VIII. GIẢI QUYẾT NHỮNG ĐIỀU NGHI HOẶC THƯỜNG GẶP
ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC
Bửu Quang Tự Đệ Tử Như Hòa dịch
Bửu Quang Tự Đệ Tử Như Hòa dịch
8.1. Luận về Sự, Lý
* Lý thế
gian hay xuất thế gian chẳng ra khỏi hai chữ “tâm tánh”. Sự thế gian và xuất
thế gian chẳng ra khỏi hai chữ “nhân quả”. Chúng sanh trầm luân trong cửu giới,
Như Lai chứng Nhất Thừa, nhưng tâm tánh chẳng tăng hay giảm mảy may nào! Sở dĩ
thăng, trầm khác xa nhau, khổ, vui cách biệt vời vợi là do tu đức nơi nhân địa
chẳng giống nhau, nên thụ dụng nơi quả địa khác biệt.
Xiển
dương Phật pháp thật chẳng phải là chuyện dễ! Chỉ luận về lý tánh thì trung
căn, hạ căn chẳng hưởng lợi ích; chuyên nói nhân quả thì người căn cơ bậc
thượng thường hay chán nghe. Nhưng nếu tách rời nhân quả và tâm tánh, cả hai
đều tổn; hợp lại, cả hai cùng tốt đẹp. Vì thế, ngài Mộng Đông nói: “Người
khéo luận tâm tánh, ắt chẳng bỏ lìa nhân quả. Người tin sâu nhân quả, ắt rốt
cuộc hiểu rõ ràng tâm tánh”. Lý này lẽ tất nhiên là như thế. Nhưng chúng
sanh thời Mạt Pháp căn cơ hèn kém, các pháp Thiền, Giáo chỉ cậy vào tự lực, khế
ngộ còn khó, huống hồ liễu thoát! Chỉ có pháp môn Tịnh Độ cậy vào Phật lực, chỉ
cần đầy đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, dù là Ngũ Nghịch, Thập Ác,
cũng có thể vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, cao dự hải hội. Đối với pháp tối
thượng thừa chẳng thể nghĩ bàn này, hãy nên giảng cả Lý lẫn Sự, thành thật
khuyên [ai nấy] hãy nên thí [pháp này] đều khắp.
* Hãy
nên biết pháp môn Tịnh Độ có đủ cả tất
cả sự tướng
của bốn pháp giới, đều là pháp giới sự sự vô ngại. Đọc đến rồi tu, chớ
nên chấp Lý bỏ Sự. Nếu chấp vào một bên, cả Lý lẫn Sự cùng mất. Như người biết
ý căn nhạy bén nhất bèn bỏ cả ngũ căn thì ý căn cũng chẳng thể do đâu tồn tại
được. Chỉ nên dùng Sự để hiển Lý, dùng Lý dung hội Sự thì mới chẳng sai lầm. Vì
vậy, mới nói yếu chỉ của Tịnh Độ là “toàn
Sự tức Lý”. Lý - Sự viên dung bèn khế hợp bổn thể. Tôi biết sư đã ăn no cơm
vua từ lâu[1], nhưng vẫn cứ miệt mài hiến lời hèn mọn, chẳng qua để
giãi bày tấc lòng thành của đứa con túng quẫn mong được trở về nhà, cũng như
mong rửa sạch cái tội báng pháp trước đây đó thôi![2]
* Người
thông minh đời nay tuy học Phật pháp, nhưng chưa thân cận khắp các thiện tri
thức, đa phần chuyên trọng lý tánh, bài bác, vứt bỏ nhân quả và những chuyện tu
hành về mặt Sự. Đã bác Sự Tu, nhân quả, thì lý tánh cũng mất. Bởi thế, thường
có hạng tài cao, ngôn từ kinh động cả quỷ thần, nhưng xét đến hành vi lại chẳng
khác gì bọn vô tri vô thức đầu đường xó chợ. Gốc bệnh đều là do bác Sự Tu và
nhân quả gây ra cả, khiến cho bậc thượng trí uổng công sanh lòng thương xót, kẻ
hạ ngu bắt chước làm càn theo. Ấy là dùng thân mình để báng pháp, tội lỗi vô
lượng.
* Biết
chẳng khó, làm được mới khó. Đời có hạng người rỗng tuếch, nghe được lý “tâm, Phật, chúng sanh cả ba không sai biệt”,
hoặc do duyệt kinh sách bên Giáo, tham Thiền, ngộ được lý này, liền cho rằng
mình giống như Phật, cần gì phải tu, phải chứng, bèn phóng túng tâm ý, đối với
hết thảy cảnh duyên lầm lạc bảo: “Sáu trần chính là Giác, tham, sân, si chính
là Giới, Định, Huệ, cần gì phải chế tâm nhiếp thân, không dây mà tự trói mình?”
Thứ kiến giải này hèn kém nhất; nghĩa là chấp Lý phế Sự, bài bác không nhân
quả, có khác gì dùng bánh vẽ để khỏi đói, cất nhà trên không, tự mình lầm,
khiến người khác lầm, há chẳng phải là tội lỗi cực điểm hay sao? Dùng thiện
nhân chuốc lấy quả ác, tam thế chư Phật gọi kẻ ấy là “kẻ đáng thương xót” vậy!
* Người
đời nay phần nhiều ưa bàn suông, chẳng chuộng thật sự tu tập. Khuyên tu Tịnh
nghiệp, hiển nhiên là nên tu cả Sự lẫn Lý, nhưng phải đặt nặng việc tu về mặt
Sự để làm phương cách tu trì. Vì sao vậy? Do đối với người hiểu rõ Lý thì toàn
Sự tức Lý, suốt ngày Sự Trì chính là suốt ngày Lý Trì. Nếu chưa thể hiểu thật rõ
về Sự và Lý, vừa nghe nói đến Lý Trì liền biết nghĩa ấy thâm diệu, rất hợp với
cái tính lười nhác, biếng trễ, sợ phải trì niệm nhọc nhằn của mình, bèn chấp Lý
phế Sự. Sự đã phế thì Lý cũng chỉ thành bàn suông mà thôi!
* Sự Trì
là tin có đức A Di Đà Phật ở Tây Phương, chưa thấu hiểu “tâm này làm Phật, tâm này là Phật”, nhưng cứ quyết chí nguyện cầu
vãng sanh như con nhớ mẹ, chẳng lúc nào tạm quên. Đấy là chưa đạt lý tánh,
nhưng cứ y theo Sự mà tu trì.
Lý Trì
là tin tâm ta sẵn có đức A Di Đà Phật ở Tây Phương, do tâm ta tạo. “Tâm sẵn có”
nghĩa là tâm vốn có đủ lý này. “Tâm tạo” là nương theo cái lý sẵn có ấy để khởi
tu thì lý ấy mới có thể hiển hiện được; vì thế, gọi là “tạo”. “Tâm sẵn có”
chính là lý thể, “tâm tạo” là sự tu. “Tâm sẵn có” chính là “tâm này là Phật”.
“Tâm tạo” chính là “tâm này làm Phật”.
“Tâm này
làm Phật” chính là xứng tánh khởi tu. “Tâm này
là Phật” chính là toàn tu tại tánh. Tu Đức hữu công, Tánh Đức mới hiển, dù ngộ
Lý, nhưng vẫn chẳng phế Sự thì mới là “chân tu”. Nếu không, sẽ đọa vào tri kiến
cuồng vọng chấp Lý phế Sự. Bởi thế, phần dưới mới viết: “Liền dùng hồng danh
tự tâm sẵn có, hồng danh do tâm tạo thành, để làm cảnh buộc tâm, hòng chẳng cho
tạm quên”.
Thứ giải
pháp này ngàn đời chưa từng có, thật là khế lý, khế cơ, Lý Sự viên dung, chẳng
phải bậc Pháp Thân Đại Sĩ dễ gì đạt tới được! Sự Trì dù chưa ngộ Lý, há nào
phải ra ngoài Lý, bất quá là hành nhân chưa thể viên ngộ tự tâm! Đã ngộ thì Sự
chính là Lý, nào có phải cái Lý được ngộ nằm ngoài Sự đâu! Lý chẳng lìa Sự, Sự
chẳng lìa Lý; Lý, Sự không hai; như thân và tâm con người đồng thời vận dụng cả
hai, trọn chẳng hề có chuyện thân và tâm tranh nhau hơn kém! Người thấu đạt dù
có muốn chẳng dung hợp cũng chẳng thể được. Tri kiến cuồng vọng, chấp Lý phế
Sự, sẽ chẳng thể dung hợp.
* Tâm
này trọn khắp, thường hằng như hư không. Chúng ta do mê nhiễm nên khởi các chấp
trước, ví như hư không do bị các vật ngăn chướng, nên chẳng thể trọn khắp,
chẳng thường hằng. Nhưng chẳng trọn khắp, chẳng thường hằng chỉ là vọng kiến
chấp trước, há có phải là hư không thật sự bị các vật ngăn chướng nên chẳng
trọn khắp, chẳng thường hằng ư? Vì thế, cái tâm phàm phu cùng với cái tâm bất
sanh bất diệt mà đức Như Lai đã chứng trọn chẳng khác gì.
Điều
khác biệt là do phàm phu mê nhiễm nên mới đến nỗi như thế, chứ chẳng phải là
tâm thể vốn có cải biến! Di Đà Tịnh Độ hoàn toàn nằm trong một niệm tâm tánh
của chúng ta, tâm ta vốn sẵn có A Di Đà Phật. Tâm ta sẵn có, nên đương nhiên
phải thường niệm. Đã thường niệm, ắt sẽ cảm ứng đạo giao, Tu Đức có công, Tánh
Đức mới hiển, Sự, Lý viên dung, chúng sanh và Phật chẳng khác! Vì thế nói:
“Dùng cái tâm sẵn có Phật của chính mình để niệm đức Phật sẵn có trong tâm ta,
lẽ nào đức Phật sẵn có trong tâm ta chẳng ứng với cái tâm sẵn có Phật ư?”.
* Những
điều Tông Môn dạy chuyên chỉ về lý tánh, chẳng luận về Sự Tu. Vì sao vậy? Muốn
cho con người trước hết biết đến cái lý “nhân quả, tu chứng, phàm thánh, chúng
sanh - Phật chẳng phân biệt”, để rồi y theo cái lý ấy mà bắt đầu tu nhân chứng
quả, siêu phàm nhập thánh, đấy chính là chuyện “chúng sanh thành tựu Phật đạo”
vậy!
* Luận
rạch ròi thì Phật pháp về đại thể chẳng ngoài Chân Đế và Tục Đế. Trong Chân Đế,
một pháp chẳng lập, như thường nói: “Thật Tế lý địa, chẳng dính mảy trần”.
Trong Tục Đế, không pháp nào chẳng đủ, như thường nói: “Trong cửa Phật sự,
chẳng bỏ một pháp”. Trong Giáo, xiển dương cả Tục lẫn Chân, nhưng phần
nhiều nói về Tục Đế. Bên Tông thì chính ngay nơi Tục nói về Chân, nhưng quét
sạch tướng Tục. Hãy nên biết: Chân và Tục đồng thể, hoàn toàn chẳng phải là hai
vật. Ví như tấm gương báu tròn lớn, rỗng sáng chiếu soi cùng tột, trọn chẳng có
một vật. Tuy trọn chẳng có một vật, nhưng nếu người Hồ đến, gương hiện bóng
người Hồ, người Hán đến, hiện bóng người Hán, sâm la vạn tượng cùng đến đều
cùng hiện. Dù bao tướng cùng hiện, vẫn trọn chẳng có một vật. Tuy trọn chẳng có
một vật, chẳng trở ngại các tướng cùng hiện. Nơi “các tướng cùng hiện” đó, nhà
Thiền chuyên nói “trọn chẳng có một vật”. Nơi “trọn chẳng có một vật” ấy, Giáo
dạy rõ “các tướng cùng hiện”. Như vậy, nơi Sự Tu nhà Thiền hiển rõ lý tánh,
chẳng bỏ Sự Tu. Nơi lý tánh, Giáo giảng Sự Tu quy về lý tánh. Đấy gọi là “xứng
tánh khởi tu, toàn tu tại tánh, bất biến tùy duyên, tùy duyên bất biến, Sự Lý
cùng đạt, Tông, Giáo bất nhị” vậy!
* Cái
gọi là Niệm Phật tam-muội nói tưởng dễ dàng, nhưng chứng đạt thật khó. Hãy nên
nhiếp tâm niệm thiết tha, lâu ngày sẽ tự đạt. Dù chẳng thể tự đạt, nhưng do
công đức của tín tâm chân thành, nguyện thiết tha, nhiếp tâm tịnh niệm, ắt sẽ
ngầm được Phật tiếp dẫn, đới nghiệp vãng sanh. Theo cách phán định của đại sư
Ngẫu Ích, đối với Sự Nhất Tâm, người tu hành còn chưa thể làm được, huống hồ Lý
Nhất Tâm? Phải đoạn Kiến Tư Hoặc thì mới gọi là Sự Nhất Tâm. Phá vô minh, chứng
pháp tánh gọi là Lý Nhất Tâm.
Nếu là
bậc “trong ngầm hạnh Bồ Tát, ngoài hiện
làm phàm phu” thì đối với hai loại Nhất Tâm này chẳng khó khăn gì. Nếu thật
sự là phàm phu đầy dẫy triền phược thì Sự Nhất Tâm còn chưa dễ được, huống hồ
là Lý Nhất Tâm ư? Hãy xem kỹ lá thư trao đổi rất dài giữa Quang tôi và vị cư sĩ
nọ ở Vĩnh Gia ắt sẽ biết rõ. Đến chừng nào ngộ Vô Sanh rồi, gìn giữ chắc chắn,
tiêu sạch các tập khí dư thừa, sẽ tự hiểu rõ điều ấy, cần gì phải hỏi trước?
Như người uống nước, nóng, lạnh tự biết. Nếu không dù người uống có nói đích
xác mười phần, người chưa uống rốt cuộc vẫn chẳng biết được mùi vị ra sao!
