E. Vũ trụ nhân sanh chỉ là mộng huyễn bào ảnh

NIỆM PHẬT TÂM ĐỊA CÔNG PHU
Nguyên tác: Lão Pháp sư Tịnh Không
1. Thọ trì một câu kệ hơn cả bố thí thất bảo
Kết luận cuối cùng trong kinh Kim Cang vô cùng quan trọng. Những đoạn trong kinh này càng về sau càng ‘hấp dẫn’, những ý nghĩa quan trọng đều ở nửa phần sau, đặc biệt kết luận này không những là kết luận của kinh Kim Cang, thiệt ra là tổng kết hết thảy 22 năm giảng kinh Bát Nhã của Thế Tôn. Năm xưa đức Phật giảng kinh thuyết pháp 49 năm, hội kinh Bát Nhã đã chiếm hết 22 năm. Nếu dùng [cách phân đoạn thông thường của kinh điển] ba phần: Tựa, Chánh tông, Lưu thông để xem xét một đời giáo hoá của đức Phật, thì Bát Nhã là phần Chánh tông của toàn bộ Phật pháp, là trung tâm của cả đời giáo hoá của đức Thế Tôn. Kết luận này không những là tổng kết của Bát Nhã mà cũng có thể nói là tổng quy kết hết thảy 49 năm thuyết pháp của đức Phật, tức là hai câu và một kệ cuối cùng của kinh này.
Thái tử Lương Chiêu Minh chia kinh này ra thành 32 đoạn, đây cũng giống như làm việc phân khoa, phán giáo. Có câu rằng ‘Nhân giả kiến nhân, trí giả kiến trí’ (Người nhân thấy điều nhân, người trí thấy điều trí, ý nói: Từ nội tâm ảnh hưởng đến kiến giải, quan điểm, cách xử sự), từ xưa đến nay cái nhìn của các vị đại đức không giống nhau. Cách phân thành 32 đoạn của thái tử Chiêu Minh là để đọc tụng, tiện lợi cho việc thảo luận; tạm thời không bàn thích hợp, thỏa đáng hay không, nhưng phải nói cách phân đoạn này rất tiện lợi nên sách phân đoạn theo cách này thường được phổ biến rất rộng rãi. Ðoạn cuối cùng tổng kết toàn quyển kinh. Ðoạn kinh này vừa mở đầu Thế Tôn gọi ông Tu Bồ-Ðề. Trong kinh mỗi khi đức Phật kêu tên một người nào đó, phía sau nhất định sẽ có lời dạy quan trọng, mục đích là nhắc đại chúng phải chú ý, đây là một kiến thức phổ thông.
Ðức Phật dạy: giả sử có người bố thí hết bảy thứ báu trong vô lượng a-tăng-kỳ thế giới. Con số này không thể tính toán được, a-tăng-kỳ là một đơn vị trong thời cổ Ấn-Ðộ, chúng ta ngày nay gọi nó là con số thiên văn (con số này quá lớn). Dùng đơn vị này lại thêm chữ vô lượng nữa. Không những là vô lượng mà còn là bảy báu trong vô lượng a-tăng-kỳ thế giới! Chỉ nói đến bảy thứ báu trên quả địa cầu này thôi thì đã không thể tính nổi [huống gì là vô lượng a-tăng-kỳ thế giới!]
Chữ thế giới nói trong kinh là chỉ khu vực giáo hoá của một đức Phật, là một đại thiên thế giới. Gần đây lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ đưa ra một cách nhìn mới, cụ cho rằng những ngân hà như chúng ta biết hiện nay không phải là một đại thiên thế giới, mà chỉ là một đơn vị thế giới. Nếu tính [ngân hà là một] đơn vị thế giới thì một đại thiên thế giới lớn vô cùng, không thể tưởng tượng nổi. Thông thường trong một tiểu thiên thế giới có một ngàn đơn vị thế giới, nói một cách khác 1000 hệ ngân hà mới là một tiểu thiên thế giới. Lại dùng một tiểu thiên thế giới làm đơn vị, 1000 tiểu thiên thế giới bằng 1 trung thiên thế giới, 1000 trung thiên thế giới bằng 1 đại thiên thế giới. Nếu dùng cách tính này thì 1000x1000x1000 bằng 10 ức hệ ngân hà, đây mới là một đại thiên thế giới.
Phước đức của việc bố thí hết thảy ‘bảy báu trong vô lượng a-tăng-kỳ thế giới’ bao lớn? Thiệt là không thể tính đếm nổi. Có rất nhiều bạn đồng tu muốn bố thí tu phước, cho dù bố thí hết thảy báu vật trên trái đất này thì cũng quá ít [so với bảy báu trong vô lượng a-tăng-kỳ thế giới]! Ðức Phật nói ‘Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân phát bồ đề tâm’; dựa trên ‘Tam phước’ nói trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật thì tiêu chuẩn của ‘thiện’ là phải thực hiện được ‘Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm không sát [hại sanh vật], tu thập thiện nghiệp’, đây là thiện nam tử, thiện nữ nhân ở cõi nhân, thiên. Từ cơ sở này cộng thêm ‘Thọ trì tam quy, đầy đủ các giới, không phạm oai nghi’ tức là thiện nam tử và thiện nữ nhân [theo tiêu chuẩn] của Tiểu thừa. Thiện nam tử và thiện nữ nhân nói trong kinh Ðại thừa phải thêm bốn câu: ‘Phát Bồ-Ðề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Ðại thừa, khuyến tấn hành giả’. Kinh này là kinh Ðại thừa, phải làm đầy đủ 11 điều trong Tam Phước nói trên thì tức là ‘thiện nam tử, thiện nữ nhân’ nói trong kinh Kim Cang. [Tóm lại] chữ thiện nam tử và thiện nữ nhân trong kinh điển Tiểu thừa và Ðại thừa đều có tiêu chuẩn đàng hoàng chứ không phải nói bừa.
