VII. PHÂN ĐỊNH GIỚI HẠN GIỮA THIỀN VÀ TỊNH
ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC
BỬu Quang Tự Đệ Tử Như Hòa dịch
* Thiền
và Tịnh Độ lý vốn không hai. Nếu luận về Sự Tu thì tướng trạng [của hai pháp
này] khác xa nhau. Thiền nếu chẳng triệt ngộ, triệt chứng sẽ chẳng thể siêu
xuất sanh tử. Vì thế, tổ Quy Sơn nói: “Do chánh nhân đốn ngộ, sẽ dần dần
thoát trần. Nếu đời đời bất thoái, sẽ quyết định có lúc thành Phật”. Ngài
còn nói: “Sơ tâm do duyên đốn ngộ tự tánh, nhưng vẫn chưa thể diệt sạch ngay
tức khắc tập khí trong bao kiếp từ vô thỉ. Vì thế, phải dạy họ trừ sạch nghiệp
thức hiện đang lưu chuyển”. Ngài Hoằng Biện nói: “Đốn ngộ tự tánh thì
[sở ngộ] giống hệt chư Phật, nhưng chưa thể trừ sạch ngay vô thỉ tập khí, nên
phải tốn công đối trị, mới hòng thuận tánh khởi dụng. Như người ăn cơm, chẳng
thể ăn một miếng liền no ngay được!” Ngài Trường Sa Sầm nói: “Thiện tri
thức trong thiên hạ chưa chứng được quả Niết Bàn là vì công đức chẳng bằng chư
thánh!” Vì thế, Ngũ Tổ Giới sanh làm Tô Đông Pha, Thảo Đường Thanh thân sau
làm Lỗ Công. Cổ kim tông sư triệt ngộ nhưng chưa triệt chứng phần nhiều đều như
vậy. Ấy là do chỉ cậy vào tự lực, chẳng cầu Phật gia bị, hễ Hoặc nghiệp còn mảy
may chưa tận, sẽ nhất định chẳng thể thoát khỏi sanh tử được!
Về phần
Tịnh Độ, hễ đầy đủ ba thứ Tín, Nguyện, Hạnh, liền có thể đới nghiệp vãng sanh.
Một khi đã vãng sanh, sẽ vĩnh viễn thoát khỏi sanh tử. Bậc ngộ chứng sẽ mau đạt
tới bậc Bổ Xứ, người chưa ngộ cũng sẽ chứng địa vị A Bệ Bạt Trí. Bởi thế, Hoa
Tạng hải chúng đều nguyện vãng sanh; những bậc tri thức trong Tông, trong Giáo
cùng sanh Tịnh Độ. Rõ ràng là do cậy vào Phật lực kiêm thêm cái tâm khẩn thiết,
nên được cảm ứng đạo giao; do vậy, chóng thành Chánh Giác.
Xét tình
thế hiện tại, đừng quan tâm tới các Thiền lục nữa, cứ chuyên tu Tịnh nghiệp,
dùng cái tâm chẳng nhiễm mảy trần để chuyên trì thánh hiệu vạn đức hồng danh.
Niệm ra tiếng, hoặc niệm thầm, chẳng tạp, chẳng gián đoạn, sao cho niệm khởi từ
tâm, tiếng thấu vào tai, từng chữ phân minh, từng câu chẳng loạn. Lâu ngày chầy
tháng, tự thành một phiến, tự chứng Niệm Phật tam-muội, tự biết Tây Phương tông
phong. Đấy là dùng công phu “phản văn tự tánh”
(xoay trở lại nghe nơi tự tánh) của
Quán Âm để tu tịnh nghiệp “nhiếp trọn sáu
căn, tịnh niệm tiếp nối” của Thế Chí, tuy là Tịnh, nhưng chính là Thiền,
còn gì hay khéo hơn!
* Người
tu Thiền Định (chỉ Tứ Thiền, Bát Định)
và người tham Thiền chỉ cậy vào tự lực, chẳng cầu Phật gia bị. Vì thế, lúc công
phu đắc lực, chân và vọng chống cự nhau, thường có các thứ cảnh giới huyễn hoặc
xuất hiện, [rồi] huyễn hoặc biến mất! Ví như lúc trời mưa dầm sắp tạnh, mây dầy
bị xé toạc, chợt thấy ánh mặt trời chỉ trong khoảnh khắc, biến hóa chẳng lường
được! Nếu chẳng phải là người thật sự có đạo nhãn, sẽ chẳng thể phân biệt biết
rõ tất cả những cảnh giới ấy. Nếu tưởng lầm đó chính là dấu hiệu [chứng tỏ
chính mình chứng đắc], sẽ bị ma dựa phát cuồng, không sao chữa được!