Có lẽ cư
sĩ thấy ngộ được Vô Sanh Nhẫn là chuyện dễ dàng, e tự mình ngộ rồi nhưng chưa
biết cách gìn giữ chắc chắn [cái ngộ ấy] ắt sẽ bị các tập khí thừa sót che lấp,
khiến cho sở ngộ lại bị mất đi, nên mới hỏi như vậy đó chăng? Chân Vô Sanh Nhẫn
quả thật chẳng phải là chuyện nhỏ đâu, đấy chính là “phá vô minh, chứng pháp
tánh”; tối thiểu phải là bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo, hoặc bậc Sơ Địa trong Biệt
Giáo [mới chứng được], nói sao dễ dàng thế? Mong ông hãy hành theo những điều
Quang đã nói trong Văn Sao, ắt sẽ hiểu duyên do của pháp môn Tịnh Độ, ắt Tín,
Nguyện, Hạnh sẽ chẳng bị những dị thuyết của hết thảy thiện tri thức đoạt mất.
Sau đấy, nếu còn sức thì chẳng ngại nghiên cứu thêm các kinh luận Đại Thừa để
mở mang trí thức, hòng làm căn cứ hoằng truyền Tịnh Độ. Như vậy, dù là phàm
phu, vẫn có thể tùy cơ lợi sanh, hành Bồ Tát đạo, đừng lầm mong cao xa, chỉ e
Sự Lý chẳng rành, khó tránh khỏi bị ma dựa. Lá thư dài gởi vị cư sĩ nọ ở Vĩnh
Gia chuyên trị chứng bệnh này. Bệnh cư sĩ ấy với bệnh của ông tên gọi khác
nhau, nhưng tánh chất giống hệt, nên Quang chẳng muốn nói nhiều.
Chỉ mong
ông nhờ lá thư ấy mà lãnh hội. Phải biết người sau khi đã ngộ, dù tu trì giống
hệt như người chưa ngộ, nhưng tâm niệm khác biệt. Người chưa ngộ Vô Sanh, cảnh
chưa xảy đến đã mong sẵn, cảnh hiện tiền bèn nắm níu, cảnh đã qua rồi vẫn nghĩ
nhớ. Người ngộ Vô Sanh thì cảnh tuy sanh diệt, tâm chẳng sanh diệt, giống hệt
như gương sáng, đến không dính, đi không tăm tích. Tâm ứng theo cảnh như gương
hiện bóng, trọn chẳng có mảy may ý niệm chấp trước, quyến luyến nào! Dù đối
cảnh vô tâm, vẫn sóng trào biển Hạnh, mây bủa cửa Từ. Đối với luân lý, cương
thường thế gian và việc thượng hoằng hạ hóa đều mỗi mỗi nghiêm túc thật sự thực
hành, dù táng thân mất mạng chẳng chịu vượt phạm. Đừng tưởng là đối cảnh vô tâm
rồi phế hết các sự tu trì tự lợi, lợi tha, thượng hoằng, hạ hóa. Nếu hiểu như
vậy, sẽ vướng sâu vào Không Ma, đọa vào Ngoan Không. Do đấy, bài bác “chẳng có
nhân quả”, buông lung làm càn, trở thành đem phàm lạm thánh, hoại loạn Phật
pháp, lầm lạc chúng sanh, tạo thành chủng tử A Tỳ địa ngục. Điều này có quan hệ
hết sức sâu xa, bất đắc dĩ Quang phải vì ông mà trình bày sơ lược sự lợi hại.
* Nếu
ước trên Thật Tế Lý Thể để luận, thì phàm, thánh, chúng sanh, Phật, nhân, quả,
tu, chứng đều chẳng thể được. Nếu luận trên phương diện pháp môn tu trì, thì
trên từ Như Lai đã thành Phật đạo, dưới đến chúng sanh trong A Tỳ, đều chẳng ra
ngoài nhân quả. Hiểu rõ lý tánh nhưng chẳng phế Sự Tu bèn là Chánh Tri. Chấp Lý
tánh phế Sự Tu, bèn thành tà kiến. Sai chỉ hào ly, lập thành địa ngục và Phật
quả khác biệt.
8.2. Luận về tâm tánh
* Tâm
vừa Tịch, vừa Chiếu, bất sanh, bất diệt, rộng lớn, thấu triệt, linh thông, viên
dung, hoạt bát, là gốc của hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian. Từ hạng
phàm phu đầy dẫy triền phược, hôn mê, điên đảo lầm lạc cho đến tam thế chư
Phật, tâm ấy vẫn hệt như nhau, trọn không có gì khác. Vì thế nói: “Tâm,
Phật, chúng sanh cả ba không sai biệt”.
Chỉ vì
chư Phật chứng đắc rốt ráo, nên công đức, lực dụng phô bày triệt để; phàm phu
toàn thể mê trái, lại còn áp dụng sức công đức lực dụng ấy vào sáu trần cảnh,
khởi tham, sân, si, tạo giết, trộm, dâm, do Hoặc tạo nghiệp, do nghiệp cảm khổ.
Ba thứ Hoặc, nghiệp, khổ phát khởi lẫn nhau, nhân nhân quả quả liên tiếp chẳng
dứt, trải trần sa kiếp chịu mãi luân hồi, dù muốn xuất ly cũng chẳng có cách
nào! Ví như trong nhà tối mò phải của báu, không chỉ chẳng thể thụ dụng, lại
còn bị của báu ấy gây tổn thương. Tâm mê chạy theo cảnh, quay lưng với Giác,
xuôi theo trần lao cũng giống như thế.
Như Lai
thương xót, dạy họ bỏ vọng về với chân, khôi phục tâm tánh mình. Thoạt đầu, dạy
“hết vọng là chân”, kế đó dạy “toàn thể vọng chính là chân”, như gió lặng, sóng
yên, nắng ấm, băng tan; sóng, băng trở thành nước. Sóng, băng cùng với nước há
có phải là hai vật; nhưng lúc sóng chưa yên, băng chưa tan, so với lúc sóng đã
lặng, băng đã tan, dù thể tánh trọn chẳng phải hai, Tướng và Dụng khác xa vời
vợi. Bởi thế mới nói: “Tu Đức hữu công, Tánh Đức mới hiển”. Nếu chỉ cậy
vào Tánh Đức, chẳng chú trọng Tu Đức thì đến tận đời vị lai cứ mãi mãi là chúng
sanh, luống uổng Phật tánh sẵn có, không có chỗ dựa nương! Vì thế, Bát Nhã Tâm
Kinh nói: “Lúc Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành sâu xa Bát Nhã Ba La Mật, soi
thấy Ngũ Uẩn đều không, vượt hết thảy khổ ách”.
Toàn thể
Ngũ Uẩn là Chân Như diệu tâm, nhưng do một bề mê muội, trái nghịch, bèn thành tướng
huyễn vọng. Vọng tướng đã thành, bèn lầm mất Nhất Tâm. Đã mê muội nơi Nhất Tâm,
các khổ đều nhóm lại. Như gió thổi, toàn thể nước trở thành sóng; trời lạnh,
nước mềm trở thành cứng. Dùng Bát Nhã thậm thâm để chiếu soi liền hiểu rõ: Mê
chân thành vọng, toàn vọng chính là chân; như gió lặng, trời ấm, nước lại trở
về bản thể. Vì thế biết rằng: Hết thảy các pháp đều do vọng tình biến hiện, nếu
lìa vọng tình thì bản thể của các pháp ấy hoàn toàn là Không. Bởi vậy, Tứ Đại
đều mất bổn tánh, lục căn dùng lẫn cho nhau. Do đó, Bồ Tát chẳng khởi Diệt
Định, hiện các oai nghi, dùng nhãn căn làm Phật sự của nhĩ căn, dùng nhĩ căn
làm Phật sự của nhãn căn, vào trong đất như vào nước, đi trong nước như đi trên
đất, nước lửa chẳng thể đốt cháy hay nhận chìm được, tùy ý đi, ngồi trên hư
không, cảnh không tự tánh, đều chuyển theo tâm.
Bởi vậy,
kinh Lăng Nghiêm nói: “Nếu có kẻ nào nhận chân, quy nguyên thì mười phương
hư không thảy đều tan mất”. Đấy chính là hiệu quả thật sự của việc “soi thấy Ngũ Uẩn đều không” vậy. “Quy” nghĩa là quay về, trở về, tức là ý
nghĩa phản chiếu hồi quang, khôi phục tâm tánh vốn có. Nhưng muốn phản chiếu
hồi quang khôi phục tâm tánh, nếu trước hết tâm chẳng quy hướng Tam Bảo, sẽ
chẳng thể y giáo phụng hành. Tâm đã quy hướng Tam Bảo, sẽ tự có thể khôi phục
nguồn tâm, triệt chứng Phật tánh. Đã khôi phục được nguồn tâm vốn sẵn có, triệt
chứng Phật tánh, mới biết tự tâm quý báu nhất, trong mê chẳng giảm, lúc ngộ
chẳng tăng. Chỉ vì thuận theo pháp tánh, nên có thể thụ dụng; trái lại, sẽ bị
tổn thương. Thế nhưng, tổn hại hay lợi ích cách biệt nhau một trời, một vực!
* Chúng
sanh là Phật chưa ngộ, Phật là chúng sanh đã ngộ. Bản thể tâm tánh của chúng
sanh và Phật bình đẳng, giống hệt như nhau, không hai, không khác; nhưng khổ,
vui, thụ dụng khác biệt như trời với đất là do xứng tánh thuận tu hay trái tánh
nghịch tu mà thành ra như thế. Lý này rất sâu, chẳng dễ tuyên nói. Để khỏi phí
lời [giãi bày], xin mượn ví dụ để minh thị:
Chư Phật
tu đức đến cùng cực, chứng ngộ triệt để Tánh Đức, giống như tấm gương báu tròn
lớn. Thể chất của gương là đồng[3]. Biết gương có tánh chất tỏa sáng, nên hằng ngày lau,
mài, ra sức chẳng ngơi. Bụi hết, gương tỏa sáng, dựng trên đài cao, vật nào soi
đến liền hiện bóng. Lớn như trời đất, nhỏ như hạt bụi, mảy lông, sâm la vạn
tượng đều hiện rành rành. Ngay trong lúc muôn vàn hình tượng cùng hiện ấy,
gương vẫn rỗng rang, trống trải, trọn chẳng có một vật nào.
Tâm chư
Phật cũng giống như vậy. Đoạn sạch phiền não, Hoặc nghiệp, hiển hiện trọn vẹn
trí huệ, đức tướng, an trụ trong Tịch Quang, đến cùng tận đời vị lai thường
hưởng pháp lạc, độ chín giới xuất ly sanh tử, cùng chứng Niết Bàn. Chúng sanh
hoàn toàn mê nơi Tánh Đức, trọn chẳng tu đức mảy may, ví như gương báu bụi phủ,
chẳng có mảy may quang minh nào, ngay cả chất đồng cũng bị teng đóng, nên quang
minh chẳng thể hiện. Tâm chúng sanh cũng giống như thế. Nếu biết tấm gương bị
bỏ phế chẳng hiện chất đồng này vốn có quang minh soi trời chiếu đất; do đấy,
chẳng chịu bỏ phế, ngày ngày lau chùi, mài bóng. Lúc đầu, gương hơi lộ chất
đồng, dần dà tỏa ánh quang minh, vẫn cực lực mài cho sạch; một ngày kia, teng
lẫn bụi hết sạch, tự nhiên hình tượng nào soi vào đều liền hiện bóng, soi trời,
chiếu đất. Gương vốn tự có quang minh ấy, chẳng phải từ bên ngoài vào, chẳng
phải do mài mà có; nhưng nếu chẳng mài, cũng không do cách nào mà có được!
Chúng
sanh bỏ trần xuôi theo tánh giác, bỏ vọng theo chân, cũng giống như thế. Phiền
Hoặc đoạn dần dần, trí huệ sẽ tăng dần dần. Đến khi công hạnh viên mãn, đoạn
được cái không thể đoạn, chứng được cái không thể chứng, viên mãn Bồ Đề, trở về
cái chẳng thể đạt được, thần thông, trí huệ, công đức, tướng hảo, trọn chẳng
khác gì với mười phương ba đời chư Phật. Dù là như vậy, cũng chỉ là khôi phục
cái chính mình sẵn có, chẳng phải là mới có. Nếu chỉ chấp nhận Tánh Đức, chẳng
khởi Tu Đức, ắt đến tận đời vị lai thường phải chịu nỗi khổ luân hồi sanh tử,
vĩnh viễn chẳng có ngày khôi phục cái gốc, trở về cội nguồn được!
* Hết
thảy chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng tâm hạnh, thụ dụng của Phật và chúng
sanh tuyệt đối chẳng tương đồng! Vì sao vậy? Vì Phật bỏ trần theo giác, chúng
sanh lại bỏ giác theo trần; Phật tánh dẫu đồng; mê, ngộ rất khác! Vì thế,
sướng, vui, thăng, trầm khác nhau một trời, một vực! Nếu quan sát kỹ nghĩa lý
“ba nhân Phật tánh”, ắt không mối nghi nào là chẳng phá được, không ai là chẳng
muốn tu tập! Ba nhân là chánh nhân, liễu nhân và duyên nhân.
Chánh
nhân Phật tánh chính là diệu tánh vốn sẵn có trong tâm ta, là Pháp Thân chân
thường do chư Phật đã chứng. Diệu tánh này tại phàm chẳng giảm, nơi thánh chẳng
tăng, trong sanh tử chẳng nhiễm, ở Niết Bàn chẳng tịnh. Chúng sanh triệt để mê
trái tánh này, chư Phật viên chứng rốt ráo. Mê, chứng tuy khác, tánh thường
bình đẳng.
Thứ hai
là liễu nhân Phật tánh, tức là chánh trí để phát sanh chánh nhân Phật tánh. Do
tri thức hoặc là do kinh giáo, nghe biết diệu nghĩa Chánh Nhân Phật Tánh bèn
liễu ngộ, biết do một niệm vô minh chướng lấp nguồn tâm, chẳng biết bản thể của
cảnh giới sáu trần vốn là Không, lầm tưởng là có thật, đến nỗi khởi tham, sân,
si, tạo giết, trộm, dâm, do Hoặc tạo nghiệp, do nghiệp chịu khổ, khiến cho
Chánh Nhân Phật Tánh ngược ngạo trở thành cái gốc để khởi Hoặc, tạo nghiệp,
chịu khổ. Từ đấy liễu ngộ, bèn muốn bỏ vọng về với chân, hòng mong khôi phục
bổn tánh.
Ba là
duyên nhân Phật tánh, tức là trợ duyên. Đã liễu ngộ, phải tu tập các thứ thiện
pháp, ngõ hầu tiêu trừ Hoặc nghiệp, tăng trưởng phước huệ, cốt sao tự chứng rốt
ráo cái lý sẵn có mà ta đã ngộ đó mới thôi!