‘Người thiện nam tử, thiện nữ nhân, phát Bồ-Ðề tâm’ tức là phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam Bồ-Ðề và cũng là phát tâm rộng lớn ‘chúng sanh vô biên thệ nguyện độ’. Hiện nay chúng ta học Phật là rất tốt, rất hiếm có, nhưng phải nhận thức rõ trong thế gian và xuất thế gian cái gì mới là chơn, cái gì là giả. Phải có đủ khả năng phân biệt tà chánh, thị phi, thiện ác, lợi hại thì mới gọi là người giác ngộ. Chữ ‘ngu si’ thường được dùng trong kinh nghĩa là ‘điên đảo’, xem đồ giả thành đồ thiệt, xem điều ác thành điều thiện. Không những không thể phân biệt những vấn đề lớn, thậm chí đến những quan hệ, lợi hại nhỏ nhoi cũng không thể phân biệt, trong kinh dùng danh từ ‘người đáng thương hại’ để mô tả những người này. Chúng ta có thiệt tình phản tỉnh không, có phải là người đáng thương này không, có phát tâm Bồ-Ðề chân thật không?
Tôi nhớ lúc học lớp 2, lớp 3 trong trường tiểu học, vì phá phách nên bị thầy phạt, bị thầy đánh, còn bị phạt quỳ nữa, đương nhiên cũng khóc sướt mướt. Lúc về nhà ba má tra hỏi nên biết ở trường tôi bị thầy giáo xử phạt. Hôm sau cha tôi đem lễ vật đến thăm thầy, cám ơn thầy đã dạy dỗ cho tôi. Tôi nhìn thấy nên sau này khi bị thầy giáo phạt, khi về nhà không đời nào chịu nói ra. Hiện nay sự giáo dục thay đổi rồi, nếu học trò bị thầy giáo trừng phạt, cha mẹ học sinh sẽ đi thưa cảnh sát, còn muốn thưa ra toà, thế nên ngày nay làm thầy giáo không ai dám răn dạy học sinh, không còn kiếm được những thầy giáo thật lòng dạy học sinh. Ngày nay đạo lý thầy trò không còn nữa, đây là sự đau buồn đáng tiếc của tất cả chúng sanh trong thời đại này; trẻ em, thiếu niên không được sự dạy dỗ đàng hoàng thì không phải là một chuyện tốt. Những lời dạy của cổ thánh tiên hiền Trung-Quốc thời xưa viết bằng lối văn ‘Văn Ngôn’, người đời nay xem không hiểu; những lời dạy và kinh điển của Phật, Bồ Tát cũng xem không hiểu, như vậy phải làm sao? Chúng ta phải phản tỉnh kỹ càng, phải nên giác ngộ!
Phật dạy: ‘Người thiện nam tử, thiện nữ nhân, phát tâm Bồ-Ðề phải nên trì kinh này’, cho dù không thể thọ trì hết bộ kinh này, thì cũng nên ‘thọ trì chỉ bốn câu kệ’, quan trọng ở chữ ‘thọ trì’. ‘Thọ trì, đọc tụng, diễn thuyết cho người khác, phước báo đó vô cùng thù thắng’. Câu kinh này vô cùng quan trọng và cũng khẳng định nếu có thể hiểu được và phụng hành, phước báo tu được sẽ lớn hơn người bố thí thất bảo khắp vô lượng a-tăng-kỳ thế giới. Ðích thật là to lớn hơn, không giả dối tí nào.
‘Thọ’ tức là tiếp thọ; ‘trì’ nghĩa là giữ gìn, đừng đánh mất. Ý nghĩa của chữ ‘Thọ’ bao gồm hiểu rõ, hiểu đúng đắn ý nghĩa của kinh điển, đồng thời có thể ứng dụng nghĩa kinh vào đời sống sanh hoạt thường ngày, nghĩa là sanh hoạt trong ‘Trí Huệ Kim Cang Bát Nhã’, phước báo này to lớn dường nào! Cho dù phước báo của người trong thế gian có lớn đến mấy, họ cũng chỉ sinh sống trong phiền não, không thể nào sánh bằng. Người có phiền não thì tương lai vô cùng đen tối, đầy đủ Trí Huệ Kim Cang Bát Nhã thì tương lai xáng lạn. ‘Thọ trì’ tức là y giáo phụng hành, làm được hoàn toàn trong đời sống sanh hoạt thường ngày. Thí dụ đức Phật Thích-Ca biểu diễn ăn cơm, mặc áo đều là Kim Cang Bát Nhã. Lúc xử thế, đối người, tiếp vật, từng ly từng tí đều áp dụng Trí huệ Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật. Ðược vậy mới gọi là ‘thọ trì Kim Cang Bát Nhã’, sanh sống một đời sống ‘Kim Cang Bát Nhã’.
