Ngày Thứ Bảy: Giảng Về Tội Đại Vọng Ngữ Và Những Sự Như Đại Hiếu Trong Nhà Phật, Trí Tri Cách Vật, Thật Thà Niệm Phật v.v…
ẤN QUANG ĐẠI SƯ KHAI THỊ LỤC
Bửu Quang Tự Đệ Tử Liên Hương dịch
Bửu Quang Tự Đệ Tử Liên Hương dịch
Ngày hôm
nay, pháp hội viên mãn. Thời hạn bảy ngày chớp mắt đã qua. Thế nhưng, pháp hội
tuy viên mãn, chuyện hộ quốc tức tai nên thực hiện cho đến khi chấm dứt báo
thân này. Trừ phi ai nấy ăn chay, niệm Phật, vãng sanh Tây Phương, chẳng thể
nói là đã viên mãn rốt ráo được.
Người học
Phật hiện tại có lắm kẻ tự bảo ta đã khai ngộ, ta là Bồ Tát, ta đã đắc thần
thông đến nỗi gây lầm lạc cho nhiều người. Một mai Diêm lão réo mạng, lúc mạng
sắp chấm dứt, khi ấy cầu sống chẳng được, đau khổ mà chết, chắc chắn đọa địa
ngục A Tỳ. Chớ nên nhiễm đắm thói ác của những kẻ ham cao, chuộng xa, dối mình,
lừa người ấy; nếu có thì phải sửa ngay. Nếu không có thì càng thêm cố gắng. Hãy
kiêng dè, hãy đề phòng!
Giết, trộm,
dâm… cố nhiên là tội nặng, nhưng con người biết những hành vi ấy chẳng tốt,
không đến nỗi ai nấy đều bắt chước theo, nên tội ấy vẫn còn nhẹ. Nếu chẳng tự
lượng, phạm tội đại vọng ngữ, chưa đắc đã bảo đắc, chưa chứng đã nói chứng để
dẫn dắt những hạng vô tri, ai nấy đều bắt chước theo, hoại loạn Phật pháp, làm
chúng sanh bị nghi ngờ, lầm lạc, tội ấy nặng không thể hình dung được! Người tu
hành cần phải giấu tài, ẩn đức, phơi bày tội lỗi. Nếu chuộng phô trương tiếng
tăm, oai thế rỗng tuếch, bày trò giả dối, dù có tu hành cũng bị cái tâm dối trá
rỗng tuếch ấy làm hư mất hết! Vì thế, Phật đặc biệt coi tội vọng ngữ là giới
căn bản của các giới để ngăn ngừa tâm hư ngụy, ngõ hầu [người tu học đạo Phật]
sẽ chân tu, thực chứng. Người tu hành chẳng được hướng về hết thảy mọi người
khoe khoang công phu của chính mình. Nếu như vì chính mình chẳng thể hiểu thật
rành rẽ, muốn cầu thiện tri thức khai thị, ấn chứng, thì cứ theo đúng sự thực
mà trình bày trực tiếp, chớ nên kiêu căng nói quá lên, cũng chớ nên tự khiêm
nói giảm đi, cứ dựa theo bổn phận của chính mình mà nói thì mới là đệ tử Phật
thật sự, mới có thể mỗi ngày một thấy được lợi ích nhiều hơn. Lục Tổ đại sư
nói:
Phật pháp tại thế gian,
Bất ly thế gian giác,
Ly thế mịch Bồ Đề,
Kháp như cầu thố giác
(Phật pháp
tại thế gian,
Chẳng rời
thế gian giác
Lìa đời tìm
Bồ Ðề
Khác nào tìm
sừng thỏ).
