ thấy được điều hay của người để học hỏi. Chúng ta cũng thấy được những điều dở của họ, thế nên phải thường hoàn chỉnh chính mình. Theo cách nầy, chúng ta mới làm cho xã hội thịnh vượng và quốc gia an bình. Làm như vậy, chúng ta mới hộ trì được Phật pháp. Nên hình tượng Bồ-tát và Hộ pháp nhắc nhở chúng ta tinh tấn theo đuổi mục đích và trách nhiệm. Từ đó, mới thấy được rằng Phật giáo không phải là tôn giáo, cũng chẳng phải là tín ngưỡng.
Mỗi vị Thiên đại tướng quân Hộ pháp cầm giữ một vật khác nhau biểu tượng cho sự đa dạng của Phật pháp. Đông phương Trì quốc Thiên vương tay cầm cây đàn tỳ bà, biểu tượng cho chúng ta cần phải tránh sự hành xử thô tháo, hấp tấp, nên theo trung đạo. Giống như người chơi đàn tỳ bà, nếu dây quá căng hoặc quá chùng thì tiếng đàn không được hay. Nho gia chủ trương Trung dung, đạo Phật dạy tinh thần Trung đạo. Chúng ta phải có trách nhiệm đối với bổn phận của chúng ta và phải hành xử mọi việc với phong cách bình thản, chân chính.
Nam phương Tăng trưởng Thiên vương cầm thanh kiếm trí huệ biểu tượng cắt đứt mọi phiền não. Tây phương Quảng mục Thiên vương cầm con rồng hay con rắn đang cuốn trong tay. Rồng hoặc rắn biểu tượng cho sự biến hóa. Người ta thường nói: ‘Thần long hiện thủ bất hiện vỹ’. Biểu tượng cho thế giới hiện thực ngày nay. Mọi người, mọi chuyện, mọi vật đều biến đổi không ngừng, chúng ta phải thấy được rõ ràng mói có thể ứng phó một cách điềm tĩnh và thích đáng. Bắc phương Đa văn Thiên vương tay cầm cây dù biểu tượng cho sự che chở chúng ta khỏi sự ô nhiễm của môi trường chung quanh. Khi tu học, chúng ta phải bảo hộ cho tâm thanh tịnh của mình thoát khỏi ô nhiễm. Hơn nữa, chúng ta phải nhận thức rõ thực tướng của nhân sinh và vũ trụ, phải có trí huệ và năng lực để ứng xử đúng đắn thích hợp với mọi người và mọi sự việc.
Mọi điều nầy đều có thể học được khi đến Điện Tứ thiên vương. Nếu chúng ta xem các vị Hộ pháp là những vị thần với những năng lực thần thông rồi thắp hương, dâng cúng hoa quả để cầu nguyện che chở bình an thì đó là sai lầm một cách đáng tiếc. Đó là mê tín. Tất cả mọi hình tượng, mọi năng lực của chư Phật, Bồ-tát cùng tất cả mọi pháp khí thờ cúng đều có ý nghĩa giáo dục để đào luyện tâm linh và trí huệ, nhắc nhở chúng ta tầm mức quan trọng của giác ngộ thay vì mê mờ, đức hạnh thay vì tà vạy, thanh tịnh thay vì ô nhiễm. Đây là ba nguyên tắc trong nền giáo dục Phật học.
Do vậy, mọi vật trong đạo tràng đều mang tính giáo dục. Mọi vật phẩm cúng dường đều có ý nghĩa giáo dục. Ly đựng nước biểu tượng cho Pháp. Nước trong sạch biểu tượng cho tâm. Tâm thanh tịnh như nước, không một gợn sóng, đó là biểu tượng cho tâm bình đẳng. Hoa biểu tượng cho nhân và quả là sự kết thành trái. Hoa biểu tượng cho Lục độ ba-la-mật-đa. Quả không phải là dâng cúng cho Phật và Bồ-tát dùng, mà nhắc nhở chúng ta rằng nếu muốn có quả ngọt hay điều tốt lành thì phải tu tập và gieo trồng căn lành, tức là gieo nhân. Như vậy nên tất cả những gì ta thấy được trong đạo tràng đều có tính giáo dục. Chư Phật và Bồ-tát chẳng hưởng gì cả, họ không cần điều gì cả.