‘Diễn thuyết cho người khác’: diễn và thuyết là hai việc khác nhau, dụng ý đều là để giáo hoá chúng sanh. Diễn là biểu diễn, làm gương tốt cho người ta xem, làm cho người ta ngưỡng mộ, ưa thích và nhờ vậy phát tâm học Phật pháp. Thuyết là thuyết minh, giải thích cho người khác. Người ta nhìn thấy đời sống của bạn hạnh phúc vui vẻ như vậy, nhất định sẽ lại hỏi thăm, nhân dịp này bạn giới thiệu Phật pháp cho họ, làm cho họ cũng có thể phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui. Phật pháp là ‘sư đạo’, chỉ nghe nói việc đi học chứ chưa nghe nói việc [thầy] đi dạy. Học là học sinh đi cầu học; nếu bạn không cầu mà ông thầy đến dạy bạn, như vậy là sai lầm (không hợp lý). Chúng ta phải làm gương tốt cho người ta xem, đây tức là ‘duyên’, tức là giới thiệu, phát triển rộng ra.
2. Hoằng pháp phải địa phương hóa và hiện đại hóa
Chư Phật, Bồ Tát thuyết pháp tùy theo căn cơ, căn cơ của chúng sanh không giống nhau, sai khác rất lớn, cho nên Phật mới mở vô lượng pháp môn để phù hợp cho mỗi loại căn cơ khác nhau. Nếu không biết điểm này, không những tự mình học Phật đến nỗi sai lầm, nếu dạy người ta thì cũng sẽ dạy sai. Trong suốt 37 năm giảng kinh tôi thường thường nhắc đến điểm này nhưng nhiều người cũng không thể hội, không giác ngộ. Kinh Kim Cang nói rất rõ ràng: ‘Phật không có pháp nhất định nào để nói, Phật không có pháp để nói’. Phật đều ‘ứng cơ nhi thuyết’ (tuỳ theo trường hợp, căn cơ mà thuyết), ‘nói mà không nói’.
Vì thời xưa và thời nay khác nhau, đông tây chẳng đồng, nên Phật pháp cần phải ‘hiện đại hóa’ và ‘địa phương hóa’, được vậy mới có thể đem lại lợi ích cho đa số chúng sanh hiện nay. Hơn 2000 năm trước (năm 67 sau công nguyên), Phật giáo chính thức truyền đến Trung-Quốc, lúc đó Hán Minh Ðế phái sứ giả đến Tây Vực, đón mời 2 vị cao tăng Ấn-Ðộ: Ma-Ðằng và Trúc-Pháp-Lan đến Trung-Quốc. Hai vị pháp sư này rất có trí huệ, sau khi đến Trung-Quốc họ liền Trung-Quốc hoá (thay đổi để thích hợp với người Trung-Quốc). Họ ăn mặc và sinh sống theo kiểu dân bản xứ, đây gọi là sinh hoạt Trung-Quốc hoá. Lúc đó nếu họ vẫn sanh hoạt theo cách thức và văn hoá Ấn-Ðộ, người Trung-Quốc sẽ không tiếp nhận một cách dễ dàng. Do đó khi họ vừa đến Trung-Quốc liền thay đổi, họ hiểu được [sự quan trọng của nguyên lý] ‘bổn thổ hoá’‘hiện đại hoá’. Kiến trúc của đạo tràng được xây dựng bắt chước theo cung điện vua chúa, người Trung-Quốc nhìn thấy rất ưa thích! Người Trung-Quốc thời xưa rất tôn trọng vua chúa, đạo tràng Phật giáo được xây giống cung điện thì không ai chẳng thích đi vào.
Chúng ta hãy xem những năm gần đây Phật giáo từ Trung-Quốc được truyền đến Mỹ, kiến trúc [của đạo tràng] vẫn còn dùng kiến trúc của cung điện Trung-Quốc thời xưa làm cho người Tây phương vừa nhìn thấy liền tránh né vì họ nghĩ đây là văn hoá ngoại lai, không muốn chấp nhận. [Cho nên] ở Mỹ phải xây đạo tràng giống tòa Bạch Cung vậy, người Âu Mỹ nhìn thấy sẽ vui thích đi vào; tượng Phật phải đúc giống gương mặt của người Mỹ, cũng như tượng Phật ở Trung-Quốc giống người Trung-Quốc, ở Nhật giống người Nhật, ở Tây Tạng giống người Tây Tạng, tượng Phật ở Thái Lan có cằm nhọn nhọn giống người Thái Lan.
Mấy năm trước tôi giảng kinh ở Miami, có người Mỹ đến nghe, tôi nói với họ: ‘Phật giáo chưa truyền đến Mỹ quốc’. Họ rất ngạc nhiên! Tôi giải thích [bằng câu hỏi]: ‘Quý vị xem có tượng Phật nào có gương mặt giống người Mỹ không?’. Chư Phật, Bồ Tát không có gương mặt nhất định, biến hoá tùy theo tâm niệm của chúng sanh, chúng sanh chịu dùng thân gì để được độ thì Bồ Tát sẽ hiện ra thân đó, như vậy mới có thể phổ độ chúng sanh. Chúng ta đến chỗ này nếu chỉ độ người Trung-Quốc hoặc Hoa kiều không thì chẳng có ý nghĩa gì cả. Xây dựng đạo tràng ở chỗ nào thì phải độ hoá chúng sanh ở nơi đó, thế mới là hoằng pháp lợi sanh. Cho nên chúng ta xây dựng đạo tràng ở đây phải dùng kiến trúc của Mỹ. Chúng ta xây dựng đạo tràng như vậy nếu không có sự biểu quyết của hội đồng thành phố (city hearing), những người hàng xóm chung quanh cũng sẽ vui vẻ, không phản đối. Chúng ta dùng phương pháp dễ hiểu rõ ràng, giới thiệu Phật pháp cho người địa phương thì họ sẽ hoan hỷ tiếp nhận.