Vì vậy, biết
rằng: Hết thảy mỗi sự mỗi vật trong thế gian đều là Phật pháp. Chúng ta khởi
tâm động niệm đều phải rành rẽ, minh bạch, chẳng được để vọng niệm làm mê. Ngay
cả những kẻ cực ác, bại hoại nhất trong thế gian cũng như những đứa trẻ non nớt
nếu có ai nói đến những điều bất thiện thì giận, nghe điều lành thì vui. Sự
giận dữ đối với điều bất thiện, vui vẻ đối với điều thiện há chẳng phải là Chân
Tâm Bản Giác phát hiện ư? Điều đáng tiếc là chẳng biết tự quay lại để mở rộng
[cái tâm giận điều ác, vui điều lành] ra, vẫn cứ suốt ngày làm chuyện chẳng
lành, đến nỗi trở thành ham danh, ghét thật, lọt vào hạng tiểu nhân. Giả sử họ
có thể tự phản tỉnh: “Ta đã vui với điều thiện thì hãy nên tận lực làm việc
lành, tận lực ngăn ngừa điều ác thì gần là mong thành hiền, thành thánh; xa là
liễu sanh thoát tử, thành giác đạo của Phật”.
Ðiều quan trọng là tự giác. Hễ giác thì chẳng chịu thuận
theo mê tình, cuối cùng đạt đến chỗ giác vĩnh viễn chẳng mê. Nếu chẳng tự giác
sẽ hằng ngày muốn người khác khen ngợi ta là lành, nhưng hằng ngày tận lực làm
các điều ác, chẳng đáng buồn lắm ư? [Sự kiện] con người ai cũng có ý niệm thích
được người khác khen ta là lành đủ chứng tỏ chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng
hành vi thuận theo tánh hay trái nghịch tánh thì: Một là do mình tự cố gắng hay
tự buông lung, hai là do thiện hay ác tri thức chỉ bày, dẫn dụ. Đời nay, tai
nạn phát sanh dồn dập, quá nửa là do con người phần nhiều chẳng chuộng thực tế,
ham chuộng mong mỏi hư danh, ham danh ghét thật, trái nghịch bản tâm của chính
mình mà nên nỗi! Nếu có thể hồi quang phản chiếu, tỏ rõ Phật tánh vốn sẵn có,
chẳng lừa mình, dối người, biết lễ nghĩa, biết liêm sỉ thì cái căn bản đã lập,
chẳng còn làm chuyện nghịch lý loạn đức, ắt tai hoạn sẽ tự dứt vậy!
Người học Phật quan trọng nhất là ai nấy phải trọn hết
bổn phận. Tròn bổn phận thì sẽ có liêm, có sỉ. [Những hạnh] như cha từ, con
hiếu, anh nhường, em kính đều nên nỗ lực thực hành. Sách Ðại Học có câu: “Ðại học chi đạo, tại minh Minh Đức” (Ðạo đại học cốt ở chỗ làm sáng tỏ cái đức
sáng). Chữ “minh” thứ nhất là tu đức “khắc kỷ[1], xét soi, phản tỉnh”. Hai chữ “Minh Đức” tiếp đó chỉ
tánh đức sẵn có trong tự tâm. Muốn làm sáng tỏ Minh Đức sẵn có trong bản tâm,
không tu trì từ việc khắc kỷ, xét soi, phản tỉnh thì không xong! Tiến lên nữa,
mới có thể nói: “Tại thân dân, tại chỉ ư
chí thiện”. Chữ “thân dân” ở đây
hàm ý ai nấy tận hết bổn phận. “Chỉ ư chí
thiện” nghĩa là khởi tâm, làm chuyện gì, tự hành, dạy người, đều thuận theo
lẽ trời, tình người, là Trung Ðạo chẳng lệch, chẳng cong quẹo. Ðược như vậy thì
làm thánh làm hiền là điều có thể đạt được!