Người
niệm Phật dùng lòng tín nguyện chân thành, thiết tha, trì vạn đức hồng danh, ví
như mặt trời rực rỡ giữa hư không, đi trên đường lớn của vua, không chỉ quỷ mị
lỵ vọng lượng biến mất tăm tích, ngay cả những ý niệm ngoắt ngoéo, sai trái
cũng chẳng sanh từ đâu được. Suy đến cùng cực, chẳng qua là: Niệm đến mức công
thuần, lực tận, toàn tâm là Phật, toàn Phật là tâm, tâm - Phật bất nhị, tâm -
Phật như một mà thôi! Chỉ sợ con người chẳng biết đến hạnh ấy, lý ấy, nên chẳng
thể xứng hợp ý nguyện phổ độ chúng sanh của Phật; chứ có phải là bí mật chẳng
truyền, chỉ truyền riêng cho mình ông ư? Nếu có những “diệu quyết” khẩu truyền
kín đáo thì đấy chính là tà ma ngoại đạo, há có phải là Phật pháp!
* Hòa
Thượng Pháp Tràng sẵn đủ linh căn từ trước, thoạt đầu là bậc chân Nho, sau
thành bậc chân Tăng; có thể nói là chẳng uổng công đọc sách học đạo vậy! Đời có
bậc chân Nho thì mới có bậc chân Tăng. Những hạng vô lại xuất gia thảy đều là
ma vương ngoại đạo phá hoại Phật pháp! Ngữ lục của Ngài (Pháp Tràng) thật là thống khoái, thẳng chóng, mở toang tâm mục của
con người, rất nên khắc in lưu thông để làm pháp bảo nhà Thiền. Thế nhưng, Ngài
chỉ phát huy đạo lý “chỉ thẳng tâm người,
thấy tánh thành Phật”; chúng ta chuyên tu Tịnh nghiệp, đừng nên so đo, đoán
mò lời Ngài, đến nỗi đánh mất lợi ích cả hai bên vậy. Chớ nên chẳng biết điều
này. Tông gia (Thiền Tông) chỉ đề
xướng bổn phận, những thứ khác đều chẳng thèm xiển dương. Việc tu nhân đạt quả,
đoạn Hoặc chứng Chân của nhà Thiền đều là ngầm tự tu trì. Những kẻ đứng ngoài
thấy nhà Thiền chẳng đề xướng những đạo lý tu chứng ấy, bèn cho rằng Tông gia
hoàn toàn chẳng dùng đến những pháp đó. Đấy là báng Tông, mà cũng là báng Phật,
báng Pháp vậy!
* Hãy
nên biết: Trong hết thảy các pháp môn đức Phật đã nói, đều phải đoạn Hoặc chứng
Chân thì mới có thể liễu sanh thoát tử, tuyệt đối chẳng có chuyện chưa đoạn
sạch Hoặc mà hòng liễu thoát! Đối với pháp môn Niệm Phật, nếu người vãng sanh
đã đoạn Hoặc nghiệp, sẽ mau chứng Pháp Thân, người tuy còn đủ Hoặc nghiệp mà
vãng sanh thì cũng đã vượt lên địa vị thánh nhân. Một đằng hoàn toàn cậy vào tự
lực, một đằng hoàn toàn nhờ vào Phật lực kiêm thêm tự lực.
Điều thứ
hai, [so sánh sự tu trì giữa các pháp môn khác và pháp môn Niệm Phật] sự khó dễ
đúng là một trời một vực. Thường có kẻ thông minh, đọc sách Thiền qua quít,
hiểu chút vị Thiền, bèn toan lấy Thiền làm mạng, học đòi làm bậc cao nhân thông
suốt, nhưng toàn là hạng chẳng biết Thiền lẫn Tịnh đến nơi đến chốn, cứ lầm
tưởng chính mình là hạng tôn quý, đại căn. Tuyệt đối chớ nên bắt chước theo thứ
tri kiến như thế. Bắt chước theo đó, chỉ e trải qua kiếp số như vi trần, vẫn
chẳng mong đạt được liễu sanh thoát tử!
*
“Quyền” nghĩa là Như Lai tùy thuận theo căn cơ của chúng sanh mà đặt bày phương
tiện. “Thật” nghĩa là nói đến những nghĩa lý do chính tự tâm đức Phật chứng
được. “Đốn” là chẳng cần đến thứ tự tiến dần dần, mà nhanh thẳng, mau lẹ, nhất
siêu trực nhập. “Tiệm” nghĩa là tấn tu dần dần theo thứ tự, chứng nhập dần dần,
phải trải qua nhiều kiếp, nhiều đời mới đích thân chứng Thật Tướng.
Người tham
Thiền cho rằng pháp Tham Thiền là pháp “chỉ
thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”. Cố nhiên, pháp này thật sự là pháp
Ðốn, nhưng họ chẳng biết rằng: Tham Thiền dù đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến
tánh, thì cũng mới chỉ thấy được đức Phật lý tánh sẵn có ở ngay trong tâm này!