Xin dùng
thí dụ để chỉ rõ: Chánh Nhân Phật Tánh như vàng trong quặng, như lửa trong gỗ,
như ánh sáng nơi gương, như mầm trong hạt, dù là sẵn có, nhưng nếu chẳng biết
đến, chẳng được các duyên như nung, luyện, khoét, dùi, mài, giũa, gieo trồng,
mưa đẫm... thì vàng, lửa, ánh sáng, mầm mộng vĩnh viễn chẳng khi nào phát sanh
được! Do vậy biết: Tuy có chánh nhân, nhưng nếu không duyên, trọn chẳng thể thụ
dụng được. Bởi thế, Phật thấy hết thảy chúng sanh đều là Phật, muốn độ thoát
họ; nhưng chúng sanh trọn chẳng liễu ngộ, chẳng chịu tu tập thiện pháp, đến nỗi
bao kiếp dài lâu luân hồi sanh tử, không thể thoát được. Do đó, Như Lai rộng
bày các phương tiện, tùy cơ chỉ bày, dẫn dắt, mong chúng sanh bỏ vọng theo
chân, bỏ trần theo giác.
* Cổ
nhân nói: “Sanh tử cũng lớn, há chẳng đau đớn ư?” Trộm bàn: Đã chẳng
biết nguyên do, dù có đau lòng cũng chẳng ích gì! Nên biết rằng: Hết thảy chúng
sanh theo nghiệp lưu chuyển, thọ sanh trong sáu đường, sanh chẳng biết từ đâu
đến, chết chẳng biết đi về đâu! Do nhân duyên tội hay phước mà sẽ thăng hay giáng,
xoay vần luân hồi, chẳng lúc nào xong. Như Lai thương xót, dạy nhân duyên “do Hoặc khởi nghiệp, do nghiệp cảm khổ” và
bản thể “thường, lạc, ngã, tịnh, tịch
chiếu viên dung” khiến cho chúng sanh hiểu rõ: Do vô minh, nên mới có thân
này. Vì thế, thân này hoàn toàn thuộc về huyễn vọng, không chỉ chẳng có Tứ Đại,
ngay cả Ngũ Uẩn cũng đều Không. Đã biết Ngũ Uẩn là Không thì Chân Như pháp tánh
và Thật Tướng diệu lý sẽ triệt để phô bày trọn vẹn.
* Do tùy
duyên, nên có tứ thánh, lục phàm, khổ, sướng, thăng, trầm khác xa nhau; nhưng
duyên có tịnh, nhiễm, nên phải tùy thuộc vào một [trong hai duyên ấy]. Tùy
thuộc nhiễm duyên, sẽ khởi Hoặc, tạo nghiệp, luân hồi sáu đường. Tùy thuộc tịnh
duyên, sẽ đoạn Hoặc chứng Chân, thường trụ Niết Bàn. Do Hoặc nghiệp có nặng và
nhẹ, nên có đường lành người, trời, đường thiện ác chen lẫn là A-tu-la, và ba
ác đạo súc sanh, địa ngục, ngạ quỷ. Do Hoặc khởi Hoặc, do nghiệp tạo nghiệp,
hoặc thiện, hoặc ác, trọn chẳng có tướng nhất định, cho nên chỗ phải sanh về sẽ
lần lượt thay đổi như bánh xe xoay tít chẳng có đầu mối, chợt lên, chợt xuống.
Đã có đủ phiền hoặc, sẽ đều bị nghiệp buộc ràng, theo nghiệp thọ sanh, chẳng
thể tự làm chủ được!
Do đoạn
chứng (đoạn Hoặc, chứng Chân) có sâu
hay cạn, nên người đoạn Kiến Tư Hoặc sẽ chứng quả Thanh Văn, người trừ tập khí
sẽ chứng quả Duyên Giác, bậc phá vô minh sẽ chứng quả Bồ Tát. Nếu trừ sạch vô
minh, phước huệ viên mãn, công tu đức đến cùng cực, Tánh Đức phô bày trọn vẹn
sẽ chứng Phật Quả. Chứng Phật Quả bất quá chỉ là chứng rốt ráo, triệt để những
công đức, lực dụng sẵn có trong tâm tánh ngay khi còn thuộc địa vị phàm phu,
nay thụ dụng toàn thể những công đức, lực dụng ấy mà thôi, chứ chẳng thêm mảy
may gì vào cái tâm tánh ban đầu ấy cả! Như Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, tuy
sở chứng cao, thấp bất đồng, nhưng đều chưa thể thụ dụng trọn vẹn những công
đức sẵn có nơi tánh. Thế nhưng hết thảy phàm phu lại hướng sức lực chẳng thể
nghĩ bàn của tâm tánh ấy vào sáu trần cảnh, khởi tham, sân, si, tạo giết, trộm,
dâm, đến nỗi đọa vào ba ác đạo, trầm luân bao kiếp, ai nấy đều là như thế,
chẳng đáng buồn ư?
* Trước
không khởi đầu, sau không kết thúc, dù chứa đựng cả thái hư, vẫn chẳng thể lọt
ra ngoài, dù nằm lọt trong vi trần, cũng chẳng thể lọt vào trong, thanh tịnh,
sáng, sạch, trạm tịch, thường hằng, chẳng sanh, chẳng diệt, lìa tướng, lìa
danh, là có, nhưng chẳng phải có, là không, nhưng chẳng phải không. Đấy là Chân
Tánh.
Xét ra,
cái thân địa, thủy, hỏa, phong chỉ là gân, xương, máu, thịt chứa nhóm, vừa mới
sanh liền diệt, vừa tươi tốt đã tàn úa. Các xương, đốt chống đỡ như kết gỗ làm
nhà, một tấm da phủ ra ngoài như tô bùn trát vách. Bên trong toàn là phân tiểu,
máu mủ, mặt ngoài là cáu ghét (hờm), mồ hôi, lông, tóc, giòi tửa lúc nhúc, chấy
rận như sao trời, giả gọi là Người, há tồn tại cái Ngã! Lại dùng những thứ mình
sẵn có là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý để bươn bả trong rừng gai góc sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp. Do đó, khởi vô minh tham, sân, si, diệt mất chánh
trí Giới, Định, Huệ. Ngũ Uẩn vốn không, há có ai chịu một phen quán chiếu. Sáu
trần vô tánh, người người cho là thật, đến nỗi vạn khổ cùng tụ tập, cứ lầm mãi
tánh linh với vọng tâm và huyễn thân. Đúng như kinh Viên Giác nói: “Hết thảy
chúng sanh bao thứ điên đảo, nhận lầm Tứ Đại là thân tướng của chính mình, nhận
lầm duyên ảnh của Lục Trần là tâm tướng của mình”.
8.3. Luận về ngộ chứng
* Từ
xưa, cao tăng hoặc cổ Phật tái sanh, hoặc Bồ Tát thị hiện, đều thường hiện thân
làm phàm phu, trọn chẳng hề nói “ta là Phật, ta là Bồ Tát”. Vì thế, kinh Lăng
Nghiêm nói: “Sau khi ta diệt độ, ta truyền các Bồ Tát và các A La Hán, ứng
thân sanh trong thời Mạt pháp, hiện các thứ thân để độ những kẻ đang luân
chuyển, nhưng trọn chẳng tự bảo mình thật sự là Bồ Tát hay A La Hán, tiết lộ
nhân duyên bí mật của Phật, chỉ thường nhún nhường nói mình là kẻ mạt học”. Chỉ
trừ lúc lâm chung, bèn ngầm để lại lời phó chúc.
Trí Giả
Đại Sư thật sự là hóa thân của Phật Thích Ca, đến lúc lâm chung, có người hỏi
Ngài đã chứng đến địa vị nào. Ngài đáp: “Nếu tôi chẳng lãnh chúng, ắt sẽ
tịnh sáu căn, vì tổn mình lợi người, nên chỉ đạt được Ngũ Phẩm. Do vậy, vẫn còn
thuộc địa vị phàm phu!”. Ngũ Phẩm tức là địa vị Quán Hạnh trong Viên Giáo,
sở ngộ bằng với chư Phật, đã chế phục hoàn toàn ngũ trụ phiền não, nhưng vẫn
chưa thể đoạn Kiến Hoặc. Ngài Trí Giả lúc lâm chung còn chẳng hé lộ sở chứng
thật sự, vì để khích lệ kẻ hậu học hãy gắng chí tinh tu, chẳng đến nỗi được
chút ít đã cho là đủ, hoặc còn là phàm phu mà đã lạm xưng là thánh!
Nay bè
lũ ma khoe xằng chính mình đắc đạo, hoại loạn Phật pháp, lầm lạc chúng sanh, là
kẻ đại vọng ngữ. Cái tội đại vọng ngữ đó nặng hơn tội Ngũ Nghịch, Thập Ác trăm
ngàn vạn ức lần. Thầy trò chúng nó sẽ đọa mãi trong địa ngục A Tỳ trải qua Phật
sát vi trần số kiếp[4], luôn chịu khổ cùng cực, không cách nào thoát khỏi. Sao
đành vì hư danh, lợi lạc phù phiếm một thời, để phải chịu hình phạt thảm khốc
dài cả kiếp? Danh lợi làm con người lầm lạc đến nỗi như thế đấy!
* Niệm
Phật, xem kinh, ngộ lý Nhị Không, chứng pháp Thật Tướng là ước trên phương diện
tự tỉnh ngộ tu trì để dạy về nhân hiện tại, quả mai sau. Chớ nên càn rỡ, tự
đắc, bảo là ngay trong đời này, sẽ đạt được như thế. Chứng Thật Tướng ngay
trong đời này chẳng phải là không có người làm được, chỉ e hiền khiết[5] không có căn lành ấy! Nếu chẳng trình bày rõ nguyên do,
e rằng ông sẽ lầm mong chứng thánh, chí cao, nhưng hạnh chẳng xứng, lâu ngày ắt
sẽ mất trí đâm cuồng, chưa đắc bảo đã đắc, chưa chứng bảo đã chứng, cầu thăng
hóa đọa, biến khéo thành vụng. Xét đến kết quả, khó tránh chìm đắm mãi mãi
trong nẻo ác; không chỉ mai một tánh linh của chính mình, mà thật sự còn cô phụ
Phật ân nữa!
Đối với
hai thứ Không Lý, nếu chỉ luận về ngộ thì hàng phàm phu lợi căn cũng ngộ được.
Như những người thuộc vào địa vị Danh Tự của Viên Giáo, tuy chẳng thể chế phục
mảy may ngũ trụ phiền não, nhưng sở ngộ của họ và sở ngộ của chư Phật không
hai, không khác (Ngũ trụ: Kiến Hoặc là
một trụ, Tư Hoặc gồm ba trụ. Trần Sa Hoặc và Vô Minh Hoặc gộp thành một trụ).
Nếu nói theo nhà Thiền, những kẻ ấy gọi là bậc đại triệt đại ngộ; nếu nói theo
bên Giáo sẽ là “đại khai viên giải”. [“Đại triệt đại ngộ”] chẳng phải là chỉ
hiểu loáng thoáng mơ hồ đâu nhé! Như Bàng cư sĩ (Bàng Long Uẩn) nghe Mã Tổ bảo: “Đợi khi nào ông một hơi uống
cạn nước Tây Giang, ta sẽ nói cho ông hay” liền đốn vong huyền giải. Ngài
Đại Huệ Cảo nghe ngài Viên Ngộ bảo: “Gió nồm từ Nam thổi, điện gác mát mẻ
sao!” cũng ngộ như thế. Tổ Trí Giả tụng kinh Pháp Hoa đến câu “gọi là
chân tinh tấn, là chân pháp để cúng dường Như Lai” của phẩm Dược Vương Bổn
Sự liền hoát nhiên đại ngộ, lặng lẽ nhập định, tận mắt thấy một hội Linh Sơn
nghiễm nhiên chưa tan. Ngộ như thế mới gọi là “đại triệt đại ngộ, đại khai viên giải!”.
Nếu nói
về pháp để chứng Thật Tướng thì hàng phàm phu sát đất chẳng thể làm được. Nam
Nhạc Tư đại thiền sư là Đắc Pháp Sư[6] của ngài Trí Giả, có đại trí huệ, có đại thần thông, lúc
lâm chung, có người hỏi đến sở chứng, Ngài bảo: “Tôi lúc đầu mong đạt được
Đồng Luân, nhưng do lãnh chúng quá sớm, nên chỉ đạt được Thiết Luân mà thôi!”
(Đồng Luân tức là Thập Trụ, phá một phần
vô minh, vừa mới dự vào Thật Báo Tịnh Độ, chứng được một phần Tịch Quang Tịnh
Độ. Bậc Sơ Trụ có thể hiện thân làm Phật giáo hóa chúng sanh trong một trăm tam
thiên đại thiên thế giới. Nhị Trụ giáo hóa được một ngàn, Tam Trụ giáo hóa bốn
ngàn. Mỗi địa vị cứ gấp mấy chục lần hơn. Thiết Luân tức là địa vị thứ mười
trong Thập Tín. Sơ Tín đoạn Kiến Hoặc, Thất Tín đoạn Tư Hoặc, Bát, Cửu, Thập
Tín phá được Trần Sa, chế phục vô minh. Ngài Nam Nhạc Huệ Tư thị hiện chỉ chứng
được ngôi thứ mười trong Thập Tín, tức là vẫn chưa chứng được pháp Thật Tướng.
Phá một phẩm vô minh liền chứng Sơ Trụ, mới được gọi là chứng pháp Thật Tướng).
Trí Giả
đại sư là hóa thân của Phật Thích Ca. Lâm chung có người hỏi: “Chưa rõ đại sư
đã chứng nhập địa vị nào?” Ngài đáp: “Nếu ta chẳng lãnh chúng, ắt sẽ tịnh
được sáu căn (tức là nếu ngài không thâu nạp, giáo hóa đồ chúng, Ngài sẽ
chứng được Thập Tín, sáu căn thanh tịnh như trong phẩm Pháp Sư Công Đức kinh
Pháp Hoa đã nói). Do tổn mình lợi người, nên chỉ chứng được Ngũ Phẩm” (Ngũ Phẩm tức là địa vị Quán Hạnh, chế
phục trọn vẹn Ngũ Trụ Hoặc, nhưng vẫn chưa đoạn được Kiến Hoặc).
Ngẫu Ích
đại sư lâm chung có bài kệ như sau:
Danh tự
vị trung chân Phật nhãn,
Vị tri tất cánh phó hà nhân.