Vả nữa, Phật pháp nhằm dạy người đối trị phiền não, tập
khí, nên có Tam Học Giới - Ðịnh - Huệ làm căn bản. Bởi lẽ, Giới ràng buộc cái
thân thì chẳng dám làm điều trái đức nghịch lý, chẳng dám thốt lời vô ích có
hại. Do Giới sanh Ðịnh nên những tạp niệm vọng loạn rối bời trong tâm sẽ dần
tiêu, những hành vi hồ đồ sẽ tự ngưng. Do Ðịnh phát Huệ nên Chánh Trí mở mang,
phát khởi, Phiền Hoặc tiêu diệt, thực hiện các thiện pháp thế gian hay xuất thế
gian không pháp nào là chẳng phù hợp với Trung Ðạo vậy! Ba thứ Giới - Ðịnh -
Huệ đều là Tu Ðức, đều là tâm thể do đích thân Chánh Trí thấy được! Ðấy chính
là Minh Ðức. Sách Trung Dung gọi Minh Ðức này là Thành. Thành chỉ cho “thuần
chân chẳng vọng”. Minh Ðức tức là “ly niệm linh tri”. Thành và Minh Ðức đều
thuộc về Tánh Ðức. Do có Tu Đức “tu trì khắc kỷ, phản tỉnh, xét soi” thì Tánh
Đức mới hiển lộ. Bởi thế, cần chú trọng vào chữ “minh” thứ nhất thì Minh Ðức
mới có thể thấy thấu suốt, vĩnh viễn tỏa sáng!
Phật pháp và thế gian pháp vốn chẳng phải là hai thứ! Nếu
có kẻ cho rằng nhà Phật “từ thân cát ái”
(từ biệt cha mẹ, cắt đứt tình yêu thương)
là bất hiếu thì đó là cái nhìn hạn cuộc trong đời này, là cái nhìn nông cạn
chẳng biết tới quá khứ, vị lai. Chữ Hiếu đối với cha mẹ trong nhà Phật thông cả
ba đời. Vì thế kinh Phạm Võng dạy: “Nếu là Phật tử thì do Từ tâm sẽ hành
nghiệp phóng sanh, coi hết thảy đàn ông là cha ta, coi hết thảy đàn bà là mẹ
ta. Ta trong đời đời, không lúc nào không do họ sanh ra. Bởi vậy, chúng sanh
trong sáu đường đều là cha mẹ ta. Giết họ để ăn tức là giết cha mẹ ta!” Ðối
với hết thảy chúng sanh, Phật đều nghĩ thương xót độ thoát, ấy là Hiếu chẳng
phải là vừa rộng lại vừa xa ư? Vả nữa, lòng Hiếu thế gian: Cha mẹ còn sống thì
hầu hạ, phụng dưỡng, cha mẹ đã khuất thì chỉ tới ngày [cha mẹ] mất mới làm cỗ
cúng bái để trọn hết dạ làm con. Nếu như cha mẹ tội lớn, đọa trong dị loại, nào
ai có thể biết trong đám sinh vật bị giết hại để ăn ấy, chắc chắn không có ai
từng là cha mẹ ta ư? Không thông hiểu lý ba đời vô tận, cậy vào sự hiếu nhỏ
nhoi mấy mươi năm để trách người, sự thấy biết ấy nhỏ nhoi, nông cạn, đáng
thương xót thay! Vì thế, Phật dạy người ta kiêng giết, phóng sanh, ăn chay,
niệm Phật, lòng từ bi cứu giúp cũng lớn lao thay!