Nếu là căn tánh đại Bồ Tát thì vừa ngộ liền chứng, tự có thể mãi mãi thoát khỏi
luân hồi, vượt xa tam giới. Từ đấy, dùng thượng cầu hạ hóa làm nền tảng để
trang nghiêm phước và trí. Xét ra, trong trăm ngàn người đại triệt đại ngộ chỉ
được một hai vị thuộc vào căn tánh này. Còn như những kẻ căn khí hơi kém hơn,
dù có thể diệu ngộ, nhưng chưa thể đoạn trừ Kiến Tư Hoặc, thì vẫn phải thuộc
trong tam giới, thọ sanh, thọ tử. Đã phải thọ sanh tử thì từ ngộ thành mê là
nhiều, từ ngộ trở thành ngộ ít ỏi! Như vậy, tuy pháp này thật sự là viên đốn,
nhưng nếu chẳng phải đúng người thì cũng chẳng thật sự đạt được lợi ích thật
nhanh chóng, nên nó cũng trở thành pháp Quyền Tiệm mà thôi. Vì sao vậy? Do cậy
vào Tự Lực; nếu Tự Lực mười phần đầy đủ thì họa may sẽ được như thế; còn như
chỉ hơi thiếu chút phần, sẽ chỉ ngộ được lý tánh nơi cửa miệng, chẳng thể đích
thân chứng được lý tánh. Hiện thời, bậc đại triệt đại ngộ còn khó có được mấy
người, huống là người chứng được điều mình đã ngộ!
Một pháp
Niệm Phật thông trên suốt dưới, vừa là Quyền vừa là Thật, vừa Tiệm vừa Đốn,
chẳng thể dùng giáo lý tầm thường để phán định được. Trên đến bậc Đẳng Giác Bồ
Tát, dưới đến chủng tánh A Tỳ, đều cùng nên tu tập (do đấy nói là “thông trên, suốt dưới”). Như Lai vì chúng sanh
thuyết pháp chỉ nhằm làm cho chúng sanh liễu sanh thoát tử. Trong các pháp môn
khác, bậc thượng căn có thể liễu sanh thoát tử ngay trong đời này, còn hạ căn
bao kiếp khó lòng liễu được! Chỉ mỗi mình pháp này, chẳng cần biết là chủng
tánh, căn cơ nào, cũng đều có thể vãng sanh Tây Phương ngay trong đời này, bèn
liễu sanh thoát tử. Pháp thẳng chóng như thế, há có thể gọi là Tiệm ư? Chỉ do
căn cơ [được hóa độ bởi pháp này] chẳng giống với căn cơ của các pháp viên đốn
thông thường, nên pháp này tựa hồ là Tiệm, nhưng oai lực của pháp môn này phát
xuất từ thệ nguyện muốn cho những căn cơ kém hèn ấy đều mau chóng được hưởng
lợi ích lớn của đức Như Lai. Lợi ích ấy hoàn toàn nằm ở chỗ cậy vào Phật từ
lực. Phàm những người giảng Thiền nếu chưa nghiên cứu kỹ Tịnh Tông, chưa có ai
không coi pháp này là thiển cận rồi khinh thường. Nếu nghiên cứu kỹ Tịnh Tông,
ắt sẽ dốc cạn lòng thành, tận hết sức lực để hoằng dương, há còn chấp mãi vào
những lý luận Quyền, Thật, Tiệm, Đốn để tự mình lầm, làm người khác lầm lạc nữa
ư?
* Nói
đến Thủ - Xả (lấy - bỏ) là ước trên
Thật Nghĩa rốt ráo mà nạn (“nạn” tức là
cật vấn, bắt bẻ), chẳng biết rằng: Không Thủ không Xả rốt ráo chỉ là chuyện
sau khi đã thành Phật! Nếu chưa thành Phật, còn đang trong giai đoạn “đoạn
Hoặc, chứng Chân” thì đều thuộc về Thủ - Xả cả! Đã chấp nhận chuyện Thủ - Xả
“đoạn Hoặc chứng Chân”, sao lại chẳng chấp nhận chuyện Thủ - Xả “bỏ Đông lấy
Tây, lìa cấu giữ tịnh”?
Đối với
pháp Tham Thiền thì thủ - xả đều là sai, nhưng đối với một pháp Niệm Phật, thủ
- xả lại là đúng. Một đằng chuyên suy xét tự tâm, một đằng kiêm nhờ vào Phật
lực. Kẻ kia chẳng xét đến duyên do của từng của pháp môn, lầm lạc dùng pháp
Tham Thiền để phá pháp Niệm Phật; tức là hiểu lầm ý ấy mất rồi! Vô Thủ - Xả vốn
là đề hồ, nhưng niệm Phật mà cũng muốn không Thủ - Xả thì không Thủ - Xả bèn
thành thuốc độc! Mùa Hạ mặc áo mỏng, mùa Đông khoác áo cừu, khát uống, đói ăn,
chẳng mâu thuẫn gì, cũng chớ nên cố chấp! Chỉ cốt sao chọn lấy điều thích nghi
thì được lợi ích, chẳng bị trở ngại gì!
* Coi
“bỏ Đông, lấy Tây” là sanh diệt tức là chẳng biết “chấp Đông, phế Tây” chính là
đoạn diệt! Chưa chứng Diệu Giác, có ai là không lấy, bỏ? Tam kỳ[1], trăm kiếp tu nhân, thượng cầu, hạ hóa, đoạn Hoặc, chứng
Chân, không sự nào chẳng phải là lấy, bỏ đó sao? Phải biết: Đức Như Lai muốn
cho hết thảy chúng sanh mau chứng Pháp Thân và Tịch Quang, nên Ngài mới đặc
biệt khuyên trì danh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương.