3. Cành cũ lá mới, tuỳ duyên thuyết pháp
Từ xưa đến nay số người viết chú giải cho kinh Kim Cang không dưới 500 người, mỗi người viết chú giải đều không giống nhau. Nếu hết thảy đều giống nhau thì làm sao lưu truyền đến đời sau? Chú giải không giống nhau tức là dùng cách nói khác nhau. Hết thảy 500 cách chú giải kinh Kim Cang đều không sai vì Phật không có định pháp có thể nói. Cho nên chúng ta xem chú giải phải biết cách xem, trong chú giải đời Ðường sẽ dùng cách giải thích cần thiết cho [người] đời Ðường. Kinh Phật là toa thuốc, người đương thời có bịnh gì, viết toa thuốc này có thể chữa lành bịnh cho họ (phá mê khải ngộ) thì đó là pháp dược hạng nhất. Bịnh của người đời Tống khác người đời Ðường. Phương pháp chữa cho người đời Ðường chữa không hết bịnh của người đời Tống, thế nên những đại đức đời Tống cần phải có một cách nói khác để chữa bịnh cho người đời Tống. Nếu quý vị hiểu đạo lý này thì sẽ biết tật bịnh, tập khí của chúng sanh trong mỗi thời đại khác nhau nên phương pháp chữa trị cũng khác nhau. Ngày nay nếu chúng ta đọc chú giải thời xưa không đạt được lợi ích là vì mình không biết đọc; nếu biết đọc thì khi đọc chú giải thời xưa sẽ kiếm được ý nghĩa mới, từ ý cũ tìm ra ý mới, như vậy gọi là ‘khai ngộ’.
Kinh Kim Cang giống như một cây cổ thụ, một cây cổ thụ mấy ngàn năm luôn luôn sống mãi, mỗi năm mọc ra cành mới, năm nào cũng mọc ra hoa mới, trái mới. Cành lá cũ thuộc về đời trước, cành lá mới thuộc về đời hiện nay; nhờ cách giải thích cũ tìm ra phương pháp mới. Nếu không hiểu đạo lý này, thì làm sao hiểu kinh, làm sao có thể giải thích cho người khác. Cho nên thời đại, địa phương khác nhau sẽ có cách giải thích, cách nói khác nhau. Ðối với người Trung-Quốc tôi có cách nói như vầy, nhưng đối với người Mỹ thì tôi có cách nói khác, đối với người Nhật thì lại có cách nói khác nữa. Cùng một bộ kinh gặp người thì nói tiếng của người, gặp quỷ thì nói tiếng của quỷ, thế thì người và quỷ đều đạt được lợi ích. Những gì dùng để giải thích và nói cho người nghe thì không độ được quỷ, những gì dùng để giải thích và nói cho quỷ thì không độ được người (không thể dùng để giải thích cho người được).
Thí dụ rõ ràng nhất là cùng một kinh Kim Cang khi tôi giảng giải cho tín đồ Cơ Ðốc giáo hoàn toàn phù hợp với ‘Tân Cựu Ước’ của họ; khi tôi giảng giải cho tín đồ Hồi giáo nhất định phải phù hợp với kinh Coran của họ. Pháp không có đối nghịch lẫn nhau, vô cùng hoạt bát uyển chuyển. Ai nghe xong cũng đều vui vẻ và tiếp nhận, đây là chỗ mà Phật pháp đáng cho người ta khâm phục. Phật pháp là pháp viên dung, đối với tất cả chúng sanh, tất cả chủng tộc, thậm chí tất cả tôn giáo tín ngưỡng đều không có xung đột. Nếu có xung đột là vì bạn không hiểu rõ Phật pháp. Tu học Phật pháp phải hiểu rõ lý luận thì mới đạt được lợi ích, mới có thể phát triển, đem ích lợi đến cho tất cả chúng sanh.
4. Ăn chay vệ sinh, vệ tánh, vệ tâm (bảo vệ sinh thái, bảo vệ tánh đức, bảo vệ tâm tánh)
Hiện nay nhiều người thường gặp phải khó khăn trên phương diện ăn uống. Khi bạn học Phật, đã ăn chay trường, nhưng người nhà chưa học Phật. Lúc bạn chưa học Phật cả nhà đều hoà thuận nhưng sau khi bạn học Phật, trong nhà mỗi ngày đều vì vấn đề ăn uống mà cãi lộn làm cho cả nhà không vui. Người hàng xóm nhìn thấy như vậy sẽ khuyên mọi người đừng học Phật và nói rằng học Phật sẽ phá hoại hạnh phúc gia đình. [Người ăn chay này do vậy đã] phá hoại Phật pháp mà cứ tưởng mình có công đức. Tam Phước dạy trong kinh Quán Vô Lượng Thọ là cơ sở cho người học Phật; ‘hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng’ tức là hiếu thuận, nếu không thể tùy thuận theo cha mẹ thì là bất hiếu. Học Phật phải có trí huệ trong lúc tuỳ thuận phải giải thích rõ, làm cho họ thay đổi, cần phải có sức nhẫn nại lớn lao, cần phải có phương pháp khéo léo. Nếu vừa mở miệng liền nói: ‘Quý vị ăn thịt, tương lai phải trả nợ này’, người ta vừa nghe liền sanh phản cảm, làm sao có thể nghe theo lời khuyên được!