Hoặc lại có kẻ bảo: “Loài lợn, dê, cá, tôm… vốn do trời
sanh để nuôi dưỡng con người, ăn chúng nào có mắc tội gì?” Ðây là do chưa trải
qua cảnh đó nên mới nói bừa như thế. Nếu đích thân trải qua cảnh ấy thì mong
được cứu còn không xuể, nào có dịp biện bác. Sách Khuyến Giới Loại Biên có
chép: Ông họ Triệu nọ làm huyện lệnh huyện Bồ Thành, tỉnh Phước Kiến, ăn chay
trường thờ Phật. Vợ ông hoàn toàn không có lòng tin. Ngày hôm trước bữa sinh
nhật, bà ta mua khá nhiều sanh vật tính giết đãi khách. Họ Triệu bảo: “Bà muốn
chúc thọ mà lại làm cho chúng nó bị chết, nên chăng?” Vợ bảo: “Ông nói toàn lời
vô ích! Nếu theo như Phật pháp, nam nữ chẳng được ngủ chung, chẳng giết sanh
mạng, thì hóa ra mấy chục năm sau, tràn ngập thế gian toàn là súc sanh!” Ông
Triệu cũng không có cách gì khuyên giải được. Đến đêm, người vợ mơ thấy đi vào
nhà bếp, thấy giết lợn mà chính mình bị biến thành lợn, bị giết chết rồi vẫn
còn biết đau. Lúc bị cạo lông, phanh bụng, móc ruột, cắt phổi, đau khổ không
thể chịu được nổi! Sau đấy, giết đến gà, vịt v.v… đều thấy chính mình là những
con vật bị giết. Ðau quá sức, tỉnh cả ngủ, tim run, thịt giựt. Từ đấy phát tâm
thả hết những loài vật mình đã mua, ăn chay trường. Người này đời trước có căn
lành lớn nên mới cảm được Phật từ gia bị, khiến cho bà ta đích thân chịu khổ để
dứt ác nghiệp. Chứ nếu không sẽ đời đời, kiếp kiếp nộp thân cho người ta ăn [để
đền nợ sát sanh]! Những kẻ giết sanh vật ăn thịt trong cõi đời nếu có thể nghĩ
tưởng đặt chính mình vào trong hoàn cảnh [của loài vật] thì khó gì mà chẳng
quay đầu ngay khi ấy.
Lại có một hạng người nói: “Ta ăn thịt trâu, dê, gà, vịt…
là vì muốn độ thoát chúng nó!” Chẳng những Hiển Giáo không có thuyết này, ngay
trong Mật Giáo cũng không có. Nếu quả thật có thần thông như ngài Tế Ðiên thì
còn được. Chứ nếu không, đó chỉ là tà thuyết khiến người lầm lạc, tự chuốc lấy
tội. Hạng hết sức vô liêm sỉ mới dám nói như thế! Người học Phật phải hiểu rõ
ràng khả năng của mình, chớ nên xằng bậy tự khoe khoang lớn lối, mong mỏi vậy
thay!
Thời Lương, tại núi Thanh Thành ở đất Thục (Tứ Xuyên), có vị Tăng tên là Ðạo Hương
có đại thần lực, nhưng giấu kín chẳng tiết lộ. Núi ấy có lệ hằng năm mở hội,
lúc đó mọi người ăn uống no say, giết hại sanh vật vô số. Ngài Ðạo Hương khuyên
can nhiều lần, họ chẳng nghe. Năm ấy, Ngài đào một cái hố to ở ngoài sơn môn,
bảo mọi người: “Các ông đã ăn no, xin chia cho tôi một bát canh, có được
không?” Mọi người ưng thuận. Khi đó, ngài Ðạo Hương cũng ăn uống thật no say,
nhờ người dìu đến trước hố ọe hết ra. Những con vật ngài đã ăn vào: Con nào bay
được thì bay lên, con nào chạy thì chạy đi, tôm, cá, thủy tộc ói ra ngập cả hố.
Mọi người kinh sợ, kính phục, liền vĩnh viễn kiêng sát sanh. Về sau, ngài Ðạo
Hương nghe lời Chí Công liền hóa (tịch
diệt) (Có người đất Thục yết kiến ngài Chí Công ở kinh đô. Chí Công hỏi:
“Người xứ nào?” Ðáp: “Tứ Xuyên”. Chí Công bảo: “Hương ở Tứ Xuyên mắc hay rẻ?”
Ðáp: “Rất rẻ”[2]. Chí Công bảo: “Đã bị người ta coi thường sao chẳng ra
đi?” Người đó trở về núi Thanh Thành, thuật cho Ðạo Hương nghe lời ngài Chí
Công. Ngài Ðạo Hương nghe lời ấy xong liền hóa).
Cần biết rằng: Những người an phận giữ mình trong cõi
đời, một khi hiển thị thần thông xong liền thị hiện tịch diệt lìa đời để khỏi
bị tăng thêm phiền não. Nếu không, phải như ngài Tế Ðiên làm ra vẻ si cuồng,
không ra trò gì để người ta nửa tin nửa ngờ, không thể đoan chắc thì mới được!