* Một
chuyện Tham Thiền há phải là dễ dàng! Cổ nhân như ngài Triệu Châu Thẩm thiền
sư, xuất gia từ nhỏ, đến hơn tám mươi tuổi vẫn hành cước, nên mới có bài tụng
rằng:
Triệu
Châu bát thập do hành cước,
Chỉ vị
tâm đầu vị tiễu nhiên.
(Triệu
Châu tám chục còn hành cước,
Do bởi
cõi lòng chửa lặng không!)
Ngài
Trường Khánh ngồi rách bảy cái bồ đoàn rồi mới khai ngộ. Ngài Dũng Tuyền phải
nhọc nhằn hết bốn mươi năm. Ngài Tuyết Phong ba lượt lên gặp ngài Đầu Tử, chín
lần lên Động Sơn. Họ là những bậc đại Tổ Sư đại triệt, đại ngộ, mà còn phải
gian nan đến thế. Lũ ma con kia mới nghe qua ma thuyết đều được khai ngộ ngay,
vậy thì những vị Tổ Sư vừa nói trên đây có xách giày cho chúng cũng không đáng
hay sao?
* Những
lời “chẳng chấp trước”... về Lý thì đúng, nhưng về Sự thì chẳng phải là điều
hạng phàm phu sát đất có thể làm nổi! Suốt ngày mặc áo, ăn cơm, rồi vênh váo ta
bất chấp đói lạnh, bảo kẻ suốt ngày bụng rỗng tuếch, chẳng được chén nước, hạt
cơm, đói lả gần chết rằng: “Tôi coi gan rồng tủy phượng giống hệt như uế vật,
nghĩ đến là muốn ói, huống hồ là nuốt xuống!” Toàn là nói suông như nhau thôi!
Nay kẻ tham Thiền nếu chẳng hiểu giáo lý thì lý Không giải thoát phần nhiều trở
thành bệnh cho họ. Còn như Không cảnh hiện tiền khi tịnh tọa, lắng ý, bất quá
là do [ý niệm] lặng trong, chế ngự được vọng, nên ngẫu nhiên huyễn cảnh phát
hiện đó thôi! Nếu tưởng lầm đấy chính là dấu hiệu chứng tỏ chính mình chứng
đắc, bèn sanh lòng mừng rỡ lớn lao, thì sẽ mất trí thành cuồng, Phật cũng khó
cứu được!
Nếu may
mắn suy xét kỹ, chẳng chấp trước, buông bỏ huyễn vọng, chợt quán thông các pháp
môn thì đấy mới là: Đi trong chốn gai góc đã lâu, chợt đến chỗ khoảng khoát.
Người đời Mạt căn cơ hèn kém, tri thức hiếm hoi, nếu chẳng cậy vào Phật từ lực
để chuyên tu Tịnh nghiệp, chỉ cậy vào tự lực tham cứu Thiền Tông thì minh tâm
kiến tánh, đoạn Hoặc chứng Chân, hiếm có mấy ai thành công! Còn hạng tưởng
huyễn là chân, ngỡ mê là ngộ, ma dựa phát cuồng, đúng là nhiều lắm! Vì thế, các
vị Vĩnh Minh, Liên
Trì v.v... quán sát căn
cơ đương thời, cực
lực chủ trương pháp môn Tịnh Độ.
* Thiền
tức là Chân Như Phật Tánh trong bổn tâm chúng ta, Tông môn gọi là “bổn lai diện mục trước lúc cha mẹ sanh ra”.
Tông môn chẳng nói toạc ra, cốt sao người tham cứu tự hiểu lấy, nên mới nói như
vậy. Thật ra, nó là cái tâm thể thuần chân, không Năng, không Sở, vừa Tịch, vừa
Chiếu, ly niệm linh tri (“ly niệm linh
tri” là không có ý niệm suy nghĩ gì, nhưng mọi cảnh hiện hữu đều hiểu rõ).
Tịnh Độ
là Tín Nguyện Trì Danh cầu sanh Tây Phương, chẳng phải chỉ là “duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà!”.
“Có Thiền” là cực
lực tham cứu đến mức niệm lặng, tình mất, thấy thấu tột “bổn lai diện mục trước khi cha mẹ sanh ra”, minh tâm kiến tánh.
“Có Tịnh Độ” là chân
thật phát Bồ Đề tâm, sanh tín, phát nguyện, trì danh hiệu Phật, cầu sanh Tây
Phương. [Nói] Thiền và Tịnh Độ chỉ là ước theo Giáo, ước theo Lý [để nói].
“Có Thiền, có Tịnh Độ” là ước theo căn cơ, ước theo mặt tu hành. Giáo Lý luôn
luôn như thế, Phật chẳng thể tăng, phàm chẳng thể giảm. Ước theo căn cơ để tu
hành thì phải y giáo khởi tu, tu hành đến cùng cực để chứng Lý, chứ thật sự
chẳng có gì khác cả!