Ăn chay đối với việc vệ sinh đích thực có rất nhiều lợi ích. Ðặc biệt là hiện nay chất độc trong thịt cá rất nhiều nên người ta thường mắc phải nhiều bịnh kỳ quái. [Người xưa có câu:] ‘Bịnh từ miệng vào’; những tâm niệm tham, sân, si, mạn, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đều là nguồn gốc của bịnh tật. Thức ăn là duyên. Có nghiệp nhân lại cộng thêm nghiệp duyên thì sẽ sanh ra bịnh tật (tất cả bịnh tật là quả báo). Từ đời Lương Võ Ðế trở về trước, người xuất gia ở Trung-Quốc cũng ăn thịt. Việc ăn chay là do Lương Võ Ðế đề xướng, ông dùng oai quyền của ông vua nhiệt tâm khởi xướng chuyện ăn chay cho nên từ đó những người theo Phật giáo ở Trung-Quốc bắt đầu có thói quen ăn chay. Ăn chay đích thật có nhiều ích lợi, nhưng chẳng phải không ăn chay thì không thể thành Phật.
Lúc trước thầy Lý ở Ðài Trung dạy chúng tôi khi tiếp dẫn người sơ cơ phải ghi nhớ 2 việc: việc thứ nhất tuyệt đối không khuyên người ta ăn chay, thứ hai tuyệt đối không khuyên người ta thọ giới. Vì khi nghe nói học Phật phải ăn chay sẽ gây chướng ngại cho rất nhiều người không dám học Phật, như vậy sẽ cắt đứt cơ duyên học Phật của họ mất hết, tội này rất nặng. Thọ giới rồi nếu phá giới thì tội tăng thêm một bậc. Nếu không thọ giới thì sẽ không phạm tội phá giới; nếu thọ giới xong tự nhiên kết tội nặng hơn. [Phương pháp] đức Phật dạy chúng ta đều có thứ tự đàng hoàng, khi cảnh giới nâng cao lên một bậc thì giới cấm cũng khai mở thêm một chút, giống như khi học trong trường vậy. Quy tắc, quy củ của lớp tiểu học rất nhiều, đến trung học thì giảm bớt một chút vì trí huệ [của học sinh trung học] đã phát triển; đến đại học thì hầu như hoàn toàn mở rộng, hết giới cấm, vì [học sinh đại học] đã hiểu chuyện rồi, rất nhiều việc gò bó, quản thúc đã được bỏ [vì không cần thiết nữa], Phật pháp cũng giống như vậy. Trong ngũ thừa Phật pháp: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ tát thừa, tinh thần của giới Bồ Tát và giới Tỳ-kheo hoàn toàn khác nhau.
Học Phật phải hiểu lý, phòng ngừa không bị bịnh, thân tâm khỏe mạnh, tự tại vui vẻ. Thân tâm của bạn khỏe mạnh thì người nhà sẽ vui thích vì họ không cần phải đặc biệt lo lắng cho bạn. Nếu người học Phật mà cứ bị bịnh hoài, khi người nhà nhìn thấy bạn nhăn nhó, âu sầu, làm cho người ta sợ không dám học Phật, thế thì rất sai lầm.
Không cần phải đề cập đến lợi ích và nhân quả báo ứng của việc ăn chay, đây là một chuyện mà nhiều người bắt đầu học Phật thường gặp phải khó khăn và chống đối. Chúng ta có thể giải thích rõ ràng bằng những lý do [thông thường] mà họ có thể chấp nhận. Phần đông người ta đòi hỏi việc ăn uống phải vệ sinh, không ăn những thức ăn dơ bẩn và hư thối. Không những chúng ta đòi hỏi vệ sinh mà còn phải ‘vệ tánh’. Tánh tức là tánh tình lương thiện. Người theo Hồi giáo (Islam) dạy người ta không ăn những động vật có tánh tình không tốt, sự lựa chọn của họ kỹ càng hơn phần đông người khác. Sự ăn uống trong Phật giáo còn cao minh hơn Hồi giáo, đệ tử Phật phải có tâm từ bi, không ăn thịt tất cả chúng sanh, vì vậy việc ăn uống trong Phật giáo là vệ sinh, vệ tánh, và vệ tâm. Họ có thể hiểu những lý luận này mà không khởi lên phản cảm. Thói quen của việc ăn uống trong Phật giáo rất tốt, rất uyển chuyển hoạt bát, và ‘thông quyền đạt biến’ - có thể biến chuyển tùy theo trường hợp mà không phải chỉ là những giới điều cứng ngắc.
‘Diễn thuyết cho người khác’ có một nguyên tắc rất quan trọng, trong kinh đức Phật đã dạy chúng ta ‘bất thủ ư tướng, như như bất động (không chấp vào tướng, như như bất động)’, ý nghĩa này vô cùng sâu rộng. Trong sinh hoạt thường ngày bất cứ chuyện gì chúng ta đều không chấp tướng. Phần trước trong kinh này dạy chúng ta ‘ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm’, thế pháp và Phật pháp đều không nên chấp trước, không nên giữ chặt trong tâm. Không chấp vào tướng là ‘tu đức’, như như bất động là ‘tánh đức’. Nếu không có công phu tu tập thì làm sao kiến tánh được? Chúng ta dùng phương pháp ‘không chấp vào tướng’ để chứng được chân tâm ‘như như bất động’. Ðây là cương lĩnh tu học mà đức Phật dạy chúng ta từ lúc sơ phát tâm mãi cho đến khi thành Phật.
5. Vũ trụ nhân sanh chỉ là mộng huyễn bào ảnh
Lúc chúng ta khởi tâm động niệm, vọng tưởng, chấp trước đều là trước tướng, thủ (nắm giữ) tướng. Tại sao không nên thủ tướng, không chấp tướng?