Người học Phật cần phải chăm chú bỏ cái thấy ta - người,
cần phải tự lập, lập người, tự lợi, lợi người. Có vậy mới có thể nói là “nhập
đạo”. Tức là như sách Ðại Học chép: “Cổ chi dục minh Minh Đức ư thiên hạ
giả, tiên trị kỳ quốc. Dục trị kỳ quốc giả, tiên tề kỳ gia. Dục tề kỳ gia giả,
tiên tu kỳ thân. Dục tu kỳ thân giả, tiên chánh kỳ tâm. Dục chánh kỳ tâm giả,
tiên thành kỳ ý. Dục thành kỳ ý giả, tiên trí kỳ tri. Trí tri tại cách vật”
(Người xưa muốn làm sáng tỏ Minh Đức trong thiên hạ thì trước hết phải giữ yên
đất nước. Muốn giữ yên đất nước thì trước hết phải giữ yên gia đình. Muốn giữ
yên gia đình thì trước hết phải sửa đổi thân mình. Muốn sửa đổi thân mình thì
trước hết cái tâm phải ngay thẳng. Muốn cái tâm ta ngay thẳng thì trước hết
phải giữ cho cái ý chân thành. Muốn cho cái ý chân thành thì trước hết phải đạt
đến chỗ hiểu biết. Ðạt đến chỗ hiểu biết nằm ở chỗ trừ khử vật dục).
Chữ “vật” được
nói ở đây chỉ lòng tư dục chẳng phù hợp với thiên lý và tình người. Hễ đã có tư
dục ắt tri kiến sẽ lệch lạc, tà vạy, chẳng còn ngay thẳng nữa. Chẳng hạn như kẻ
đã yêu vợ, thương con thì dù vợ con có hư đốn, kẻ đó cũng chẳng thấy là hư
hỏng. Do tư dục yêu thương mê mệt ngăn lấp lương tri sẵn có, nên trở thành sự
thấy biết xấu ác, lệch lạc, tà vạy, bất chánh. Nếu có thể trừ khử sạch tâm niệm
yêu thương mù quáng thì những chuyện vợ con đúng hay sai sẽ thấy rõ ngay lập
tức. Vì vậy, biết rằng: Phải thống thiết giảng [rõ ràng khái niệm] “cách vật” (trừ khử vật dục), chớ có hiểu lầm “cách vật” nghĩa là thông suốt cùng tột lý của mọi sự vật trong
thiên hạ. Trừ khử món đồ tư dục trong tự tâm mới chính là căn bản của việc “làm
sáng tỏ Minh Ðức”. Thông đạt tận cùng lý tánh của sự vật trong cõi đời chỉ là
chuyện cành nhánh nhất trong các chuyện cành nhánh. Lấy chuyện cành nhánh phụ
thuộc nhất làm gốc thì thiên hạ ắt phải loạn lạc hết thuốc chữa được! Phật pháp
trừ khử tham - sân - si chính là “cách
vật”. Tu Giới - Ðịnh - Huệ chính là “trí
tri”. Món vật Tham - Sân - Si chất chứa trong tâm thì cũng như đeo cặp kính
màu để nhìn mọi vật sẽ chẳng thể thấy được màu thật của chúng. Họa hại của vật
[dục] chẳng đáng sợ sao?
Người niệm Phật cũng đừng ỷ mình thông minh, trí huệ, mà
cần phải vứt bỏ [những điều ấy] ra tận ngoài biển Ðông. Nếu không, e rằng sẽ bị
chúng gây lầm lạc, tự chuốc buồn khổ. Bởi lẽ, do thấy biết nhiều nhưng không
chuyên nhất, đâm ra chẳng bằng hạng ngu phu, ngu phụ niệm Phật, chánh tâm,
thành ý được hưởng ích lợi rất nhiều. Vì thế, một pháp Niệm Phật tốt nhất là
phải học theo ngu phu, ngu phụ, [lấy việc] thật thà tu trì làm chánh yếu. Tục
ngữ có câu: “Thông minh phản bị thông minh ngộ” (Thông minh đâm ra lại bị lầm lạc vì thông minh), chẳng đáng sợ
sao?