Thứ hai
là văn tuy tương tự, nhưng thật ra khác biệt rất lớn. Hãy nên hiểu kỹ càng, chớ
nên mơ hồ. Nếu tham Thiền chưa ngộ, hoặc ngộ chưa triệt để, đều chẳng thể gọi
là “có Thiền”. Nếu niệm Phật, nhưng
thiên chấp duy tâm, lại không có tín nguyện, hoặc có tín nguyện, nhưng chẳng
chân thật, thiết tha, mà chỉ hời hợt, hờ hững, thực hành qua quýt, hoặc hạnh
tuy tinh tấn, nhưng tâm luyến cảnh ma, hoặc cầu đời sau sanh vào nhà phú quý
hưởng thú vui ngũ dục, hoặc cầu sanh lên trời hưởng phước lạc trời, hoặc cầu
đời sau xuất gia làm tăng nghe một hiểu được cả ngàn, đắc đại tổng trì, hoằng
dương đạo pháp phổ lợi chúng sanh, đều chẳng được gọi là “có Tịnh Độ”!
* “Có
Thiền, có Tịnh Độ; khác nào cọp mọc sừng, hiện đời làm thầy người, đời sau làm
Phật, Tổ” là người triệt ngộ Thiền Tông, minh tâm kiến tánh, lại còn thâm
nhập Kinh Tạng, biết hết các pháp môn Quyền, Thật của Như Lai, nhưng trong các
pháp môn, lại chỉ chọn lấy một pháp Tín Nguyện Niệm Phật để tự lợi, lợi người
làm chánh hạnh tu tập. Bậc thượng phẩm thượng sanh đọc tụng kinh Đại Thừa, hiểu
Đệ Nhất Nghĩa đã nói trong Quán kinh chính là hạng người này. Người ấy có đại
trí huệ, có đại biện tài, tà ma, ngoại đạo nghe tên vỡ mật, như hổ đội sừng,
oai mãnh khôn sánh! Có ai đến cầu học bèn tùy cơ thuyết pháp: Nên dùng Thiền
Tịnh song tu để tiếp độ bèn dùng Thiền Tịnh song tu để tiếp độ; nên dùng chuyên
tu Tịnh Độ để tiếp độ bèn dùng chuyên tu Tịnh Độ để tiếp độ. Bất luận thượng,
trung, hạ căn, không ai chẳng được lợi ích; há chẳng phải là đạo sư của trời
người ư? Đến lúc lâm chung, được Phật tiếp dẫn, vãng sanh thượng phẩm, trong
khoảng khảy ngón tay, chứng Vô Sanh Nhẫn, tệ nhất cũng chứng được Sơ Trụ trong
Viên Giáo. Cũng có người đốn siêu các địa vị, đạt đến Đẳng Giác. Bậc Sơ Trụ
trong Viên Giáo còn có thể hiện thân làm Phật trong trăm cõi, huống là những
địa vị sau đó, càng cao càng thù thắng, cho đến địa vị thứ bốn mươi mốt là Đẳng
Giác! Vì thế nói là: “Đời sau làm Phật, Tổ!”
* “Không
Thiền, có Tịnh Độ; vạn người tu vạn về; nếu được thấy Di Đà, lo gì chẳng khai
ngộ” là có người tuy chưa minh tâm kiến tánh, nhưng quyết chí cầu sanh Tây
Phương. Do trong kiếp xưa, Phật từng phát đại thệ nguyện nhiếp thọ chúng sanh
như mẹ nhớ con. Nếu chúng sanh thật sự có thể như con nhớ mẹ, chí thành niệm
Phật, sẽ cảm ứng đạo giao, liền được nhiếp thọ. Người tận lực tu Định Huệ, cố
nhiên được vãng sanh, nhưng kẻ Ngũ Nghịch Thập Ác, lâm chung bị sự khổ bức
bách, phát lòng hổ thẹn lớn lao, xưng niệm danh hiệu Phật hoặc tới mười tiếng,
hoặc chỉ một tiếng rồi liền lâm chung, cũng đều được Phật hóa thân tiếp dẫn
vãng sanh. Chẳng phải là “vạn người tu, vạn người về” hay sao?
Kẻ ấy
tuy niệm Phật chẳng bao nhiêu, nhưng do cực kỳ mãnh liệt, nên đạt được lợi ích
lớn lao như thế, chớ nên so sánh nhiều ít với những kẻ niệm Phật hời hợt, qua
loa! Đã sanh về Tây Phương, thấy Phật nghe pháp, dù có nhanh chậm bất đồng,
nhưng đều đã cao dự dòng thánh, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển, tùy theo căn tánh
cạn hay sâu, là Tiệm hay Đốn mà chứng các quả vị. Đã được chứng quả, cần chi
phải nói đến khai ngộ nữa! Vì thế nói: “Nếu được thấy Di Đà, lo gì chẳng
khai ngộ!”
* “Có
Thiền, không Tịnh Độ, mười người chín chần chừ, ấm cảnh nếu hiện tiền, chớp mắt
đi theo nó”: Người tuy
triệt ngộ Thiền Tông, minh tâm kiến tánh, nhưng Kiến Tư phiền hoặc chẳng dễ
đoạn trừ, phải qua nhiều duyên rèn luyện để trừ sạch không còn sót gì thì mới
có thể thoát khỏi Phần Đoạn sanh tử. Đối với kẻ chẳng đoạn được chút gì thì
chẳng cần bàn đến nữa! Dù cho đoạn đến mức còn một mảy phiền não chưa trừ sạch
thì vẫn giống hệt như cũ: Khó tránh khỏi luân hồi trong lục đạo! Biển sanh tử
sâu thăm thẳm, nẻo Bồ Đề xa vời vợi, còn chưa về được nhà mà đã mạng chung!