Ðoạn cuối kinh này đức Phật dùng 4 câu kệ để giải đáp vấn đề, nói rõ đạo lý tại sao như vậy:
Nhất thiết hữu vi pháp,            (Tất cả pháp hữu vi,
Như mộng huyễn bào ảnh,      Như mộng huyễn, bọt, ảnh
Như lộ diệc như điển,              Như sương cũng như chớp
Ưng tác như thị quán              Nên quán sát như vậy)
‘Hữu vi pháp’ là những pháp ‘có sanh có diệt’. Tất cả động vật có sanh, lão, bịnh, và tử, thực vật có sanh, trụ, dị, và diệt, khoáng vật có thành, trụ, hoại, và không, tất cả đều là hữu vi pháp. Nếu chúng ta bình tĩnh quan sát [thì sẽ thấy] hầu như những gì sáu căn tiếp xúc đều là pháp hữu vi. Nếu quý vị học Duy thức thì có thể giải thích những vấn đề này rất dễ dàng. Trong quyển Bách Pháp Minh Môn Luận của Duy thức nhập môn, Thiên Thân Bồ Tát quy nạp tất cả các pháp thành 100 loại. Nói thật ra 100 pháp này bao gồm tất cả vô lượng vô biên pháp trong thế gian và xuất thế gian, và lại có thể chia thành 5 loại.
Loại thứ nhất là ‘Tâm pháp’, có 8 thứ gọi là tám thức, tám tâm vương.
Loại thứ nhì là ‘Tâm sở hữu pháp’, tức là tác dụng tâm lý, hiện tượng tâm lý, lại chia thành 51 thứ.
Loại thứ ba là ‘Sắc pháp’, tức là vật chất, gồm có 11 thứ. Những ngoại cảnh mà sáu căn tiếp xúc: những gì mắt thấy, những gì tai nghe, thân cảm nhận, lưỡi nếm, mũi ngửi, tất cả những cảnh giới đều dùng ‘sắc’ để tượng trưng.
Loại thứ tư là ‘Tâm bất tương ưng hành pháp’, triết học ngày nay gọi là khái niệm trừu tượng, gồm có 24 thứ. Tổng cộng những thứ trên thành 94 thứ, đều gọi là ‘pháp hữu vi’.
Loại thứ năm là ‘Vô vi pháp’, gồm có 6 thứ. ‘Tất cả hữu vi pháp’ là chỉ 94 thứ này, bao gồm tất cả pháp trong thế gian và xuất thế gian. Thế gian là chỉ lục đạo, xuất thế gian là chỉ Tứ Thánh pháp giới – Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát, và Phật. Lục đạo và thập pháp giới đều không vượt ra ngoài phạm vi này. Không những pháp thế gian giống như mộng huyễn, bọt, ảnh, mà pháp giới của Tứ Thánh cũng như mộng huyễn, bọt, ảnh, thế nên mới dạy chúng ta Thế pháp và Phật pháp đều không thể trụ, và cũng không thể thủ (nắm lấy). Nếu trụ vào Phật pháp, bám víu Phật pháp thì cũng sai luôn. Thí dụ trong bài kệ này có 6 chữ: ‘mộng’ là thí dụ chung. Không những đời người như mộng, trời cũng như mộng, Phật, Bồ Tát trong thập pháp giới cũng như mộng. Nếu bạn cho là thật thì sai lầm quá đỗi.
Tại sao có sự khác biệt to lớn giữa y báo, chánh báo trang nghiêm của thập pháp giới?
Kinh nói: ‘Nhất thiết thánh hiền, giai dĩ vô vi pháp nhi hữu sai biệt’ (Hết thảy thánh hiền đều vì pháp vô vi mà có sự sai khác). Câu này nói rõ Phật, Bồ Tát, thập pháp giới, lục đạo luân hồi từ đâu đến, đến như thế nào. Lục đạo luân hồi là vì ‘pháp hữu vi’ mà có sự sai khác. Tứ thánh pháp giới từ Pháp Thân Ðại Sĩ, Viên Giáo Sơ Trụ cho đến Diệu Giác, 41 vị Pháp Thân Ðại Sĩ đều là vì ‘pháp vô vi’ mà có sự sai khác. Do đó có thể biết lục đạo, thập pháp giới là vì pháp hữu vi mà có sự sai khác. Pháp hữu vi tức là ‘nhân duyên quả báo’. Vạn pháp đều không, chỉ có nhân quả chẳng không, đây là chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
Tại sao lại nói ‘nhân quả chẳng không’?
Nhân là năng biến, thập pháp giới y báo, chánh báo trang nghiêm là quả báo sở biến. Hết thảy sự khởi tâm động niệm đều là đang tạo nhân, đều là đang tạo tác. Ðừng nói đến ngôn ngữ, động tác, [chỉ cần] động một tâm niệm cực kỳ nhỏ bé thì đã có tạo tác rồi. Ðức Phật dùng ‘mộng’ để thí dụ, trong mộng có những sự việc này, có hiện tượng nọ, nhưng sự việc và tướng trong mộng đều là giả. Nếu chúng ta có thể xem tất cả pháp như mộng, huyễn, bọt, ảnh thì sẽ không tạo nghiệp, tâm sẽ định, sẽ thanh tịnh. Ðịnh có thể sanh huệ, ‘lòng tin thanh tịnh ắt sanh thật tướng’, tánh đức của tự tánh tự nhiên xuất hiện, mới đạt được sự thọ dụng chân thật trong sanh hoạt thường ngày.