Chúng ta còn thấy những cây đèn, biểu tượng cho trí huệ sáng suốt; hương trầm, biểu tượng cho giới và định. Quý vị thấy trong đạo tràng không có vật gì mà không mang tính giáo dục. Tuy nhiên, thật đáng buồn là nhiều Phật tử hoàn toàn mê mờ về tính giáo dục của những biểu tượng nầy. Họ không biết tại sao mình thắp hương cúng Phật và Bồ-tát. Niềm tin của họ thực là mù quáng. Nhiều người phê phán rằng Phật giáo là mê tín. Sự phê phán nầy có phần đúng. Khá nhiều Phật tử  còn mê mờ về Phật pháp.
Chúng ta cần phải thông suốt những gì mình học được và giải thích điều ấy cho những người theo chủ nghĩa hoài nghi và hay chỉ trích. Tôi tin là những người nầy cũng sẽ muốn học. Tôi vừa giới thiệu Phật học cho người Trung Hoa theo lối nầy. Sau khi nghe tôi giải thích, họ nói rằng họ đã hiểu lầm một điều tốt đẹp như vậy và nguyện sẽ tìm hiểu sâu hơn.
Để kết luận, trí huệ chân thực và sự giác ngộ sáng suốt vô lượng vô biên đã giúp cho chúng sinh có được lợi ích chân thật. Đức Phật đã dùng tâm từ bi rộng lớn để cứu độ chúng sinh. Từ xưa đến nay, trong lịch sử Phật giáo, bất luận là Hiển giáo, Mật giáo, Thiền tông hay dù các tông phái, pháp môn nào, đều phải tuân theo nguyên tắc và phương pháp nầy mà tu hành. Tuy vậy, ngày nay người ta biết rất ít nguyên tắc và phương pháp chân chính, thế nên ít người tu tập được thành tựu.
Trong thời mạt pháp, con người bị đoanh vây bởi nhiều nghiệp chướng. Do hoàn cảnh nầy, phương pháp niệm Phật là hiệu quả nhất vì đơn giản và thiết thực. Chẳng mất thời gian lâu, cũng chẳng cần những lễ nghi đặc biệt. Bất kỳ ai cũng có thể tu vào bất kỳ lúc nào, bất kỳ ở đâu. Đây là lý do nhiều người đạt được sự thành tựu. Đài Loan vốn chẳng rộng, chẳng đông dân cư, nhưng trong 40 năm gần đây, theo sự đánh giá chủ quan của tôi, ít nhất có được 500 người đã vãng sinh Tịnh độ để tiếp tục tu tập thành Phật trong đời sau.
Để được thành công như vậy, chúng ta phải theo lời dạy trong năm bộ kinh và một bộ luận của Tịnh độ tông, phát tâm bồ-đề và nhất tâm niệm danh hiệu Đức Phật A-Di-Đà. Luận Đại thừa khởi tín[8] có nói rằng: ‘Bản giác vốn hằng có, bất giác vốn là không –Bổn giác bổn hữu, bất giác bổn vô’. Do vậy, chúng ta chắc chắn có thể khôi phục lại Phật tánh bản hữu và cái thấy chân thật. Chúng ta có thể tiêu trừ sach những mê lầm, tà kiến, và ô nhiễm. Phải thành tâm niệm danh hiệu A-Di-Đà Phật để chuyển hóa sạch các ác nghiệp và tập khí xấu, sống thanh đạm và tinh tấn tu tập để đạt được niệm Phật tam muội. Rốt ráo sẽ đạt được thân tâm tự tại, thực chứng chân như.