Trong mười người đại triệt đại ngộ, chín người đã như thế; cho nên nói “mười
người chín chần chừ” (thập nhân cửu
ta lộ).
“Ta” là “ta đà” (蹉跎), nói thông thường là “đảm các” (担閣: chần
chừ). “Ấm cảnh” là “trung ấm thân cảnh”, tức là các cảnh
hiện ra bởi các nghiệp lực thiện ác trong đời này và bao kiếp. Khi cảnh này
hiện, trong khoảng chớp mắt, sẽ theo nghiệp lực thiện hay ác nào mạnh mẽ nhất
đi thọ sanh trong đường thiện hay ác, chẳng mảy may tự chủ được; như người mắc
nợ, chủ nợ nào mạnh sẽ lôi đi. Tâm tình lắm mối, đặt nặng nơi nào sẽ nghiêng về
đó. Ngũ Tổ Giới tái sanh làm Tô Đông Pha, Thảo Đường Thanh lại sanh làm Lỗ
Công, họ còn là căn cơ bậc thượng đấy nhé! Vì thế nói: “Ấm cảnh nếu hiện
tiền, chớp mắt đi theo nó!”
Chữ Ấm (陰), âm và nghĩa cùng với chữ Ấm (蔭), có nghĩa là ngăn che, ý nói: Do nghiệp lực ngăn che khiến chân tánh chẳng thể hiển hiện. “Miết” (瞥), âm đọc như chữ Phiết (撇), có nghĩa là chớp mắt. Có kẻ cho rằng “ta đà” nghĩa là lầm lạc, “ấm cảnh” là cảnh [hiển hiện bởi] Ngũ Ấm
ma, toàn là do chẳng hiểu chữ Thiền và chữ Có, nên mới nói hồ đồ, nhăng nhít
như thế. Lẽ nào bậc đại triệt đại ngộ mười người hết chín kẻ lạc lối, chạy theo
cảnh Ngũ Ấm Ma, bị ma dựa phát cuồng ư? Phàm những kẻ bị ma dựa phát cuồng toàn
là hạng tăng thượng mạn chẳng biết giáo lý, chẳng rõ tự tâm, tu mù luyện quáng
đó thôi, sao lại gán cho bậc đại triệt đại ngộ là chẳng biết tốt xấu vậy? Điều
này quan hệ rất lớn, chẳng thể không biện định rõ!
* “Không Thiền, không Tịnh Độ; giường sắt và
cột đồng, vạn kiếp cùng ngàn đời, không một ai nương dựa”. Có kẻ cho rằng
câu “không Thiền, không Tịnh Độ” chỉ
kẻ vùi đầu tạo nghiệp, chẳng tu thiện pháp, thật lầm lẫn quá! Pháp môn vô
lượng, nhưng chỉ có Thiền và Tịnh Độ phù hợp với các căn cơ nhất. Kẻ nào chưa
triệt ngộ, lại chẳng cầu vãng sanh, lại hời hợt, qua quýt tu các pháp môn khác.
Đã chẳng thể cân bằng Định Huệ, đoạn Hoặc, chứng Chân, lại chẳng cậy vào Phật
lực để đới nghiệp vãng sanh; do đã tạo ác nghiệp, khó trốn khỏi ác báo. Một khi
hơi thở ra chẳng hít vào được nữa, liền đọa địa ngục, rõ ràng là trải kiếp dài
lâu nằm ngồi, ôm ấp giường sắt, trụ đồng, để đền trả các thứ ác nghiệp tham lam
thanh sắc, sát sanh hại mạng v.v... Chư Phật, Bồ Tát tuy rủ lòng thương xót,
nhưng họ bị ác nghiệp chướng ngăn che, nên chẳng thể đạt được lợi ích.
Người
xưa nói: “Người tu hành nếu không chánh tín, cầu vãng sanh Tây Phương, tu
lung tung các điều thiện khác thì gọi là oan gia đời thứ ba” chính là nói
đến tình cảnh này. Bởi lẽ, do đời này tu hành, đời sau hưởng phước. Cậy phước
làm ác, ắt bị đọa lạc. Tạm vui trong đời này, khổ mãi trong cả kiếp dài lâu. Ví
như nghiệp địa ngục tiêu hết, lại chuyển sanh làm súc sanh, muốn lại được làm
thân người, khó vô cùng khó!
Vì thế,
đức Phật dùng tay nhón lấy chút đất, hỏi A Nan: “Đất trong tay ta nhiều hay đất
trong đại địa nhiều?” A Nan bạch Phật: “Đất trong đại địa nhiều!” Phật dạy:
“Được làm thân người như đất trong tay ta, mất thân người như đất trong đại
địa”. Nói “muôn kiếp và ngàn đời, không một ai nương dựa” là do bị ràng
buộc bởi vần điệu của bài kệ, nên chỉ nói thiển cận như thế.