‘Huyễn’ ví như hư không. Hư không như huyễn, chẳng phải chân thật. Nhà Phật thường nói ‘minh tâm kiến tánh’, người kiến tánh không có đen tối. Nếu đã nhìn thấy toàn là ánh sáng thì đã kiến tánh; nếu mở mắt ra mà nhìn thấy đen tối thì chưa kiến tánh, tại vì còn kẹt trong vô minh. Sau khi phá vô minh rồi thì thiệt là nhìn thấy ‘đại quang minh tạng’. Tự tánh là quang minh, tự tánh mê mờ thì biến thành một màn đen tối, cho nên xưng là ‘vô minh’.
Hư không là cảnh giới trong mộng. Lúc chúng ta nằm mộng, trong mộng cũng có hư không, lúc tỉnh dậy, chẳng thấy hư không, thế nên hư không chẳng phải thiệt. Khoa học gia ngày nay rất thông minh, cũng đã thể hội được rằng hư không là có giới hạn; ngày xưa cứ tưởng rằng ánh sáng đi theo đường thẳng, ngày nay biết được ánh sáng là có cường độ. Có cường độ tức là có sai biệt, tức là không phải lớn vô hạn, nghĩa là có giới hạn, có phạm vi. Thế nên đức Phật dùng ‘huyễn’ ví cho hư không.
‘Bọt’ ví cho thế giới. Thí dụ tinh cầu rất yếu mềm, cũng giống như bọt nước, rất dễ vỡ tan. [Khoa học gia] dùng viễn vọng kính hiện đại để quan sát, mỗi ngày đều phát hiện thấy tinh cầu mới và cũng thấy rất nhiều tinh cầu bị huỷ diệt, thế giới này không phải thật. Trong kinh Bát Ðại Nhân Giác đức Phật nói ‘quốc độ mong manh’, [thế thì] có gì phải tranh giành, tính toán, chấp trước nữa? Nếu nhìn thấy và hiểu rõ chân tướng sự thật thì tự nhiên sẽ buông xả. Sau khi buông xả rồi, cái niềm vui vẻ khinh an (thong dong, thảnh thơi), tự tại, khoái lạc, cho dù tôi có thể diễn tả được thì quý vị cũng không thể tưởng tượng ra. Nhất định phải buông xả thì mới thể hội (nhận biết) được; nếu không chịu buông xả thì vĩnh viễn sẽ không thể hội được niềm vui sướng chân thật. [Hết thảy] sự khổ đều do mình tự tạo ra, buông xả được thì sẽ có trí huệ chân thật, thì mới hiểu rõ ràng chân tướng sự thật.
‘Ảnh’ (bóng) ví như thân thể. Ảnh là giả, không thật.
Mộng, huyễn, bọt, ảnh’ mỗi chữ ví cho một sự vật và đều nói rõ tất cả hư không, thế giới, thân thể đều là giả tạo, không có một thứ nào là thiệt. Mỗi ngày vì cái thân giả này tạo nghiệp, bạn nói có oan uổng hay không? Tại sao chúng ta lại làm cái việc ngu xuẩn này! Thí dụ như trong việc ăn uống, rất nhiều người thích ăn sinh vật sống. Chỉ vì ba tấc lưỡi, thiệt ra sau khi nuốt vô cuống họng rồi thì không biết mùi vị chi nữa, nhưng vì mùi vị của cái lưỡi này mà tạo ra tội nghiệp nặng nề, vả lại mỗi ngày đều tạo nghiệp nặng, tạo mãi cho đến hết cuộc đời! Sau khi chết đi, đến đời nào kiếp nào mới có thể trả hết? Ðây đều là chân tướng sự thật, người thế gian không tin, mê hoặc điên đảo. Học Phật ở mức độ thấp nhất phải hiểu rõ ràng, thấu suốt những lý luận, trạng huống của nghiệp nhân, quả báo. Không những phải rõ ràng trong đời này, mà còn biết quá khứ, vị lai, chuyện này không phải là thần thông. Nếu tâm có thể đạt được vài phần thanh tịnh, thì tự nhiên sẽ minh liễu (hiểu rõ), không cần phải hỏi người ta. Hỏi người ta rất đáng sợ vì đời nay rất ít người nói thiệt mà gạt người thì rất nhiều. Nói láo thì bạn vui vẻ [thích nghe], nói thiệt thì bạn nổi giận không thích nghe, không chịu nghe. Vì vậy cho nên ai chịu nói thiệt với bạn? Ðây là sự bi ai của người đời nay.
Như sương cũng như chớp’ thí dụ cho thời gian tồn tại của hiện tượng dài hay ngắn. ‘Sương’ là hơi nước đọng lại [vào buổi sáng sớm] có thời gian tồn tại khá dài, cỡ khoảng mấy chục phút, sau khi mặt trời mọc thì sương sẽ tan. Ðây là thí dụ cho sự tương tục, tiếp nối của các pháp, hình dung thời gian tồn tại không lâu dài. Một người từ lúc sanh ra đến lúc mất đi, sinh sống trên thế giới này được vài chục năm ngắn ngủi, thọ mạng ngắn thì khoảng hai ba chục năm, dài thì bảy tám chục năm; [ai có thể sống đến] trăm tuổi thì rất hiếm hoi, đều là những người trong đời quá khứ và hiện tại đã tạo ra rất nhiều nghiệp thiện. Chớp tức là điện chớp, hình dung cho tướng sanh diệt trong từng sát-na, rất ngắn. Thí dụ như màn ảnh chiếu phim, từ lúc bắt đầu cho đến kết thúc kéo dài 2 giờ đồng hồ đều là tướng tương tục tiếp nối.
