LỜI TỰA TỰ ĐỀ
ẤN QUANG ĐẠI SƯ KHAI THỊ LỤC
Bửu Quang Tự Đệ Tử Liên Hương dịch
Bửu Quang Tự Đệ Tử Liên Hương dịch
Ấn Quang tôi
là một ông Tăng phàm tục ở Tây Tần[1] chỉ biết
đến cơm cháo, trăm sự không làm được điều gì; túc nghiệp sâu nặng đến nỗi trời
phải quở trách. Mới sanh được sáu tháng đã mắc bệnh mắt, trong suốt một trăm
tám mươi ngày không mở nổi mắt. Ngoại trừ lúc ăn, ngủ ra, thường khóc suốt ngày
đêm. Nhờ thiện lực xưa, may còn được thấy ánh mặt trời, cũng may mắn lắm! Ðến
tuổi thiếu niên[2] đọc sách,
lại bị hãm vào vực xoáy báng Phật của Trình, Chu, Âu, Hàn[3]. Từ đấy,
hằng ngày chuyên chí bác Phật, nghiệp tướng lại hiện, bệnh tật triền miên. Tận
lực nghĩ ngợi, suy xét cặn kẽ mới biết lỗi đó; năm hai mươi mốt tuổi, xuất gia
làm Tăng. Nhân thấy Tăng chúng có kẻ chẳng như pháp nên phát nguyện chẳng trụ
trì chùa miếu, chẳng thâu đồ đệ, chẳng hóa duyên[4], chẳng cùng
ai kết xã lập hội. Hơn năm mươi năm chẳng đổi chí ban đầu, sống lẩn quất[5] gần Ngô
Môn. Ðầu tháng Chín, Lý Sự Trưởng (hội
trưởng) hội Phật Giáo Trung Quốc là pháp sư Viên Anh, các vị lãnh tụ của Bồ
Ðề Học Hội như cư sĩ Khuất Văn Lục v.v… thấy Quang tuổi cao, ngỡ tôi có chút
tâm đắc, nào hay tôi chỉ biết húp cháo nuốt cơm, họ thỉnh tôi khi pháp hội Tức
Tai Hộ Quốc khai mạc, sẽ đến đất Hỗ[6] diễn thuyết.
Cố từ chẳng được, chỉ đành đem điều [mình hiểu biết] lầm lạc bù đắp sự lầm lạc[7].
Ðến kỳ, mỗi
ngày ông Ðặng Huệ Tải và hai ba vị cư sĩ ở Vô Tích đều dùng máy thu âm [thu
lại], nghe băng chép ra, mang đến xin tôi giám định để ấn hành. Bản sao lục này
[so với lời giảng] có vài điểm sai khác đôi chút. Nhưng bản sao của ông Ðặng
chép chữ to, nên tôi dựa theo đó, sửa đổi, tóm tắt lại. Cảo bản[8] này bậc
thông huệ chẳng cần xem đến, còn ai ngu độn như Ấn Quang tôi mà lại muốn ngay
trong đời này kết liễu đại sự sanh tử và muốn trị tâm, trị thân, trị gia, trị
quốc, nhưng chẳng biết bắt đầu từ đâu, xem đến cảo bản này, họa chăng có điều
bổ ích vậy.
Trọng Ðông năm Bính Tý, Dân
Quốc 25 (1936), Thích Ấn Quang đề
[1] Tổ Ấn Quang quê ở Thiểm Tây. Tỉnh Thiểm Tây thuộc
lãnh thổ cũ của đất Tần (thời Xuân Thu
Chiến Quốc) nên Thiểm Tây còn được gọi là Tây Tần.
[2] Nguyên văn “thành đồng”: Theo tự điển Từ Hải, từ 13
tuổi trở lên, 17 tuổi trở xuống thì gọi là “thành đồng”.
[3] Trình, Chu, Âu, Hàn là Trình Y Xuyên, Chu Hy, Âu
Dương Tu, Hàn Dũ, những nhà Tống Nho cực lực bài xích đạo Phật. Người bài bác đạo
Phật nặng nề nhất là họ Trình và họ Chu.
[4] Hóa duyên: Kêu gọi tín đồ đóng góp cúng dường.
[5] Nguyên văn là “hoạt
mai” (chôn sống), ý Tổ nói sống
mà ẩn dật như người đã chết rồi. Ở đây chúng tôi chỉ dịch gọn là lẩn quất.
[6] Ở vùng Thượng Hải
có con sông lớn tên là Hỗ Ðộc giang, nên Tàu hay gọi Thượng Hải là đất Hỗ.
[7] Ở đây Ðại Sư ý muốn dùng câu “Tương thác tựu thác” của ông Vô Vi Tử (Tống Dương Kiệt), ngụ ý: Khi chưa triệt chứng Phật tánh thì cầu
sanh Tịnh Ðộ vẫn là lầm lạc, nhưng phải dùng cái lầm lạc đó để tạo cơ hội dứt
trừ cái lầm lạc trong đường sanh tử.
[8] Cảo bản: Bản nháp, ở đây Tổ dùng với ý nghĩa lời giảng
giải của Ngài thô sơ, thiếu sót, không hoàn chỉnh.
Nhận xét
Đăng nhận xét