Hết thảy
các pháp môn chuyên cậy vào tự lực, pháp môn Tịnh Độ chuyên cậy vào Phật lực.
Hết thảy các pháp môn phải đoạn hết sạch Hoặc nghiệp thì mới có thể liễu sanh
tử. Pháp môn Tịnh Độ đới nghiệp vãng sanh liền dự vào dòng Thánh. Đại sư Vĩnh
Minh sợ thế gian chẳng biết, nên soạn riêng bài Liệu Giản này để chỉ dạy cho
đời sau, có thể nói là “chiếc bè báu nơi
bến mê, là người dẫn lối nơi đường hiểm”. Tiếc là mọi người trong thế gian
đọc lướt qua, chẳng chịu nghiên cứu đến cùng tột, chắc là đồng phận ác nghiệp
xui khiến đến nỗi thành ra như thế đó chăng?
* Đạt Ma
từ phương Tây qua, truyền tâm ấn của Phật, chỉ thẳng tâm người, kiến tánh thành
Phật; nhưng cái để thấy, để thành ấy chính là Thiên Chân Phật Tánh có sẵn ngay
trong tâm chúng ta, [Ngài dạy như thế] để con người trước hết biết được cái gốc
rồi tự dựa vào đó để tấn tu hết thảy các pháp, tu chứng cho đến khi nào tu được
cái không thể tu, chứng được cái không thể chứng mới thôi! Chẳng phải là vừa
ngộ liền đầy đủ cả phước lẫn huệ, viên mãn rốt ráo Phật đạo Bồ Đề! Giống như vẽ
rồng điểm nhãn để [người nghe] đích thân được thụ dụng. Do vậy, Thiền Tông phát
triển rực rỡ, chói ngời nơi Chấn Đán (Trung
Hoa), đạo “tâm này chính là Phật”,
pháp “phi tâm, phi Phật” lan khắp
hoàn vũ. Người thiên cơ sâu đối với mỗi cơ, mỗi cảnh, liền biết đầu mối, liền
phun châu nhả ngọc, chẳng vướng lối sáo mòn, vào sống ra chết, trọn chẳng ngăn
ngại, sợ hãi, được đại giải thoát, đắc đại tự tại. Nếu căn cơ hơi kém hơn, dù
đại triệt, đại ngộ, nhưng phiền não tập khí chưa thể trừ sạch, thì vẫn là người
trong sanh tử y như cũ. Xuất thai cách ấm đa phần bị mê. Bậc đại ngộ còn như
thế, huống kẻ chưa ngộ ư? Vì thế, hãy nên chuyên tâm dốc chí nơi pháp môn Tịnh
Độ cậy vào Phật từ lực thì mới là kế sách ngàn phần ổn thỏa, vạn phần thích
đáng vậy!
* Trong
Luật, Giáo, Thiền Tông, trước hết phải hiểu sâu giáo lý rồi mới y giáo tu hành.
Tu hành công sâu, đoạn Hoặc chứng Chân thì mới thoát khỏi sanh tử. Nếu chẳng
hiểu giáo lý, bèn là tu mù luyện quáng. Nếu không, được chút ít đã cho là đủ,
bèn bị ma dựa phát cuồng. Dù cho hiểu giáo lý, công tu hành sâu xa, vẫn phải
đoạn Hoặc, nếu còn chút mảy may nào chưa đoạn sạch, sẽ vẫn y như cũ, chẳng thể
thoát khỏi cảnh khổ! Mãi cho đến khi Hoặc nghiệp hết sạch thì mới có thể thoát
ly sanh tử, nhưng vẫn còn cách địa vị Phật rất xa, phải trải qua bao kiếp tấn
tu mới viên mãn Phật quả.
Ví như
dân hèn sanh ra đã thông minh, đọc sách, học văn nhiều năm khó nhọc, học vấn đã
thành, thi đậu làm quan. Do có tài năng lớn, từ chức quan nhỏ được thăng cấp
dần đến khi làm Tể Tướng, quan vị cực phẩm, nhưng không thể nào lên cao hơn
được nữa! Địa vị bậc nhất trong đám quần thần, nhưng so với Thái Tử, sang hèn
khác nhau một trời, một vực, huống hồ so với hoàng đế? Suốt đời làm bầy tôi,
tuân hành lệnh vua, cúc cung tận tụy giúp vua cai trị quốc gia; nhưng cái địa
vị Tể Tướng ấy thật chẳng dễ dàng gì! Cả nửa đời siêng năng, vất vả, ra sức
nhẫn nại, cho đến cuối cùng, cũng chẳng hơn được thế. Còn kẻ học vấn và tài
năng sút kém đôi chút, chẳng đạt được như thế thì có đến trăm, ngàn, vạn, ức
người! Đấy là tự lực.