Chúng ta muốn đi đâu tùy nguyện. Nếu chúng ta muốn lưu lại cõi nầy một thời gian, điều ấy cũng tốt. Đã có nhiều người thành tựu, tại sao mình lại không? Vì chúng ta chưa thành tâm niệm Phật dài lâu. Niệm bao lâu mới được? Theo sử sách ghi lại, nhiều người thành tựu sau ba năm. Sau đó, không còn lo sợ điều gì nữa cả. Chúng ta cảm thấy rất an lạc và thanh thản. Nếu Thế chiến thứ III có xảy ra, và bom hạt nhân có bùng nổ, thì ta chỉ cho đó là đúng lúc để sinh về Tịnh độ. Không đau khổ, không sợ hãi, hoàn toàn tự tại. Đó là điều trong Kinh Vô lượng thọ nói: ‘Mang lại lợi ích chân thật cho toàn thể chúng sinh’.[9]
Ông Âu Dương Cánh Vô (Jing Wu Ou-Yang) đã nói rằng: “Nên biết trong Phật pháp có rất nhiều phương tiện nhưng đều không vướng vào hình thức”. Thừa nhận rằng bất kỳ nguyên tắc và pháp môn tu tập nào cũng có lợi ích và tác dụng. Chỉ có một mục tiêu đối với chúng ta là đem lợi lạc đến cho mọi chúng sinh, giúp họ phá trừ mê lầm, thoát khỏi khổ đau, đưa họ đạt đến giác ngộ giải thoát. Nên biết rằng giáo dục Phật giáo có rất nhiều phương pháp, có khi dùng phương tiện nầy, có khi dùng phương tiện kia, khi dùng thuận cảnh, khi dùng nghịch cảnh, biến hóa rất nhiều cách. Nhưng chỉ có một mục tiêu duy nhất, đó là lợi ích cho chúng sinh. Nếu như phương pháp ‘đánh hét – bổng hát ’ trong Thiền tông có thể đưa đến mục tiêu giác ngộ thì sẵn sàng dùng phương pháp ấy. Vì đó chân thật là lòng từ bi. Nhưng ngược lại thì đều là hư vọng, cảm tính, mê lầm và chấp trước, tất cả không phải là Phật pháp, không phải là mục tiêu của chúng ta. Tôi ước nguyện rằng mọi người học Phật ai cũng sẽ xa lìa được mọi mê lầm, chấp trước, khổ đau, và đạt được niềm vui giải thoát giác ngộ viên mãn.


[1] Bách Trượng Hoài Hải ; C: bǎizhàng huáihǎi; J: hyakujō ekai; 720-814;Thiền sư Trung Quốc, một trong những Thiền sư danh tiếng nhất đời Ðường, nối pháp Thiền sư Mã Tổ Ðạo Nhất. Học nhân đến Sư tham vấn rất đông, trong đó Hoàng Bá Hi Vận và Qui Sơn Linh Hựu là hai vị thượng thủ.Sư là người đầu tiên trong Thiền tông sang lập và kết tập những qui chế sinh hoạt hằng ngày của thiền sinh trong  thiền viện. Trước đó tất cả những thiền sinh chỉ là ‘khách’ trong những chùa của tông phái khác – thường là Luật tông. Từ lúc Sư lập ra qui luật mới, nhiều thiền đường được thành lập với những điều kiện thuận lợi đáp ứng cho sự tu tập của thiền sinh. Sư nhấn mạnh sự kết hợp giữa thiền và các việc lao động trong và ngoài thiền viện như làm ruộng, cuốc đất trồng cây. Câu nói của Sư “Một ngày không làm, một ngày không ăn” ( ; nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực) vẫn còn được lưu truyền trong các tự viện cho đến ngày nay.
[2] Mã Tổ Ðạo Nhất 道一; C: măzǔ dàoyī; J: baso dōitsu; 709-788;
Thiền sư Trung Quốc đời Ðường, môn đệ và người đắc pháp duy nhất của Thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng. Sư có rất nhiều môn đệ đắc đạo như Bách Trượng Hoài Hải, Nam Tuyền Phổ Nguyện, Ðại Mai Pháp Thường, Ðại Châu Huệ Hải...
[3] 叢林; Bản tiếng Anh khi thì dùng Institution, khi thì dùng University.
[4] Nguyên văn: Phạm bối ; Bản tiếng Anh: Buddhist music.
[5] (1472-1528) còn gọi là Vương Thủ Nhân 王守 . Nhà triết học Trung quốc đời Minh.
[6] , . Kinh Pháp Bảo Đàn.
[7] 淨念相續, 不假方便, 自得心開. Kinh Pháp Bảo Đàn.
[8] Của Bồ-tát Mã Minh 馬鳴S: Aśvaghoṣa (100160).
Nhà thơ và luận sư Ðại thừa người Ấn Ðộ, được xem là một trong những luận sư quan trọng nhất của Phật giáo.
[9] 慧與眾生真實利益.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này