Như chớp’ cũng giống như từng tấm phim trong cuồn phim. Phần đông máy chiếu phim hiện nay chớp 24 tấm phim trong một giây (ống kính mở ra, chiếu một tấm xong rồi đóng lại, mở ra chiếu tấm kế tiếp rồi đóng ống kính lại, …) tốc độ rất nhanh, chúng ta bị ảo tưởng này gạt và có cảm giác như [những màn ảnh này] là thiệt [là liên tục]. Ðức Phật xem tất cả thế giới, thập pháp giới chúng sanh đều là tướng liên tục, của từng chút từng chút tiếp nối lại, đều không phải thiệt, thế nên mới nói ‘đương thể tức không, liễu bất khả đắc’ (bản thể ngay lúc đó tức là không, không thể [giữ lấy] được). Thân thể chúng ta đến đây nghe kinh, trải qua một giờ rưỡi đồng hồ không biết đã thay đổi hết bao nhiêu tấm phim! Hiện nay không phải là tấm phim lúc ban đầu, tấm ban đầu đã biến mất tiêu rồi, đó tức là ‘như chớp’.
Trong kinh Nhân Vương đức Phật nói với chúng ta một cái khảy ngón tay có 60 sát-na. Thời gian khảy ngón tay rất ngắn, một phần sáu mươi của thời gian khảy ngón tay gọi là ‘sát-na’; một sát-na có 900 lần sanh diệt, đây là hình dung ảo tượng sanh diệt nhanh như chớp. Chân tướng của những tướng hiện ra trong thập pháp giới y báo, chánh báo trang nghiêm đều là ‘tướng sanh diệt từng sát-na’. Nếu khảy ngón tay thật nhanh, trong một giây có thể khảy 4 lần; 4 x 60 x 900 bằng 216.000. Màn ảnh trên phim điện ảnh một giây đồng hồ sanh diệt 24 lần nên chúng ta không cảm giác nó là giả, huống hồ những hiện tượng trước mắt chúng ta mỗi giây có đến hai trăm mười sáu ngàn lần sanh diệt. Ðức Phật nói ‘vạn pháp giai không liễu bất khả đắc’ (vạn pháp đều là không, không thể [nắm giữ] được), như thị như thị (đúng là như vậy). Sau khi hiểu rõ chân tướng sự thật thì tự nhiên không tạo nghiệp nữa, tâm tự nhiên sẽ định trở lại. Tâm định được thì mới sanh trí huệ chân thực, mới hiểu rõ ràng minh bạch chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Tuy đức Thế Tôn nói một sát-na có 900 sanh diệt, nhưng vì thời gian sanh diệt quá nhanh, nhìn không thấy sự sanh diệt này nên đức Phật mới nói ‘chẳng sanh, chẳng diệt’. Thiệt ra có phải là chẳng sanh, chẳng diệt hay không? Ðích thực là có sanh có diệt đấy; nhưng tốc độ quá nhanh – ‘sanh diệt đồng thời’, vì vậy nên dùng ‘điện’ để thí dụ cho việc này.
Vận tốc của điện cùng vận tốc ánh sáng gần bằng nhau. Vận tốc ánh sáng là 300 ngàn km một giây, nghĩa là [ánh sáng] đi qua một kí lô mét cần một phần 300 ngàn của một giây. Từ đây mà suy đoán [thời gian đi qua] 1 mét, 1 cm, 1 mm, một phần mười mm, một phần trăm mm, một phần ngàn mm, một phần vạn mm, [cứ thế mà tính] thì mới thể hội được việc ‘sanh diệt từng sát-na’ nói trong kinh Phật, mới hiểu được danh từ ‘không sanh không diệt’ nói trong kinh Phật, - nó đích thực có sanh có diệt, nhưng vì thời gian quá ngắn, chúng ta không thể nào phát hiện được. Trong kinh điển Ðại thừa đức Phật nói người có thể quan sát được hiện tượng này là ‘Bát Ðịa Bồ Tát’. Ðịnh công sâu và tâm thanh tịnh như Bát Ðịa Bồ Tát mới có thể nhìn thấy những ba động vi tế (làn sóng nhỏ bé) này (hiện tượng sanh diệt từng sát-na). Phật pháp nói y báo, chánh báo trang nghiêm trong thập pháp giới đều chỉ là hiện tượng của những làn sóng mà thôi. Trình độ càng lên cao thì làn sóng từ tâm của chư Phật, Bồ Tát càng nhỏ bé, càng đi xuống thì tần số của những làn sóng trong tam ác đạo càng lớn. Không kể tần số lớn hay nhỏ, tất cả đều là hiện tượng tương tục của làn sóng với vận tốc một phần ức vạn của một giây, đây mới là chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Lời nói của đức Phật câu nào cũng chân thật. Thế giới này không chân thật, nếu coi tất cả hiện tượng đều là chân thật thì là mê hoặc điên đảo, sai lầm quá đỗi. Hiểu rõ chân tướng mới chịu buông xả, mới không còn để những thứ này trong tâm; tất cả mọi sự việc đều tùy duyên chớ không phan duyên, nhất quyết không làm những chuyện điên rồ này. Nếu cứ tưởng là mình làm chuyện tốt, nhưng đây vẫn là chuyện không tốt. Chư Phật, Bồ Tát làm tất cả việc nhưng trong tâm coi như không có việc gì cả, hoàn toàn không khởi tâm, không động niệm, như vậy mới thiệt là làm việc thiện. Hễ những gì [lọt vào trong] tương đối đều không cứu cánh viên mãn. Xa lìa cả hai bên thiện và ác mới là chân thiện.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này