(Phật
nhãn hãy còn nơi danh tự,
Giao ai
rốt cuộc biết đâu là!)
(Người thuộc về địa vị danh tự đã viên ngộ Tạng Tánh
giống như chư Phật, nhưng chưa thể chế phục Kiến Hoặc, huống hồ là đoạn nổi!
Thân phận những bậc đại triệt đại ngộ trong đời Mạt phần đông giống như vậy.
Tạng Tánh chính là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh, là tên gọi khác của pháp
Thật Tướng).
Ngẫu Ích
đại sư thị hiện chỉ chứng địa vị Danh Tự, ngài Trí Giả thị hiện chỉ chứng Ngũ
Phẩm, ngài Nam Nhạc thị hiện chỉ chứng Thập Tín. Tuy bổn địa của ba vị đại sư
đều chẳng thể suy lường được, nhưng các Ngài thị hiện chỉ chứng ba địa vị Danh
Tự, Quán Hạnh, Tương Tự, đủ thấy Thật Tướng chẳng dễ chứng. Vì kẻ hậu tấn khó
thể vượt hơn các Ngài được, chỉ e chúng nó chưa chứng đã bảo là chứng, nên các
Ngài lấy thân mình thuyết pháp, ngõ hầu người đời sau tự biết hổ thẹn, chẳng
dám làm xằng đó thôi! Ân thị hiện địa vị sở chứng vào lúc sau cùng của ba vị
đại sư đúng là nghiền xương, nát thân khó thể báo đáp! Ông hãy tự suy gẫm xem
chính mình thật sự có vượt trỗi ba vị đại sư ấy hay chăng?
Còn như
cho rằng: “Niệm Phật, xem kinh, vun bồi căn lành, sau khi vãng sanh Tây Phương,
thường hầu Phật Di Đà, cao dự hải hội, tùy theo công hạnh cạn hay sâu, ắt chứng
Thật Tướng sớm hay trễ” thì đấy là lời quyết định vô ngại, là điều hết thảy
những người vãng sanh cùng chứng, cùng đắc vậy!
* Ngộ là
phân minh rành rành như mở cửa thấy núi, vẹt mây thấy trăng. Lại như người mắt
sáng đích thân thấy đường về nhà, cũng như kẻ nghèo đã lâu chợt mở toang kho
báu. Chứng là như theo đường về nhà, dừng chân ngồi yên, cũng như giữ lấy kho
báu ấy, tùy ý hưởng dùng. Phàm phu đại tâm cũng có thể liễu ngộ giống như chư
Phật, nhưng về mặt Chứng thì Sơ Địa còn chẳng thể biết chỗ giở chân, đặt chân
của bậc Nhị Địa. Hiểu được ý nghĩa Chứng và Ngộ rồi, tự nhiên sẽ chẳng khởi
lòng tăng thượng mạn, chẳng nẩy ý lui sụt, mà cái tâm cầu sanh Tịnh Độ dù một vạn
con trâu cũng chẳng kéo lui lại được!
* Trí
Giả đại sư được người đời xưng tụng là hóa thân của Phật Thích Ca. Chẳng ai
biết được sở chứng của Ngài, nhưng Phật hiện thân tạo pháp tắc cho chúng sanh.
Vì thế, đại sư thị hiện vẫn thuộc địa vị phàm phu, bảo: “Nếu ta chẳng lãnh
chúng, ắt sẽ tịnh được sáu căn”. Ngài dùng chính thân mình để răn người,
hiện thân thuyết pháp. Thoạt đầu, đại sư mong đoạn Hoặc chứng Chân, đạt thẳng
lên Thập Địa hay Đẳng Giác. Do phải hoằng pháp lợi sanh, bỏ lỡ công phu Thiền
Định của chính mình, nên chỉ chứng địa vị Ngũ Phẩm Quán Hạnh trong Viên Giáo mà
thôi! Vì thế, Ngài nói: “Do tổn mình lợi người, nên chỉ đạt được Ngũ Phẩm”.
Ngũ Phẩm
là năm môn tùy hỷ, đọc tụng, giảng nói, kiêm hành Lục Độ và chánh hành Lục Độ.
Địa vị Ngũ Phẩm trong Viên Giáo viên ngộ Tạng tánh (Tạng tánh là Thật Tướng diệu lý, khi còn triền phược (“tại triền”)
gọi là Như Lai Tạng Tánh. Lúc thoát được triền phược, bèn gọi là Tịnh Pháp
Thân. Nói chung, vì chưa đoạn vô minh, nên gọi là Triền) giống hệt sở ngộ
của Phật, trọn chẳng khác gì. Đã chế phục trọn vẹn Kiến, Tư, Trần Sa, Vô Minh,
Phiền Não, nhưng chưa thể đoạn Kiến Hoặc. Nếu đoạn Kiến Hoặc, liền chứng Sơ
Tín. Đạt đến địa vị Thất Tín thì mới đoạn sạch Tư Hoặc, thật sự chứng “lục căn tùy ý, chẳng nhiễm sáu trần”.
Vì thế, gọi là địa vị “lục căn thanh tịnh”.
Đã thế,
trong mỗi một căn, lại có đủ công đức của sáu căn, làm Phật sự của sáu căn. Do
vậy, còn gọi là “lục căn hỗ dụng” (sáu căn dùng lẫn nhau) như trong phẩm
Pháp Sư Công Đức của kinh Pháp Hoa đã nói. Ngài Nam Nhạc thị hiện chứng địa vị
này. Người thuộc vào địa vị này không chỉ có đại trí huệ, lại còn có đại thần
thông, thần thông của Tiểu Thừa A La Hán chẳng thể sánh bằng. Vì thế, ngài Nam
Nhạc lúc sanh tiền cũng như sau khi tịch luôn có những sự chẳng thể nghĩ bàn
khiến cho kẻ thấy hoặc nghe phát khởi tín tâm.
Nam
Nhạc, Trí Giả đều là bậc Pháp Thân Đại Sĩ, địa vị thực chứng của các Ngài có ai
dò được mức cao sâu! Chẳng qua, các Ngài muốn cổ vũ hậu thế chuyên tinh học
đạo, nên mới chịu khuất lấp như thế, há có phải các Ngài thật sự chỉ chứng địa
vị Thập Tín Tương Tự hay Ngũ Phẩm Quán Hạnh! Lũ phàm phu sát đất chúng ta há
kham học đòi các Ngài được ư? Hãy nên ưa thô trì trọng giới[7], nhất tâm niệm Phật, kiêm tu các điều lành thế gian để
làm trợ hạnh, noi theo pháp của các vị Vĩnh Minh, Liên Trì để hành thì không ai
là chẳng được lợi!
* Các
tông tu trì Phật pháp phải đến mức “hạnh
khởi, giải tuyệt” thì mới được lợi ích thật sự; chỉ riêng Tịnh Tông chẳng
tu quán như thế. Nhà Thiền đem một câu thoại đầu hoàn toàn vô nghĩa đặt vào
trong tâm, coi như bổn mạng nguyên thần, chẳng kể năm tháng, suốt ngày tham cứu
cho đến khi nào cả thân tâm lẫn thế giới đều chẳng biết đến nữa, mới hòng đại
triệt đại ngộ; chẳng phải là hạnh khởi giải tuyệt hay sao? Lục Tổ nói: “Chỉ
xem kinh Kim Cang, liền có thể minh tâm kiến tánh”, đấy chẳng phải là hạnh
khởi giải tuyệt ư? Theo ngu ý, chữ Khởi nên hiểu là Cực, tức là tận lực đến
cùng cực, mới hòng đạt đến cả Năng lẫn Sở cùng mất, nhất tâm được phô bày triệt
để. Nếu hạnh chưa đến mức cùng cực, dù có quán niệm, vẫn còn có Năng, có Sở,
vẫn hoàn toàn là xử sự bằng phàm tình, hoàn toàn là tri kiến phân biệt, hoàn
toàn là tri giải, làm sao đạt lợi ích chân thật cho được? Phải tận sức đến cùng
cực thì Năng, Sở, tình kiến mới tiêu diệt, chân tâm vốn có mới phát hiện. Bởi
thế, thuở xưa có kẻ ngây ngô, về sau chứng đạo phong, rạng rỡ cổ kim. [Muốn tu
hành đạt được] lợi ích, [phải] hoàn toàn [chú trọng] nơi một chữ Cực vậy!
* Người
khéo đạt lợi ích thì không gì là chẳng hữu ích, người cam chịu tổn mình sẽ
chẳng bị tổn hại gì cả. Người đời nay hay dùng Thế Trí Biện Thông để làm cái
vốn nghiên cứu Phật học; vừa biết được chút nghĩa lý đã bảo mình chứng đắc. Từ
đấy, tự nghĩ mình cao quý, miệt thị cổ kim. Đừng nói là người hiện đại chẳng
đáng để vào mắt, ngay cả những bậc cao tăng từ một ngàn mấy trăm năm trước (đa phần là cổ Phật tái lai, hoặc Pháp Thân
Bồ Tát thị hiện) đều bị họ coi tuốt là hạng tầm thường, chẳng đáng để noi
theo! Chưa đắc bảo đã đắc, chưa chứng khoe đã chứng. Nghe lời họ nói cao chót
vót chín tầng trời, xét tâm họ thấp chủn dưới chín tầng đất! Tập nhiễm như thế
hãy nên quyết liệt trừ khử. Nếu không, khác nào Đề Hồ đựng trong chén độc, giết
người chết tươi!
Nếu có
thể niệm niệm quay lại xem xét tự tâm, không chỉ sẽ được lợi ích nơi các pháp
do đức Như Lai đã giảng, mà ngay cả phiến đá, hòn sỏi tầm thường, chiếc đèn
lồng, cây cột, tất cả những hình sắc, thanh âm trong đại địa, không thứ gì
chẳng phải là diệu lý Thật Tướng Đệ Nhất Nghĩa Đế! Bởi thế mới nói: “Xưa nay
chưa có ai, sao từng mộng thấy được?” Xin hãy tin chắc, gắng sức thực hành.
* Những
điều lệnh thân[8] được thấy thật là hy hữu, lạ lùng,
có thể nói là có thiện căn từ xưa, nhưng phải ra sức gắng công tu trì
thì giấc mộng ấy mới chẳng bị uổng phí. Nếu như vì tri kiến phàm phu, lầm tưởng
chính mình đã được Tam Bảo gia bị, đã dự vào dòng thánh, rồi sanh đại ngã mạn,
chưa đắc bảo đã đắc, chưa chứng bảo đã chứng, sẽ thành ra do nhân lành chuốc
lấy quả ác. Người đời mạt tâm trí hèn kém thường mắc phải căn bệnh ấy. Câu kinh
Lăng Nghiêm: “Chẳng nghĩ là thánh tâm thì gọi là cảnh giới lành, nếu cho là
thánh giải sẽ vướng quần tà” chính là nói về tình trạng này. Xin hãy lấy
việc tận lực tu trì pháp môn Tịnh Độ để tự khích lệ mình, ngõ hầu tương lai quyết
định được hưởng đại lợi ích!
* Niệm
Phật chú trọng vãng sanh, niệm đến cùng cực thì cũng có thể minh tâm kiến tánh,
chẳng phải là niệm Phật hoàn toàn chẳng ích lợi gì cho đời hiện tại! Xưa kia,
ngài Minh Giáo Tung Thiền Sư[9], nhật khóa niệm mười vạn lần thánh hiệu Quán Thế Âm, sau
này mọi kinh sách thế gian Ngài không đọc nhưng đều biết. Cứ xem Tịnh Độ Thập
Yếu và Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, ắt sẽ biết niệm Phật mầu nhiệm, Quang tôi đã
nhắc đến nhiều lần trong cuốn Văn Sao hủ lậu của mình. Cư sĩ bảo “niệm Phật vô
ích đối với đời này” thì không chỉ chưa thâm hiểu các kinh luận Tịnh Độ, mà ngay
cả với cuốn Văn Sao của Quang cũng chỉ cưỡi ngựa xem hoa, chưa đọc hiểu thật kỹ
vậy!
* Tuy
Tịch Quang Tịnh Độ là “đương xứ tức thị”[10], nhưng nếu chẳng là bậc trí đoạn rốt ráo, viên chứng
Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na, sẽ chẳng thể triệt để chứng ngộ, đích thân thụ dụng
được! Bốn mươi mốt địa vị gồm Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa,
Đẳng Giác trong Viên Giáo vẫn còn là “phần chứng” (chứng nhập được ít phần). Nếu ông đã viên chứng được Pháp Thân Tỳ
Lô Giá Na, nói “đương xứ tức thị Tịch
Quang” cũng chẳng ngại gì. Nếu không, chỉ là kể tên món ăn, đếm của báu,
chẳng khỏi bị đói rét đến chết mà thôi!
8.4. Luận về Tông, Giáo
* Những
giảng sư đời Mạt thường thích giảng Thiền, đến nỗi thính chúng đa số chấp vào
những câu công án. Trộm nghĩ: Những câu cơ phong chuyển ngữ (thoại đầu, công án) trong nhà Thiền
tuyệt đối chẳng có ý nghĩa gì, chỉ nhằm đáp ứng căn cơ của người đến hỏi hòng
chỉ nẻo hướng thượng. [Những câu chuyển ngữ] ấy chỉ nên để tham cứu, sao lại
giảng nói? Giảng kinh như vậy chỉ những bậc đại sĩ siêu phàm mới hưởng lợi ích,
còn những những hạng trung hạ khác đều mắc bệnh hết. Đối với Tông, chẳng biết
tận lực tham cứu những câu cơ phong chuyển ngữ, chỉ lo phỏng đoán ý nghĩa. Với
Giáo, do thật lý, thật sự há có phải là cảnh giới của mình, bèn lầm tưởng
[Phật, Tổ] nói thí dụ để giảng pháp. Đem Tông phá Giáo, dùng Giáo phá Tông, cái
tệ nạn lưu hành này không còn gì tệ hơn được nữa!