Như bà vợ của ông Trịnh Bá Thuần, một đệ tử quy y của tôi
ở huyện Bảo Sơn, tỉnh Vân Nam, ăn chay trường niệm Phật nhiều năm. Người con
trưởng tên Huệ Hồng đã chết vào năm trước. Bà mẹ do thương con quá nên uống
thuốc độc, trọn không có tướng trạng khổ sở, ngồi ngay ngắn niệm Phật qua đời.
Hơn nữa, chết rồi sắc mặt sáng nhuận, kinh động cả một phương. Ông Bá Thuần là
bậc lão nho đề xướng [niệm Phật], người tin theo rất ít, nhưng do cái chết của
vợ con ông, mười người đã hết tám, chín người tin theo. Phàm ngồi ngay ngắn
niệm Phật qua đời, dẫu không bịnh mà thác cũng đã khó có; huống chi uống thuốc
độc chết mà còn hiện được tướng đó, nếu chẳng phải là đã đắc Tam Muội nên chất
độc chẳng thể làm hại được thì làm sao hiện được tướng như vậy? Ông Dương Kiệt[3] đời Tống, tự là Thứ Công, hiệu Vô Vi Tử, tham học với
thiền sư Thiên Y [Nghĩa] Hoài, đại ngộ. Sau do cư tang mẹ, đọc Ðại Tạng, hiểu
sâu xa sự thù thắng của pháp môn Tịnh Ðộ nên tận lực tự hành, dạy người hành.
Lâm chung nói kệ rằng:
Sanh diệc vô khả luyến
Tử diệc vô khả xả,
Thái hư không trung chi hồ giả dã,
Tương thác tựu thác: Tây Phương Cực Lạc.
(Sanh thì cũng chẳng tiếc gì,
Chết rồi cũng chẳng bỏ đi đâu nào,
Hư không hư huyễn sá chi,
Ðem lầm đáp lẫn để về Tây Phương)
Ông Dương Kiệt sau khi đại ngộ, quy tâm Tịnh Ðộ, cực lực
đề xướng; đến lúc lâm chung nói: Trong chân tánh thì sanh tử như hoa đốm trong
hư không, nhưng do chưa chứng được chân tánh thì chẳng thể không chú trọng cầu
vãng sanh Tây Phương. “Ðem lầm đáp lẫn” nghĩa là nếu đã triệt chứng chân
tánh thì chẳng cần phải cầu sanh Tây Phương nữa vì cầu được vãng sanh vẫn còn
là lầm lạc! Chưa chứng ngộ chân tánh thì phải nên cầu vãng sanh Tây Phương, cho
nên mới nói: “Ðem lầm đáp lẫn để về Tây Phương”. Trong tác phẩm Vãng
Sanh Tập, cuối truyện ông Dương Kiệt, Liên Trì Ðại Sư đã viết bài tán như sau: “Tôi
mong những kẻ thông minh tài trí trong thiên hạ đều có thể thành tựu loại lầm
lạc này. Ðấy có thể bảo là thực sự đại thông minh mà chẳng bị thông minh làm
lầm lạc vậy”.
Như ông Tô Ðông Pha đời Tống, tuy là hậu thân của thiền
sư Ngũ Tổ Giới, luôn mang một bức tranh Phật A Di Ðà theo bên mình, bảo: “Ðây
là công cứ Tây Phương của cả đời ta”. Nhưng đến lúc lâm chung, trưởng lão Duy
Lâm ở Kính Sơn khuyên nhủ đừng quên Tây Phương, Ðông Pha nói: “Dù Tây Phương
chẳng phải là không có, nhưng chẳng thể dốc sức vào đấy được!” Môn nhân là Tiền
Thế Hùng thưa: “Ðấy chính là chỗ tiên sinh thường hành trì, hãy nên dốc sức”. Ðông
Pha đáp: “Hễ dốc sức vào thì là sai rồi!” Nói xong liền mất. Ðấy chính là bằng
chứng hùng hồn của chuyện tự lầm lạc bởi thông minh vậy. Mong quý vị ai nấy đều
chú ý.