Học vấn
tài năng ví như hiểu sâu giáo lý, y giáo tu hành. Địa vị đến bậc tể tướng ví
như công tu hành sâu, đoạn Hoặc chứng Chân. “Chỉ có thể xưng là Thần (bầy tôi), chẳng dám xưng là vua” (bầy tôi quyết định chẳng dám làm vua. Bầy
tôi mà muốn làm vua, trừ phi thác sanh trong hoàng cung, làm Hoàng Thái Tử. Tu
các pháp môn khác, cũng có thể thành Phật, nhưng so với Tịnh Độ, đúng là gấp
vạn lần sự khác biệt giữa một ngày và một kiếp. Độc giả hãy nên khéo hiểu ý
nghĩa, đừng câu nệ từ ngữ. Nếu dựa theo phần cuối kinh Hoa Nghiêm, Đẳng Giác Bồ
Tát còn dùng mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh, đúng là giống như thác
sanh trong hoàng cung, làm Hoàng Thái Tử, ý nghĩa tương đương. Pháp môn Tịnh Độ
được kinh Hoa Nghiêm [xiển dương] giống biển cả dung nạp vạn con sông, như thái
hư nhiếp trọn muôn hình tượng, lớn lao thay!), ví như tuy ra khỏi sanh tử,
vẫn chưa thành Phật. “Những kẻ học vấn chẳng đủ, chẳng thể đạt được như thế rất
nhiều” ví như kẻ chưa đoạn hết Hoặc, chẳng thể thoát khỏi biển khổ sanh tử rất
đông!
* Trong
pháp môn Niệm Phật, dù chẳng hiểu giáo lý, chưa đoạn Hoặc nghiệp, chỉ cần tín
nguyện trì danh, cầu sanh Tịnh Độ, lúc lâm chung, quyết định được Phật đích
thân tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Đã sanh về Tây Phương, gặp Phật nghe pháp,
ngộ Vô Sanh Nhẫn, liền ngay trong một đời ấy, quyết định bổ vào địa vị Phật.
Đấy là Phật lực lại kiêm tự lực, nghĩa là: Tín nguyện trì danh là tự lực, tự
lực ấy có thể cảm đức Phật. Do thệ nguyện nhiếp thọ, Phật rủ lòng Từ tiếp dẫn,
đấy là Phật lực có thể ứng đến ta. Do cảm ứng đạo giao, bèn được như thế.
Nếu như
hiểu sâu giáo lý, đoạn Hoặc, chứng Chân, thì phẩm vị vãng sanh càng cao, viên
thành Phật đạo càng nhanh. Bởi thế, Văn Thù, Phổ Hiền, Hoa Nghiêm hải chúng, Mã
Minh, Long Thọ, tổ sư các tông, đều nguyện vãng sanh. Ví như thác sanh vào
hoàng cung, vừa ra khỏi thai mẹ, đã quý hiển át cả quần thần. Đấy là do thế lực
của vua. Chờ đến khi khôn lớn, học vấn tài năng mỗi mỗi đều đầy đủ, sẽ có thể
tiếp nối ngôi báu, bình trị thiên hạ. Hết thảy quần thần phải nghe theo chiếu
dụ. Đấy chính là vương lực và tự lực cùng có.
Pháp môn
Niệm Phật cũng giống như thế: Chưa đoạn Hoặc nghiệp, bèn nương vào từ lực của
Phật vãng sanh Tây Phương, liền thoát sanh tử, giống như Thái Tử mới sanh đã
quý hiển át cả quần thần. Khi đã vãng sanh, Hoặc nghiệp tự đoạn, quyết định bổ
vào địa vị Phật, giống như Thái Tử khôn lớn kế thừa ngôi báu, bình trị thiên
hạ. Thêm nữa, bậc đã đoạn Hoặc nghiệp như Mã Minh, Long Thọ, tổ sư các tông,
bậc đã chứng địa vị Bổ Xứ như Văn Thù, Phổ Hiền, Hoa Nghiêm hải chúng đều
nguyện vãng sanh, giống như trước kia trấn giữ chốn biên thùy hẻo lánh, chẳng
thể nối ngôi, nay sống trong Đông Cung, chẳng bao lâu sẽ lên ngôi báu.
* Tâm
tánh chúng ta giống hệt như chư Phật,
chỉ vì mê trái, nên luân hồi chẳng ngơi. Như Lai xót thương tùy cơ thuyết pháp,
khiến cho hết thảy hàm thức đều biết đường về nhà. Pháp môn tuy nhiều, trọng
yếu chỉ có hai môn Thiền và Tịnh là dễ liễu thoát nhất. Thiền chỉ có tự lực,
Tịnh kiêm Phật lực. So sánh hai môn, Tịnh khế cơ nhất, như người vượt biển phải
nhờ sức thuyền mới mau đến được bến, thân tâm thản nhiên. Chúng sanh đời Mạt
chỉ có thể hành nổi pháp này. Nếu không, tức là trái nghịch căn cơ, nhọc nhằn,
nhưng khó thành. Phát đại Bồ Đề, sanh tín nguyện chân thành, thiết tha, suốt
đời kiên trì, chỉ niệm Phật. Niệm đến cùng cực, tình kiến mất sạch, chính là
“niệm nhưng vô niệm”, diệu nghĩa Thiền - Giáo triệt để hiển hiện; đến khi lâm
chung được Phật tiếp dẫn lên ngay thượng phẩm, chứng Vô Sanh Nhẫn. Có một bí
quyết, tha thiết bảo ban: “Dốc lòng
thành, tận lòng kính”, mầu nhiệm, huyền diệu làm sao!
Nhận xét
Đăng nhận xét