* Từ
ngài Tào Khê (Lục Tổ Huệ Năng) về
sau, đạo Thiền lưu truyền rộng rãi; mối văn tự “chẳng lập văn tự” phổ biến khắp hoàn vũ. Đường giải thuyết ngày
càng mở rộng, cửa chứng ngộ ngày càng bế tắc! Vì thế, các tổ Nam Nhạc, Thanh
Nguyên đều dùng cơ phong chuyển ngữ để độ người, khiến cho Phật, Tổ trở thành
ngôn ngữ suông, không có cách nào đáp được lời các Ngài hỏi. Nếu chẳng phải
thật sự là căn cơ tương xứng, sẽ chẳng thể hiểu lời ấy. Dùng cách ấy để xét
nghiệm, khiến vàng, thau rạch ròi, ngọc, đá rành rành, không còn cách nào giả
trá, ngăn trở đạo pháp. Đấy chính là duyên do của cơ phong chuyển ngữ.
Từ đấy
về sau, pháp này ngày càng thịnh hành, được các tri thức đề cao, chỉ e lạc vào
lối mòn của người khác, trở thành khuôn sáo cũ kỹ, khiến người học nghi ngờ,
lầm lạc, hoại loạn Tông phong, nên cơ phong chuyển ngữ ngày càng cao tột, vô
phương chuyển biến, để người khác (người
căn cơ không phù hợp) chẳng biết đâu mà mò. Bởi thế, mới có những câu nói
trách Phật, quở Tổ, bài xích kinh giáo, bác bỏ Tịnh Độ! (Tác dụng như thế, hai câu của Nam Nhạc Huệ Tư đại sư đã nói sạch:
“Siêu quần xuất chúng thái huyền hư, chỉ vật truyền tâm nhân bất hội” (Siêu
quần, xuất chúng quá hư huyền, chỉ vật truyền tâm người chẳng hiểu). Ngỡ những
lời ấy là thật pháp, sẽ có tội giống như Ngũ Nghịch). Những lời lẽ ấy nhằm
cưỡng đoạt tình kiến, bít chặt sự biện giải của người nghe. Người căn thuần sẽ
nhờ ngay đó biết đường trở về, triệt ngộ hướng thượng; người căn cơ chưa thuần
sẽ chân thành, tận lực tham cứu, quyết đạt đến đại triệt, đại ngộ mới thôi. Ấy
là vì tri thức còn nhiều, căn tánh con người vẫn còn thông lợi, hiểu rành rẽ
giáo lý, tâm sanh tử khẩn thiết, dù chưa thể liễu ngộ ngay, cũng chẳng nảy lòng
hèn kém, cho đó là thật pháp vậy!
* Hiện
tại, lắm kẻ mới đọc vài cuốn sách Nho, chẳng hiểu đạo lý thế gian, chưa hiểu
cùng tột giáo thừa, chẳng hiểu Phật pháp, vừa mới phát tâm, bèn gia nhập Tông
môn. Hàng tri thức chỉ vì duy trì môn đình, cũng học đòi cổ nhân xiển dương,
chẳng quản đạo pháp lợi hại thế nào. Người theo học chẳng phát khởi mối nghi
tình chân thật, đối với bất cứ điều nào cũng tưởng là thật pháp! Đối với những
câu khai thị của người hiện tại hoặc những câu chép trong sách của cổ nhân, có
kẻ bèn tự ý suy diễn nêu ra nghĩa lý, dù trọn chẳng ra khỏi việc giải thích ý
nghĩa theo mặt văn tự, nhưng cứ tự hào là triệt ngộ hướng thượng, việc tham học
đã hoàn tất rồi, liền dự ngay vào địa vị tri thức để dạy dỗ đàn hậu học, lập
riêng một môn đình. Cứ sợ người khác chê mình chẳng phải là bậc thông gia, bèn
cùng hoằng dương Thiền và Giảng (Giáo Hạ),
muốn được xưng tụng là “Tông Thuyết kiêm
thông”. Giảng về Tông thì khi giảng những lời chỉ quy hướng thượng của cổ
đức, rốt cuộc chỉ giảng nghĩa câu văn theo mặt văn tự. Khi giảng Giáo, cái đạo
tu nhân chứng quả của Như Lai bị họ ngược ngạo biến thành những thuyết “mượn
thí dụ để biểu thị pháp”. Dùng Giáo phá Tông, đem Tông phá Giáo, kẻ đui dẫn lũ
mù, kéo nhau vào lửa, đến nỗi bọn hậu bối chẳng được nghe gương sáng của tiền
bối, láo nháo bắt chước thầy khinh Phật, lờn Tổ, bài nhân, bác quả mà thôi!
* Giáo
độ khắp ba căn, thâu trọn lợi độn, ví như chiếu chỉ sáng suốt của vua thánh,
vạn quốc tôn sùng, trí, ngu, hiền, tệ đều cùng hiểu rõ, đều phải tuân hành. Nếu
kẻ nào chẳng tuân, sẽ bị xử cực hình. Nếu kẻ nào chẳng tuân lời Phật dạy, ắt sẽ
đọa trong ác đạo. Tông chỉ độ thượng căn, chẳng nhiếp trung căn, hạ căn; giống
như tướng quân nhận mật lệnh, người [thân cận] trong doanh mới biết, kẻ ngoài
doanh dù có trí huệ cũng chẳng hiểu được. Vì thế, mới có thể dùng toàn quân
diệt giặc, thiên hạ thái bình. Hễ quân lệnh bị tiết lộ, ba quân sẽ tan vỡ; Tổ
ấn bị tiết lộ, năm tông[11] chết tiêu. Kẻ chưa ngộ chỉ được phép tham cứu thoại đầu,
chẳng được xem đọc sách Thiền, thật ra chỉ là vì sợ kẻ ấy hiểu lầm ý Tổ, chấp
mê là ngộ, lấy giả rối chân. Đấy gọi là [Tổ ấn] bị tiết lộ, tai hại cực lớn.
* Về
nguồn không hai, phương tiện nhiều cửa. Phương tiện của nhà Thiền vượt ngoài
khuôn khổ, tựa hồ quét sạch hết thảy ngôn ngữ. Kẻ không lãnh hội được ý ấy,
chẳng hiểu ý chỉ rời lìa ngôn ngữ, chuyên nhai bã hèm, nên đối với Tông chỉ lo
suy diễn [ý Tổ], chẳng chịu tận lực tham cứu, đối với Giáo bèn lầm lạc học đòi
viên dung, phá hoại sự tướng! Chỉ có bậc đại đạt là được lợi ích cả nơi Tông
lẫn nơi Giáo. Nếu không, đề-hồ, cam lộ bị chứa trong bình độc, bèn thành tỳ
sương, trầm độc!
* Dù
trung căn, hạ căn, vẫn có thể được lợi ích nơi Giáo, nhưng nếu chẳng phải là
bậc thượng thượng căn, sẽ chẳng thể thông suốt Giáo để vận dụng. Dẫu kẻ trung,
hạ căn khó thể chuyên chí nơi Tông, nhưng bậc thượng căn lại có thể đại triệt
đại ngộ để hòng chứng nhập. Trong Giáo, phải thông đạt hết các pháp thế gian,
Phật pháp, Sự, Lý, Tánh, Tướng, lại còn phải đại khai viên giải (nhà Thiền gọi là đại triệt đại ngộ) thì
mới có thể làm đạo sư của cả trời lẫn người.
Trong
Tông, tham thấu suốt một câu thoại đầu, thấy được bổn lai, bèn có thể xiển
dương tông phong “trực chỉ”. Nếu nhằm lúc Phật giáo hưng khởi lớn lao và là bậc
thông đạt rộng rãi Phật pháp, hãy nên tham cứu theo nhà Thiền, giống như Tăng
Diêu vẽ rồng, hễ điểm nhãn, rồng liền bay lên ngay lập tức. Còn nhằm khi Phật
pháp suy vi, kẻ túc căn kém cỏi hãy nên tu trì theo Giáo. Ví như thợ vụng chế
đồ vật mà bỏ hết dây mực, rốt cuộc chẳng làm gì được cả!
* Nay
muốn báo ơn Phật, lợi lạc hữu tình thì nhà Thiền dù chuyên xiển dương tông
phong, vẫn phải dùng Giáo để ấn chứng; bên Giáo thì tận lực tu trì quán hạnh,
chẳng lạm bàn thiền ngữ. Ấy là vì tâm thông diệu đế, hễ gặp duyên liền thành
Tông. “Cây bách, que phân khô, quạ kêu,
sẻ hót, nước chảy, hoa nở, ho khạc, phẩy tay, cười chê, giận chửi”, pháp
nào pháp nấy đều là Tông cả. Lẽ nào diệu pháp viên đốn do chính kim khẩu đức
Như Lai nói ra chẳng đáng kể là Tông ư? Cần gì phải mượn cái thanh chống cửa
nhà người để chống đỡ cửa nẻo nhà mình! Trong nhà vốn sẵn gỗ Tiên, gỗ Nam, gỗ
long não, cớ sao vứt bỏ chẳng dùng? Hãy nên biết rằng: Pháp không có cao, hèn,
chỉ là nhất đạo thường nhiên, do căn cơ có sống hay chín nên tuy là một pháp mà
lợi ích khác biệt!
8.5. Luận về Trì Chú
* Một
pháp Trì Chú chỉ nên dùng làm Trợ Hạnh, chẳng nên lấy Trì Chú làm Chánh Hạnh,
coi Niệm Phật là pháp tu phụ! Dù pháp môn Trì Chú cũng chẳng thể nghĩ bàn,
nhưng phàm phu được vãng sanh hoàn toàn nhờ vào lòng tin chân thành, nguyện
thiết tha, cũng như do đại thệ nguyện của A Di Đà Phật cảm ứng đạo giao mà được
Ngài tiếp dẫn. Nếu chẳng hiểu lẽ này, dù pháp nào cũng đều chẳng thể nghĩ bàn,
tu bất cứ pháp nào mà chẳng được, nhưng vẫn trở thành “không Thiền, không
Tịnh Độ, giường sắt và cột đồng, vạn kiếp với muôn đời, không có ai nương dựa!”.
Nếu tự
biết chính mình là phàm phu đầy dẫy triền phược, toàn thân là nghiệp lực, nếu
chẳng cậy vào nguyện lực hoằng thệ của Như Lai, quyết khó thể chắc chắn thoát
khỏi luân hồi ngay trong đời này, ắt sẽ biết lực dụng của những giáo pháp đức
Phật đã dạy ra trong cả một đời đều chẳng thể bằng một pháp Tịnh Độ này.
Nếu trì
chú, tụng kinh để gieo trồng phước huệ, tiêu tội nghiệp thì được; nhưng nếu
vọng động mong cầu thần thông thì đúng là bỏ gốc theo ngọn, chẳng khéo dụng
tâm. Nếu tâm này cố kết, lại chẳng hiểu rõ lý, giới lực chẳng vững, Bồ Đề tâm
chẳng sanh, tâm nhân ngã càng thạnh, ắt chẳng mấy chốc sẽ bị ma dựa phát cuồng!
Phàm muốn được thần thông, phải đắc đạo trước đã! Hễ đắc đạo, liền tự có thần
thông. Nếu chẳng dốc sức vào đạo, chỉ mong cầu thần thông, đừng nói là chưa đắc
thần thông, dù có đắc cũng trở thành chướng đạo! Vì thế, chư Phật, chư Tổ thảy
đều nghiêm cấm, chẳng muốn người đời tu tập thần thông! Do trong đời thường có
những người có kiến giải như thế, nên tôi mới nhiều lần giãi bày như vậy!
* Chỉ
nên trì chú để trợ tu Tịnh nghiệp, đừng bộp chộp tác pháp, khinh nhờn Phật,
thánh. Nếu đường đột tác pháp, nhưng thân tâm chẳng cung kính, chẳng chí thành,
rất có thể ma sự sẽ khởi. Chỉ có một việc là nên tác pháp, nhưng đấy lại chẳng
phải là phận sự của các ông. Đó là: Nếu có ai phát tâm xuất gia, nhưng [thầy
thế độ] chưa chứng đạo, chẳng thể quán xét căn cơ, bèn cầu xin Phật rủ lòng Từ,
ngầm dạy cho biết người ấy xuất gia được hay không, hòng tránh khỏi tệ nạn hạng
đầu trộm đuôi cướp lộn sòng Tăng chúng. Nhưng ngày nay Tăng chúng thâu nạp đồ
đệ, cứ sợ chẳng thâu được nhiều, dù biết rõ kẻ đó là phường hạ lưu, vẫn cứ vội
vã thâu nạp, chỉ sợ nó bỏ đi mất, mấy ai chịu quyết trạch như thế nữa! Tham
danh lợi, ưa quyến thuộc đến nỗi Phật pháp ngập chìm sát đất, không có cách nào
hưng khởi được nữa!
* Người
niệm Phật cũng chẳng phải là không được trì chú, nhưng phải phân định rõ đâu là
Chánh, đâu là Trợ, thì Trợ cũng quy về Chánh. Nếu cứ lằng nhằng chẳng thể phân
biệt, coi giống hệt như nhau, Chánh cũng chẳng phải là Chánh nữa! Chú Chuẩn Đề,
chú Đại Bi, chẳng có chú nào hơn kém! Nếu tâm chí thành, pháp nào cũng linh.
Tâm chẳng chí thành, pháp nào cũng chẳng linh!
* Học
chú Vãng Sanh bằng [chánh âm] tiếng Phạn cũng là rất tốt, nhưng chẳng được sanh
tâm phân biệt, nghĩ chú văn lược dịch là sai. Hễ khởi tâm niệm ấy, sẽ sanh tâm
ngờ vực đối với hết thảy các chú chép trong Đại Tạng, cho là những chú ấy chẳng
hợp Phật ý. Phải biết rằng những vị dịch kinh đều chẳng phải tầm thường, sao
lại vì những bản dịch của họ không giống nhau mà sanh lòng miệt thị? Hơn một
ngàn năm, những người trì chú này được lợi ích chẳng thể kể xiết; chẳng lẽ mọi
người trì chú trong hơn một ngàn năm ấy đều chẳng biết tiếng Phạn hay sao? Học
thì đương nhiên phải học, tuyệt đối đừng khởi ý niệm ưu liệt, hơn kém thì lợi
ích sẽ chẳng thể nghĩ bàn.
Hơn nữa,
một pháp trì chú rất giống như pháp khán thoại đầu. Pháp khán thoại đầu dùng
một câu vô nghĩa để dứt trừ phân biệt phàm tình hòng chứng Chân Trí sẵn có.
Pháp trì chú chẳng cần hiểu nghĩa lý câu chú, cứ chí thành khẩn thiết mà trì,
dốc lòng thành đến cùng cực, tự được nghiệp tiêu, trí rạng, chướng tận, phước
cao, lợi ích chẳng thể nghĩ bàn được!