Pháp môn Tịnh Ðộ khế lý, khế cơ, dùng sức ít mà thành
công dễ dàng, như đã căng buồm thuận gió lại còn thuận nước vì nhờ vào Phật
lực. Các tông khác dùng sức nhiều mà thành công khó khăn giống như con kiến bò
lên núi cao vì hoàn toàn cậy vào tự lực. Ðẳng Giác Bồ Tát muốn cầu viên mãn
Phật Quả còn phải cầu vãng sanh Tây Phương, huống hồ là bọn phàm phu chúng ta
nghiệp căn sâu nặng, sao chẳng dốc sức vào pháp này? Ðấy là bỏ dễ cầu khó, lầm
lạc cùng cực thay!
Hơn nữa, hiện thời những dụng cụ giết người trong cõi đời
mỗi ngày mỗi mới mẻ, mỗi tháng mỗi khác biệt, nào là phi cơ, đại bác, hơi độc,
tia sáng chết chóc v.v… Núi, sông chẳng thể ngăn trở nổi, vật cứng không chống
ngăn được, cái thân máu thịt của chúng ta làm sao đương cự được nổi? Mạng người
như giọt sương buổi sớm, vô thường một khi xảy đến, muôn sự đều thôi. Bởi thế,
muốn cầu lìa khổ được vui thì phải nên kịp thời nỗ lực niệm Phật, cầu Phật gia
bị lâm chung vãng sanh. Một phen đạt lên cõi kia, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển,
hoa nở thấy Phật, chứng được Vô Sanh, mới chẳng cô phụ chuyện được nghe pháp
này mà tin nhận vậy. Kính mong đại chúng tinh tấn hành trì, đấy là điều tôi rất mong
mỏi.
[1] Khắc kỷ: Nghiêm khắc với bản thân, không cho phép bản
thân mình dễ dãi với bất cứ tập quán ươn hèn, sai trái nào.
[2] Nguyên văn: “Tứ
Xuyên hương quý tiện?” Câu này có thể hiểu hai nghĩa: “Ngài Đạo Hương ở Tứ
Xuyên được quý trọng hay bị coi thường?” Nghĩa thứ hai là “nhang ở Tứ Xuyên mắc
hay rẻ?” Người nghe hiểu theo nghĩa thứ hai nên nói “rất rẻ”.
[3] Dương Kiệt là người huyện Vô Vi (tỉnh An Huy), nên lấy hiệu Vô Vi Tử, có tài văn chương lỗi lạc, đỗ
đạt ngay trong tuổi thiếu niên. Thích học Thiền, đã tham học khắp các vị tôn
túc đương thời. Khi yết kiến Thiên Y Nghĩa Hoài, Sư đã đem những câu chuyển ngữ
của Bàng cư sĩ ra gạn hỏi. Một hôm đến núi Thái, thấy mặt trời to như cái mâm
đang mọc bèn đại ngộ. Trình kiến giải lên Nghĩa Hoài được hứa khả. Sau ông lại
gặp ngài Phù Dung Đạo Giai thưa hỏi lẽ Thiền. Dưới đời Tống Thần Tông, ông xin
cáo quan về làng phụng dưỡng mẹ, ẩn cư đọc hết Đại Tạng Kinh, bèn liễu giải,
quy tâm Tịnh Độ. Từ đấy chuyên tu Tịnh nghiệp, từng vẽ một bức tượng Di Đà cao
đến một trượng sáu để lễ bái, quán tưởng. Lâm chung cảm Phật đến rước, ngồi
ngay ngắn, an nhiên qua đời. Ông trước tác các bộ Thích Thị Biệt Tập, Phụ Đạo Tập
v.v…
Nhận xét
Đăng nhận xét