8.6. Luận về xuất gia
* Phật
pháp chính là pháp chung cho cả chín pháp giới, không một ai là chẳng nên tu
theo, cũng như không một ai chẳng thể tu! Người trì trai, niệm Phật thì nhiều,
nhưng tính đến những người có thể làm cho đạo pháp hưng long, phong tục thuần
thiện, chỉ sợ chẳng có mấy, [những người làm được như vậy] càng nhiều càng tốt.
Xuất gia làm Tăng chính là để gìn giữ cũng như lập bày phương cách lưu truyền
đạo pháp của Như Lai.
Có những
người lập chí hướng thượng, phát đại Bồ Đề, thấu triệt Phật pháp, triệt ngộ tự
tánh, hoằng dương tam học (Văn, Tư, Tu),
nhưng lại đặc biệt tán dương Tịnh Độ, ngõ hầu mau chóng thoát khỏi vòng khổ ải
ngay trong một đời, chỉ e số người này cũng chẳng được mấy ai, càng được nhiều
người như vậy càng tốt. Còn như những kẻ có chút tín tâm, chẳng có đại chí
hướng, muốn mượn danh nghĩa tăng sĩ, ăn không ngồi rồi, ăn bám nhà Phật, mang
danh con Phật, nhưng thật ra chỉ là gã trọc đầu, dẫu chẳng tạo ác nghiệp, cũng
đã là hạt giống hư, là phế nhân đối với đất nước. Nếu lại còn phá giới, tạo
nghiệp, điếm nhục Phật pháp, dù lúc sống trốn được quốc pháp, chết đi, chắc
chắn đọa vào địa ngục. Đối với pháp, đối với chính mình đều chẳng lợi ích. Một
gã như thế còn chẳng nên có, huống chi là nhiều!
Cổ nhân
bảo: “Xuất gia là việc của bậc đại trượng phu, chẳng phải là bậc quyền cao
chức trọng[12] có thể làm được”, đấy chính là lời chân thật, chẳng phải là lời hạ thấp
hạng quyền cao chức trọng để đề cao Tăng-già đâu nhé! Ấy là vì đối với việc
gánh vác gia nghiệp của Phật, tiếp nối huệ mạng của Phật, nếu chẳng phải là
người phá vô minh hòng khôi phục bổn tánh, hoằng dương pháp đạo lợi lạc chúng sanh,
sẽ chẳng thể làm được! Nay những kẻ làm Tăng phần nhiều là hạng thô bỉ, bại
hoại, vô lại, mong được sống an nhàn, thảnh thơi; kẻ chịu trì trai niệm Phật
còn chẳng có mấy, huống hồ là người có thể gánh vác gia nghiệp, tiếp nối huệ
mạng ư? Hiện thời, Phật pháp sa sút đến tận đất đen là vì Thanh Thế Tổ (Thuận Trị) chẳng xét thời cơ, chẳng
tuân Phật chế, thay đổi cách khảo thí tăng sĩ của triều đại trước (nhà Minh), bỏ luôn độ điệp[13], cho phép ai nấy tùy ý xuất gia, gây thành mối tệ vậy!
* Cho
tùy ý xuất gia, đối với bậc thượng sĩ thật là có lợi ích to lớn, nhưng đối với
kẻ hạ căn, lại là sự tổn hại rất lớn. Nếu như toàn thể thế gian đều là bậc
thượng sĩ, cố nhiên cách thức ấy rất hữu ích đối với đạo pháp; thế nhưng bậc
thượng sĩ hiếm tợ vảy lân, kẻ hạ căn nhiều như lông bò. Chỉ tạm hữu ích ngay
trong lúc ấy (từ đầu nhà Thanh cho đến
thời Càn Long, thiện tri thức nhiều như rừng, nên bảo là “hữu ích”), họa
lan sâu hậu thế; cho đến hiện tại, thói tệ ô tạp, lạm dụng đã đến mức cùng cực.
Dù có thiện tri thức muốn chỉnh đốn một phen, cũng chẳng thể làm gì được, chẳng
đáng buồn ư?
Từ rày
về sau, người xuất gia điều thứ nhất là phải thật sự phát khởi đại Bồ Đề tâm tự
lợi lợi tha, thứ hai là phải có thiên tư hơn người mới cho xuống tóc, không vậy
không được. Còn đối với người nữ có tín tâm, hãy bảo họ tu hành tại gia, vạn
vạn phần chẳng nên cho họ xuất gia, chỉ sợ gặp phải kẻ phóng túng khiến cho
Phật môn bị ô uế, bại hoại chẳng cạn. Nếu người nam tu hành thật sự, xuất gia
càng dễ, bởi họ tham phỏng tri thức, y chỉ tùng lâm [nào cũng được]. Người nữ
dù là bậc chân tu xuất gia cũng khó, bởi lẽ làm gì cũng dễ bị miệng đời gièm
xiểm, việc gì cũng khó thể tùy ý được. Chọn lựa người để thế độ, chẳng độ ni
chúng như thế chính là nghĩa lý trọng yếu bậc nhất để hộ trì Phật pháp, chỉnh
lý pháp môn trong đời mạt vậy!
* Người
đời nay hay coi xuất gia như một phương cách sống trốn tránh, lười nhác, an
nhàn. Tệ nhất là kẻ không còn sanh lộ nào khác, bèn lấy xuất gia làm kế sống
trộm qua ngày. Bởi thế, người xuất gia hiện thời đa phần là hạng vô lại, đạo
pháp bị quét sạch sành sanh đều là vì hạng xuất gia bại hoại như thế gây ra!
* Tăng
nhân đời nay khó thể khiến cho người khác tin tưởng! Nay đã truy điệu tăng
nhân, lẽ nào lại phỉ báng tăng nhân. Nếu nêu lên những điều tốt lành của họ để
răn nhắc những kẻ bất thiện thì chẳng mắc lỗi gì; nhưng nếu chính mình đã thuộc
vào hàng học trò [của vị tăng ấy] thì việc răn nhắc cũng nên châm chước. Việc
răn nhắc ấy chỉ hàng đức cao trọng vọng mới có thể thực hiện, chẳng phải là
chuyện nên làm của loài chim non miệng vàng vậy!
* Hàng
xuất gia nếu chẳng phải là chân tu, tập khí đầu đường xó chợ còn tệ hơn kẻ tục.
Nếu muốn xa lìa tập khí ấy, trước hết phải hiểu rõ hết thảy các pháp thế gian
đều là khổ, là không, là vô thường, là vô ngã, là bất tịnh, thì ba độc tham,
sân, si không có cách nào khởi lên được. Nếu vẫn chưa thể chế ngự chúng, hãy
dùng trung hậu, khoan dung, nhẫn nhục để đối trị, ắt chúng sẽ tự dứt. Nếu vẫn
chưa dứt thì phải tưởng mình như đã chết, tự nhiên vô biên phiền não sẽ hóa
thành thanh lương.
* Chỉ
hạng Thích Tử chúng ta mới lấy việc thành đạo lợi sanh làm cách báo ân tối
thượng. Không chỉ là đền đáp cha mẹ nhiều đời, mà còn báo đáp hết thảy cha mẹ
trong tứ sanh lục đạo từ vô lượng kiếp. Không chỉ hiếu kính khi cha mẹ còn
sống, mà còn phải độ thoát linh thức của cha mẹ, khiến họ được vĩnh viễn thoát
khỏi khổ luân, thường trụ Chánh Giác. Bởi thế mới nói: Đạo hiếu của nhà Phật ẩn
mật khó thể nêu tỏ! Tuy nhiên, đạo hiếu của Nho gia lấy việc phụng dưỡng cha mẹ
làm đầu. Như đạo Thích từ biệt cha mẹ đi xuất gia, có phải là chẳng đoái hoài
đến việc phụng dưỡng cha mẹ hay chăng? Phật chế định: Xuất gia phải thưa cùng
cha mẹ. Nếu có anh em, con cháu để gởi gắm cha mẹ thì mới được bẩm thỉnh với
cha mẹ. Cha mẹ có đồng ý mới được phép xuất gia. Nếu không, chẳng chấp thuận
cho kẻ ấy được xuống tóc.
Sau khi
đã xuất gia, nếu như anh em gặp biến cố, cha mẹ không chỗ nương nhờ, người xuất
gia cũng được phép chia sớt y bát để phụng dưỡng song thân. Vì thế, mới có
gương thơm hiếu dưỡng với mẹ của ngài Trường Lô (Thiền sư Trường Lô Trách đời Tống, người xứ Tương Dương. Lúc nhỏ mồ
côi cha, mẹ họ Trần, được bảo bọc nơi nhà cậu. Đến lúc lớn, Sư thông suốt sách
vở thế gian. Năm hai mươi chín tuổi xuất gia, hiểu sâu xa yếu chỉ nhà Thiền,
sau trụ trì chùa Trường Lô, đón mẹ về ở phòng phía Đông phương trượng, khuyên
mẹ niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ suốt bảy năm trời. Bà mẹ niệm Phật qua đời. Xem
sự tích này trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục), chuyện lạ chôn cha của ngài Đạo
Phi (Đạo Phi thuộc hoàng tộc nhà Đường,
người Trường An, mới vừa đầy năm, cha bỏ mình vì việc nước. Bảy tuổi xuất gia,
đời loạn lạc, gạo thóc đắt đỏ, Sư bèn cõng mẹ vào Hoa Sơn, tự nhịn ăn, khất
thực nuôi mẹ. Năm sau, Sư đến chiến trường Hoắc Sơn, thu nhặt xương trắng, chí
thành tụng niệm kinh chú, cầu tìm được xương cha. Mấy ngày sau, xương cha trồi
lên giữa đống xương, hiện ngay trước mặt ngài Đạo Phi. Ngài bèn bọc lấy xương
tàn, ôm về chôn cất. Xem trong Tống Cao Tăng Truyện).
Bởi thế,
kinh dạy: “Công đức cúng dường cha mẹ bằng với công đức cúng dường Nhất Sanh
Bổ Xứ Bồ Tát”. Cha mẹ còn sống, phải khéo léo khuyên dụ [cha mẹ] ăn chay,
niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Cha mẹ mất rồi, dùng công đức đọc tụng, tu trì
của chính mình, luôn chí thành hồi hướng cho cha mẹ, ngõ hầu cha mẹ vĩnh viễn
thoát khỏi ngũ trược, mãi mãi giã biệt sáu đường, chứng Vô Sanh Nhẫn, đạt đến
địa vị Bất Thoái, độ thoát chúng sanh đến tận cùng đời vị lai, khiến cho mình
lẫn người đều thành đạo Chánh Giác. Có như vậy thì mới chẳng giống với đại hiếu
thông thường của thế gian.
* Xuất
gia làm Tăng phải vì chuyên dốc chí nơi Phật thừa, lập bày cách duy trì đạo
pháp, chứ chẳng phải là chỉ có thành Tăng thì mới có thể tu trì Phật pháp.
8.7. Luận về báng Phật
* Hễ ai
đời trước quả thật có gieo căn lành, chẳng cần biết là vì học hỏi hay vì cầu
đạo, thì đều có thể tạo thành mầm mống đại sự xuất thế. Tham, sân, si, Hoặc
nghiệp phiền não, các thứ ác báo như tật bệnh liên miên đều là nhân duyên xuất
ly sanh tử, nhập Phật pháp, miễn sao người ấy có thể tự phản tỉnh hay không.
Nếu chẳng thể tự phản tỉnh, đừng kể chi hạng người tầm thường, thấp thỏi, bị
thế giáo buộc ràng, ngay cả những người như Hối Am, Dương Minh, Tĩnh Tiết,
Phóng Ông v.v... dù học vấn, trình độ, mức tu dưỡng đều lạ lùng, đặc biệt, trác
tuyệt, rốt cục vẫn chẳng thể triệt ngộ tự tâm, liễu thoát sanh tử. Học vấn, tu
dưỡng, sự hiểu biết của họ có thể làm cơ sở cho vô thượng diệu đạo, nhưng vì
chẳng thể tự phản tỉnh, nên rốt cuộc lại trở thành chướng đạo. Đủ thấy nhập đạo
thật khó, còn khó hơn lên trời nữa!
* Phật
thấy chúng sanh đều là Phật. Chúng sanh thấy Phật đều là chúng sanh. Do Phật
thấy chúng sanh đều là Phật, nên tùy thuận cơ nghi mà thuyết pháp, mong họ tiêu
trừ được vọng nghiệp, tự chứng được cái mình vốn sẵn có. Dù hết thảy chúng sanh
đều chứng được Niết Bàn rốt ráo, Phật trọn chẳng thấy mình là người cứu độ,
chúng sanh là người được độ, bởi họ vốn dĩ là Phật. Do chúng sanh thấy Phật là
chúng sanh, nên chín mươi lăm phái ngoại đạo ở Tây Thiên (Ấn Độ) cùng bọn nho sĩ câu nệ, hẹp hòi xứ này, không ai là chẳng
dốc sạch tâm lực hủy báng đủ cách, mong sao Phật pháp diệt sạch hoàn toàn chẳng
còn tung tích gì thì lòng mới khoái. Nhưng mặt trời chói lọi giữa hư không,
toan dùng hai tay che kín, càng khiến cho quang minh của Phật pháp càng thêm tỏ
rõ, càng bộc lộ cái nông cạn, hèn kém của chính mình mà thôi!
Người có
túc căn do nhân duyên báng Phật, bài Phật,
bèn lại được quy y Phật pháp, làm đệ tử Phật, thay Phật hoằng dương,
giáo hóa. Người không có túc căn, sẽ vì nghiệp lực ấy mà vĩnh viễn đọa trong A
Tỳ địa ngục. Đợi đến lúc nghiệp báo hết rồi, thiện căn được nghe danh hiệu Phật
trong kiếp xưa sẽ phát hiện, nhờ đó mới được nhập Phật pháp, sẽ tạm gieo thiện
căn. Đến khi nghiệp tận tình không, khôi phục cái mình vốn sẵn có mới thôi.
Phật ân
thật là rộng lớn sâu xa cùng cực, chẳng thể hình dung! Một câu gieo vào tâm,
mãi mãi là hạt giống đạo. Ví như nghe tiếng cái trống có bôi thuốc độc, xa gần
đều chết tươi; ăn chút kim cang, quyết định chẳng tiêu được. Tin được như vậy
thì mới gọi là chánh tín.
* Phật
pháp không điều nào lớn lao chẳng bao gồm, không điều nhỏ nhặt nào chẳng nêu.
Ví như một cơn mưa thấm ướt khắp cả, cây cỏ cùng được tươi tốt, cái đạo “tu thân, tề gia, trị quốc” không gì là
chẳng đủ. Xưa nay, văn chương chỉ thịnh một thời, nhưng công nghiệp lan truyền
vũ trụ. Phàm những ai chí hiếu, nhân từ, ngàn đời cùng ngưỡng mộ, con người mới
chỉ biết dõi theo vết tích, chưa biết tìm đến gốc. Nếu khảo sát kỹ đến cội
nguồn, sẽ thấy tinh thần, chí khí, tiết tháo của những vị ấy đều được vun bồi
nhờ học Phật. Chẳng cần phải nhắc tới những chuyện khác, ngay như tâm pháp do
hàng thánh nhân Tống Nho đề xướng, cũng vẫn phải vay mượn Phật pháp làm khuôn
mẫu, huống hồ là những chuyện khác! Bọn Tống Nho bụng dạ hẹp hòi, muốn hậu thế
nghĩ chính họ đã phát minh ra tâm pháp ấy, bèn thốt lên những lời báng Phật,
hòng khỏa lấp cái tội mượn trộm Phật pháp. Từ Tống sang Nguyên, tới Minh, không
đời nào chẳng như vậy!
Cứ thử
dốc lòng khảo sát, [sẽ thấy] không ai là chẳng được lợi ích nơi Phật pháp. Họ
giảng về tịnh tọa, giảng về tham cứu, cho thấy họ có dụng công; lâm chung biết
trước lúc đi, cười nói rồi qua đời chính là những điểm biểu lộ cuối cùng của
họ. Những mẫu chuyện, những sự tích như vậy chép đầy trong các truyện ký Lý
học, đâu phải chỉ có một chuyện. Học Phật có phải là mối lo cho xã hội hay
chăng?
* Bản
thể của Nho và Phật đương nhiên chẳng hai. Xét về mặt công phu của Nho và Phật,
nếu chỉ bàn hời hợt, sẽ thấy rất tương đồng; nếu bàn sâu, sẽ thấy khác nhau như
trời với đất. Vì sao như vậy? Nho lấy Thành (chân
thành) làm gốc, Phật lấy Giác làm tông. Thành chính là Minh Đức (cái đức sáng tỏ), do Thành khởi Minh,
do Minh nên có Thành. Hễ Thành và Minh hợp nhất sẽ “minh Minh Đức” (làm sáng tỏ
cái đức sáng ngời). Giác có Bổn Giác và Thỉ Giác. Do Bổn Giác mà Thỉ Giác
phát khởi, dùng Thỉ Giác để chứng Bổn Giác. Thỉ và Bổn hợp nhất tức là thành
Phật. Bổn Giác tức là Thành, Thỉ Giác là Minh. Nếu thuyết pháp như thế thì Nho
và Phật trọn chẳng khác gì nhau.
Các hạ
bảo [chính mình] “học Phật, học Khổng, thấy Lý chẳng ngoài một chương sách Đại
Học[14] là điều quyết định chẳng còn ngờ vực gì nữa”; đấy chỉ là
bàn luận một cách nông cạn. Nếu giảng rõ về mặt thứ lớp sâu cạn của công phu tu
chứng thì đại để tương đồng, nhưng sở chứng, sở đạt bất đồng rất lớn. Nho chỉ
có thể “minh Minh Đức”, há có thể
đoạn trọn Tam Hoặc, đầy đủ cả phước lẫn huệ như Phật hay chăng? Há có thể như
Bồ Tát chứng Pháp Thân, phá một phần vô minh, thấy một phần Phật Tánh hay
chăng? Há có thể như Thanh Văn, Duyên Giác đoạn sạch Kiến Hoặc lẫn Tư Hoặc hay
chăng?
Điều thứ
ba, dù Thanh Văn chỉ đoạn được Kiến Tư Hoặc là hạng thấp kém nhất, nhưng các
Ngài đã đắc lục thông tự tại. Bởi thế, ngài Tử Bách nói: “Nếu ngay lập tức
buông vọng tình xuống được, dẫu vách núi vẫn có thể đi xuyên qua”. Sơ Quả
còn phải bảy lượt sanh lên trời, bảy lần sanh xuống nhân gian, nhưng đạo lực
của các Ngài đã đạt tới mức tùy ý chẳng phạm sát giới. Vì thế, các Ngài đi đến
đâu, loài trùng đều giạt ra. Do đó, mới nói: “Sơ Quả cày đất, trùng tránh xa
bốn tấc”, huống hồ là Nhị, Tam, Tứ Quả ư!
Hãy
khoan nói tới những người học theo Nho Giáo cái đã, hãy bàn về thánh nhân thôi.
Cố nhiên, đa phần thánh nhân là bậc đại quyền thị hiện. Không nói tới bổn địa
của các Ngài, nếu chỉ căn cứ trên mặt Tích, e rằng các Ngài còn chưa thể đoạn
sạch Kiến Hoặc, Tư Hoặc như thế được, huống hồ là so sánh với các vị Pháp Thân
đại sĩ thuộc bốn mươi địa vị phá vô minh, chứng pháp tánh ư? Cho dù bảo “minh
Minh Đức” tạm ngang ngửa với “phá vô minh” đi nữa, phải nhớ rằng phá vô minh có
bốn mươi mốt địa vị, “minh Minh Đức” có ngang bằng địa vị đầu tiên là Sơ Trụ
hay chăng? Có ngang bằng địa vị cuối cùng là Đẳng Giác hay chăng? Dù “minh Minh
Đức” có ngang ngửa với địa vị Đẳng Giác đi nữa, đối với Minh Đức [các vị thánh
nhân Nho giáo] vẫn chưa thể minh đến cùng cực được! Phải đến khi phá được một
phần vô minh thì mới đáng gọi là “Thành -
Minh hợp nhất, Thỉ - Bổn vô nhị” vậy!
Do lẽ
đó, tôi nói: “Xét về Thể thì đồng, nhưng
phát huy công phu chứng đạt chẳng đồng!” Người đời vừa nghe nói “đồng” bèn
tưởng Nho Giáo bao gồm trọn Phật giáo, nghe nói “khác” bèn tưởng Phật giáo hoàn
toàn khác với Nho giáo. Họ chẳng biết đến nguyên ủy “đồng nhưng bất đồng, bất đồng nhưng đồng”; bởi thế, cứ tranh luận
tưng bừng, ai nấy lo bảo vệ môn đình của mình, ai nấy đều đánh mất tấm lòng
“trị thế, độ nhân” của Phật, Bồ Tát!
* Kể từ
khi đại pháp truyền vào Trung Quốc, đế vương các đời không ai chẳng sùng phụng
Phật giáo; chỉ có Tam Võ hủy diệt Phật giáo, nhưng người kế vị lại hưng thạnh
Phật giáo. Ví như tiết Đông, [mọi thứ] đông cứng lại chắc nịch để thành tựu vẻ
tươi tốt, sum suê cho tiết Xuân, tiết Hạ. Mặt trời chói lọi giữa hư không, toan
dùng hai tay che lấp; ngửa mặt khạc nhổ trời, chính mình bị giây bẩn.
Tam Võ
là Ngụy Thái Võ, Châu Võ Đế, Đường Võ Tông. Thoạt đầu họ đều thâm tín Phật
pháp, dốc ý tu tập. Ngụy Thái Võ tin lời sàm hoặc của Thôi Hạo, Châu Võ Đế tin
lời sàm tấu của Vệ Nguyên Tung, Đường Võ Tông tin lời vu báng của Lý Đức Dụ và
đạo sĩ Triệu Quy Chân. Hủy diệt Phật pháp chưa bao lâu, cả người chủ xướng lẫn
kẻ tán trợ đều mắc phải ương họa cùng cực. Ngụy Võ Đế phế Phật xong, chưa đầy
năm sáu năm, Thôi Hạo bị diệt tộc, bản thân Ngụy Võ Đế cũng bị ám sát. Con lên
nối ngôi lại ra sức phục hưng Phật giáo. Sau khi Châu Võ Đế phế Phật, Nguyên
Tung bị biếm truất và xử tội chết, chưa đến năm năm sau, thân vua mắc bệnh
nghiệt, khắp mình lở loét. Vua chết chưa đầy ba năm, Tùy Văn Đế lên ngôi lại
phục hưng Phật giáo. Đường Võ Tông phế Phật rồi, chưa đầy một năm sau, Quy Chân
bị tru lục, Đức Dụ chết trên đường bỏ trốn, Võ Tông uống kim đan của đạo sĩ
dâng, lưng nổi nhọt loét mà chết. Tuyên Tông lại phục hưng Phật giáo.
Tống Huy
Tông lúc đầu cũng thâm tín Phật pháp, sau nghe lời yêu vọng của đạo sĩ Lâm Linh
Tố, bắt đổi tượng Phật thành hình tượng Đạo giáo, xưng Phật là Đại Giác Kim
Tiên, gọi Tăng là “đức sĩ”, bắt Tăng mặc áo đạo sĩ. Mỗi khi làm lễ, Tăng phải
ngồi phía sau đạo sĩ. Hạ chiếu chưa lâu, kinh thành bị lụt lớn khác gì hồ,
biển. Vua tôi hoảng sợ, sai Linh Tố trị thủy, càng phù phép, nước càng dâng
tràn. Chợt có bậc đại thánh Tăng Già xuất hiện trong cung cấm, vua đốt hương van
nài, ngài Tăng Già chống tích trượng lên mặt thành, nước liền rút sạch. Vua
liền hạ chiếu phục hồi quy chế Phật giáo như cũ. Chưa đầy sáu bảy năm sau, cha
con cùng bị giặc Kim bắt đi. Người Kim phong Huy Tông làm Hôn Đức Hầu, Khâm
Tông làm Trọng Hôn Hầu, cha con cùng chết tại thành Ngũ Quốc.
Phật là
đại sư ba cõi, cha lành cả bốn loài, bậc thánh của các thánh, là trời trong
trời, dạy con người bỏ vọng về chân, nghịch trần hợp giác, dứt trừ Hoặc nghiệp
huyễn vọng, khôi phục tâm tánh vốn sẵn có. Cảm ân, báo đức, hộ trì lưu thông
Phật pháp còn chưa đủ, há nên cậy vào thế lực nhất thời, đoạn diệt huệ nhãn của
chúng sanh, cắt đứt con đường bằng phẳng của trời người, đào hố sâu địa ngục,
ắt chuốc lấy quả báo nhãn tiền, luân hồi muôn kiếp, để tiếng xấu cho đời, thật
đúng là tấm gương rành rành vậy!
* Rộng,
dầy, cao, sáng nhất trong thế gian, không gì bằng trời, đất, mặt trời, mặt
trăng, nhưng mặt trời chính ngọ rồi phải xế bóng, trăng tròn rồi phải khuyết,
bờ cao sụp thành hang, hang sâu đùn thành gò, biển xanh biến thành ruộng dâu,
ruộng dâu biến thành biển xanh. Xưa nay, bậc đạo cao đức trọng không ai bằng
Khổng Tử, vẫn bị tuyệt lương nơi đất Trần, bị hãm nơi đất Khuông, chu du các
nước, chẳng gặp được vua hiền; chỉ có một đứa con, tuổi vừa năm mươi đã chết mất,
may còn một cháu nội để duy trì dòng dõi. Xét đến những người thấp hơn, Nhan
Uyên đoản mạng, Nhiễm Bá Ngưu cũng đoản mạng, Tử Hạ bị mù, Tả Khâu Minh cũng bị
mù, Khuất Nguyên trầm mình dưới sông (Khuất
Nguyên tận trung bị gian thần sàm tấu. Về sau, vì Sở Hoài Vương bị vua Tần bắt
giữ, ông khôn ngăn phẫn uất, nhưng chẳng làm gì được, bèn tự trầm nơi sông Mịch
La vào ngày mồng Năm tháng Năm), Tử Lộ bị bằm nát như tương (Tử Lộ làm quan ở nước Vệ. Vệ Khoái Hội
tranh ngôi với con là Triếp[15], Tử Lộ
tử nạn, bị địch quân bằm nát nhừ).
Trời,
đất, nhật, nguyệt còn chẳng thể thường hằng bất biến; đại thánh, đại hiền cũng
chẳng thể chỉ gặp toàn thuận lợi chẳng có nghịch cảnh; chỉ những ai biết vui
theo mạng trời, dù gặp cảnh ngộ nào cũng đều an vui cả; thế nhưng mấy trăm ngàn
năm sau, từ thiên tử cho đến thứ dân, không ai là chẳng kính ngưỡng những vị
ấy. Nếu cứ dựa trên tình cảnh khi ấy mà luận, tựa hồ họ chẳng có phước báo gì;
nhưng nếu dựa trên đạo hạnh lưu truyền hậu thế để luận, ai có phước trội hơn
những vị ấy hay chăng?
Người
sanh trong cõi đời ngàn tính vạn toán làm đủ mọi chuyện, xét đến cùng cực chẳng
qua chỉ để thân mình no ấm, con cháu quý hiển mà thôi! Thế nhưng, vải thô cũng
che được thân, cần gì phải lượt, là, the, vóc; miệng dùng rau dưa cho qua bữa,
cần gì phải cá, thịt, hải sản? Con cháu thì hoặc đọc sách, hoặc cấy cày, hoặc
buôn bán để tự nuôi thân, cần gì phải giàu đến trăm vạn? Vả nữa, những kẻ mưu
tính sao cho con cháu được giàu sang đến vạn đời, chắc không ai hơn được Tần
Thủy Hoàng! Vua Tần thôn tính sáu nước, đốt sách, chôn Nho sĩ, thâu binh khí
trong thiên hạ đúc thành chuông lớn, không điều nào chẳng nhằm mục đích khiến
dân ngu yếu chẳng thể làm loạn. Nào ngờ Trần Thiệp vừa đứng lên, quần hùng đua
nhau nổi dậy. Họ Tần nhất thống sơn hà chưa quá mười hai, mười ba năm, thân đã
diệt, nước đã mất, con cháu bị tru lục hết sạch; khác nào cắt cỏ nhổ tận rễ,
không còn chút gì nữa! Muốn cho con cháu được an lạc, hóa ra lại khiến cho
chúng mau bị chết sạch hết cả.
Tào Tháo
làm Thừa Tướng thời Hán Hiến Đế, chuyên quyền, bất cứ điều gì hắn làm không
ngoài mục đích giảm thế lực của vua, tăng oai quyền cho mình, mong sau khi mình
chết đi, con mình sẽ xưng đế. Vừa chết đi, Tào Phi liền soán ngôi, thây cha còn
chưa liệm, Phi đã chuyển hết các phi tần của cha sang cung mình. Tào Tháo chết
đi, đọa mãi trong ác đạo hơn một ngàn bốn trăm năm. Đến đời vua Càn Long nhà
Thanh, ở Tô Châu có kẻ mổ heo, thấy trên gan phổi heo có hai chữ Tào Tháo. Có
kẻ láng giềng trông thấy, sanh lòng hoảng sợ lớn, liền xuất gia, pháp danh là Phật
An, nhất tâm niệm Phật, liền được vãng sanh Tây Phương. Chuyện này được chép
trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục. Tào Tháo phí sạch tâm cơ mưu tính cho con cháu.
Tuy con hắn được làm hoàng đế, nhưng chỉ ở ngôi được bốn mươi lăm năm liền bị
diệt quốc. Hằng ngày lại còn phải đánh nhau với Đông Ngô và Tây Thục, có bao giờ
được hưởng một ngày an vui?
Tiếp đó,
hai nhà Tấn (Tây Tấn và Đông Tấn),
Tống, Tề, Lương, Trần, Tùy và các nhà Lương, Đường, Tấn, Hán, Châu thời Ngũ Đại
đều chẳng trường cửu, tựu trung nhà Đông Tấn tồn tại lâu dài nhất, nhưng chỉ
được một trăm lẻ ba năm. Các triều khác thì hoặc là hai, ba năm, hoặc tám chín
năm, mười năm, hai mươi năm, bốn mươi năm, năm mươi năm rồi liền diệt vong. Đây
mới chỉ kể những triều đại chánh thống, còn như những kẻ chiếm càn lãnh thổ,
ngụy xưng vương triều, số ấy nhiều lắm, tồn tại còn ngắn ngủi hơn nữa.
Xét cái
tâm thuở đầu của họ, không ai là chẳng muốn cho con cháu được an lạc, phú quý,
tôn vinh; xét đến kết quả thực sự, lại khiến cho con cháu càng mau gặp phải
kiếp nạn, bị tru lục, diệt môn tuyệt tộc. Dù quý như thiên tử giàu có như bốn
biển, vẫn chẳng thể giữ cho con cháu đời đời hưởng phước, huống chi kẻ phàm phu
trơ trụi? Từ vô lượng kiếp đến nay, những ác nghiệp đã tạo còn dầy hơn đại địa,
sâu hơn biển cả, có đảm bảo gia đạo thường hưng thạnh, chỉ có phước, không có
tai ương hay chăng?
Phải
biết rằng: Muôn pháp trong thế gian thảy đều hư giả, trọn chẳng chân thật, như
mộng, như huyễn, như bọt nước, như bóng dáng, như sương móc, như ánh chớp, như
bóng trăng in trong nước, như hoa đốm trên hư không, như ánh nước dợn lúc trời
nóng, như thành Càn Thát Bà (Càn Thát Bà
là tiếng Phạn, Hán dịch là Tầm Hương, là nhạc thần của Thiên Đế. Thành trì của
họ huyễn hiện chẳng thật, như ta thường nói “thần lâu, hải thị”[16] vậy!).
Chỉ có
mỗi một niệm tâm tánh của chính mình hằng cổ hằng kim (xưa nay luôn thường hằng), chẳng biến, chẳng hoại, tuy chẳng biến
hoại, nhưng thường tùy duyên. Do ngộ tịnh duyên, liền thành Thanh Văn, thành
Duyên Giác, thành Bồ Tát, thành Phật. Do công đức sâu hay cạn mà quả vị cao hay
thấp. Do mê nhiễm duyên thì sanh lên trời, sanh trong nhân gian, đọa vào Tu La,
đọa súc sanh, đọa ngạ quỷ, đọa địa ngục. Do tội phước nặng hay nhẹ mà có khổ
hay vui, [thời gian thọ quả] có dài hay ngắn. Nếu là kẻ chẳng biết Phật pháp,
chẳng biết làm cách nào được! Ông đã sùng tín Phật pháp, sao chẳng do nghịch cảnh
mà nhìn thấu suốt tướng trạng thế gian, bỏ mê nhiễm duyên, theo ngộ tịnh duyên,
nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Nhờ đó, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi
lục đạo, cao đăng quả vị Tứ Thánh, há chẳng phải là nhờ cái họa nhỏ này mà
thường hưởng phước lớn ư?
* Phật
ân thật là rộng lớn, trọn khắp, chẳng có cùng tận. Vì sao nói như thế? Do hết
thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật, nhưng vì mê chẳng ngộ,
đến nỗi lại đem sức công đức Phật tánh ấy dùng lầm vào sáu trần cảnh, khởi
tham, sân, si, tạo giết, trộm, dâm, do Hoặc tạo nghiệp, do nghiệp thọ báo, trải
kiếp dài lâu luân hồi lục đạo, trọn chẳng có ngày ra. Trong những kiếp xưa,
Phật đã biết rõ điều này, bèn phát đại nguyện, muốn cho hết thảy chúng sanh
trong khắp các pháp giới tận cõi hư không cùng ngộ được Phật tánh sẵn có, cùng
thoát luân hồi sanh tử, cùng thành đạo Vô Thượng Chánh Giác, cùng nhập Vô Dư
Niết Bàn.
Từ đấy,
vì chúng sanh trong khắp pháp giới, Ngài trải kiếp dài lâu hành đạo Bồ Tát,
không việc gì có lợi ích mà Phật chẳng đề cao, tu trọn lục độ, chẳng chấp trước
một pháp nào, hành hạnh khó làm, nhẫn được chuyện khó nhẫn. Phật bố thí quốc
thành, vợ, con, đầu, mắt, tủy, não... không tiếc nuối gì. Vì thế, kinh Pháp Hoa
nói: “Ta thấy đức Thích Ca Như Lai trong vô lượng kiếp, hành hạnh khó, hạnh
khổ, tích công chứa đức cầu Bồ Tát đạo chưa từng dừng nghỉ. Xem khắp tam thiên
đại thiên thế giới, thậm chí chẳng có chỗ nào nhỏ bằng hạt cải mà chẳng phải là
chỗ Bồ Tát xả thân mạng vì chúng sanh! Sau đấy mới được thành Bồ Đề đạo”.
Chỉ một
hạnh Bố Thí dù thọ cả kiếp còn chẳng thể nói hết, huống hồ là các hạnh khác như
Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Trí Huệ và Tứ Nhiếp, vạn hạnh ư? Mãi
cho đến khi Hoặc nghiệp hết sạch, phước huệ viên mãn, triệt chứng tự tâm, thành
đạo Vô Thượng, Phật bèn vì khắp các chúng sanh giảng pháp do chính mình đã
chứng, chỉ vì để ai nấy đều chứng được pháp do Ngài đã chứng. Thế nhưng thượng
căn ít ỏi, trung căn, hạ căn lại nhiều; cho nên Phật lại tùy cơ lập giáo, khiến
cho ai nấy tùy phận được lợi. Đến khi việc một đời đã xong, Phật bèn nhập Niết
Bàn, nhưng vẫn chẳng bỏ tấm lòng đại bi, lại thị hiện thành Chánh Giác trong
thế giới khác để tiếp tục tế độ. Phật thị hiện sanh trong cõi này hay cõi khác
như thế, chẳng thể dùng toán số, thí dụ để tính được nổi! Ví như vầng mặt trời
chói lọi vì chiếu thế gian nên mọc lặn chẳng ngừng, cũng như người đưa thuyền
vì đưa người qua sông nên qua lại chẳng ngừng!
* Phật
nghĩ thương xót chúng sanh từ vô thỉ trước đến tận vị lai sau, trên đến bậc
Đẳng Giác Bồ Tát, dưới đến lục đạo phàm phu, không một ai chẳng thuộc trong
vòng đại bi thệ nguyện của Ngài. Ví như hư không bao trùm hết thảy, từ sâm la
vạn tượng cho đến trời đất đều bị hư không bao trùm. Cũng lại như ánh sáng mặt
trời chiếu khắp muôn phương, dù kẻ sanh manh (mù từ lúc lọt lòng) trọn đời
chẳng thấy được ánh sáng, vẫn được ánh mặt trời soi tới, được sống đúng nghĩa
con người. Nếu như không có ánh mặt trời chiếu thấu, sẽ chẳng có duyên sanh
sống được; [như vậy thì] há có phải là cứ phải đích thân thấy được ánh sáng thì
mới được thọ ân ư?
Kẻ Thế
Trí Biện Thông dựa vào sự hiểu biết câu nệ, hẹp hòi của chính mình mình để chê
bai, phản bác Phật pháp, bảo là: “Phật pháp làm hại thánh đạo, dối đời, lừa
người”, trọn chẳng khác gì kẻ sanh manh chửi mặt trời, bảo mặt trời chẳng có
quang minh! Hết thảy ngoại đạo đều lấy trộm nghĩa lý trong kinh Phật rồi làm
như chính đạo mình có giáo nghĩa ấy; có kẻ còn trộm danh Phật pháp để hành tà
pháp. Do đó ta biết: Phật pháp chính là đạo gốc của mọi pháp thế gian và xuất
thế gian. Ví như biển cả chảy ngầm dưới mặt đất, những chỗ đầy ắp nước, chảy
thành dòng lộ ra thì là vạn con sông, nhưng không có con sông nào lại chẳng đổ
vào biển cả.
Những kẻ
báng Phật kia chẳng phải là báng Phật, mà là báng chính mình! Bởi vì một niệm
tâm tánh của họ toàn thể là Phật. Từ đầu, Phật đã dùng mọi cách thuyết pháp,
giáo hóa như thế nhằm mong họ bỏ mê về chân, tự chứng Phật tánh do chính mình
sẵn có mới thôi. Do Phật tánh đáng tôn trọng nhất, đáng yêu tiếc nhất, nên Phật
nhọc nhằn, chẳng hề tiếc công như vậy, dù họ chẳng tin nhận, Phật cũng chẳng nỡ
buông bỏ. Nếu như chúng sanh chẳng sẵn có Phật tánh, chẳng kham làm Phật, nhưng
Phật cứ uổng công bày cách như thế thì Phật chính là kẻ si dại bậc nhất trong
thế gian, mà cũng là kẻ đại vọng ngữ bậc nhất trong thế gian, lẽ nào tám bộ
trời rồng, tam thừa thánh hiền lại cùng chịu hộ vệ, y chỉ Phật ư?
* Phật
thấy hết thảy chúng sanh giống như con một, yêu thương không thiên vị ai, luôn
muốn cho chúng sanh được độ thoát, vì hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều
kham làm Phật. Bởi thế, dù là hạng Nhất Xiển Đề tuyệt chẳng có tín tâm, Phật
không hề có một niệm buông bỏ. Nếu đúng cơ duyên, họ sẽ tự sanh lòng tin, quy
y, y giáo tu trì, ngõ hầu đoạn Hoặc, chứng Chân, liễu sanh thoát tử.
Kinh
Lăng Nghiêm nói: “Mười phương Như Lai thương xót chúng sanh như mẹ nhớ con.
Nếu con bỏ trốn, mẹ dù nhớ, cũng chẳng làm gì được! Nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ
con, từ đời này sang đời khác, mẹ con chẳng hề xa nhau. Nếu tâm chúng sanh nhớ
Phật, niệm Phật thì trong hiện tại hoặc trong tương lai nhất định thấy Phật,
cách Phật chẳng xa, như người nhiễm hương, thân có mùi thơm”.
Kinh
Pháp Hoa dạy: “Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh chịu các khổ não,
nghe đến Quán Thế Âm Bồ Tát này, nhất tâm xưng danh thì Quán Thế Âm Bồ Tát liền
lập tức xem xét âm thanh ấy, khiến họ đều được giải thoát”. Kinh còn chép: “Vị
Quán Thế Âm Bồ Tát này hay ban sự không sợ hãi trong khi hoảng sợ, hoặc nạn
gấp, nên thế giới Sa Bà này đặt tên cho Ngài là Thí Vô Úy”.
Ấy là vì
xét về Thể thì tâm của chúng sanh và tâm của Phật, Bồ Tát chẳng khác gì nhau,
chỉ vì chúng sanh mê muội, trái giác theo trần, đến nỗi đây kia ngăn cách,
chẳng được chở che. Nếu như trái trần xuôi giác, một dạ xưng danh, sẽ tự nhiên
cảm ứng đạo giao, Phật, Bồ Tát rủ lòng từ gia bị, dù gặp hiểm nạn cũng thành
yên vui!
* Điều
trọng yếu trong việc học đạo là đối trị tập khí. Thường có kẻ học vấn càng sâu,
tập khí càng thịnh. Ấy là vì coi học đạo giống như học nghề, cho nên càng học
nhiều, càng nghịch đạo. Đó chính là cội nguồn khiến cho cả Nho lẫn Thích trong
nước ta cùng suy cả!
8.8. Luận về đạo thầy trò
* Những
mối quan hệ lớn (Ngũ Luân) trong đời
người tính ra chỉ có năm, tức là vua - tôi, cha - con, anh - em, vợ - chồng,
bạn bè. Cha sanh, thầy dạy, vua nuôi, ba mối quan hệ này tương đương nhau, sao
trong Ngũ Luân chẳng kể đến thầy? Chẳng biết thầy có đức tánh giáo huấn ta
thành người, nên thầy cũng như cha. Kế đến, có công khuyên dụ, khen thưởng,
khuyến khích để ta được thành tài, nên thầy cũng như anh. Vì thế, Mạnh Tử nói: “Thầy
là cha anh”. Tiếp đó, thầy khiến ta mở mang, đôi bên cùng được lợi ích như
hai vầng trăng chiếu lẫn nhau, hai tay vịn vào nhau nên thầy cũng như bạn
(Trong chữ Bằng Hữu, Bằng (朋) gồm hai chữ Nguyệt (月) ghép lại; chữ Hữu (友) giống như hai tay vịn vào nhau). Bởi thế nhà Phật hay
nói: “Tầm sư, phỏng hữu” (tìm thầy
kiếm bạn).
8.9. Luận về Giới Luật
* Pháp
môn dù nhiều, nhưng tất cả được bao gồm trọn vẹn chẳng sót trong ba môn Giới,
Định, Huệ. Vì thế, kinh Lăng Nghiêm nói: “Nhiếp tâm là Giới, do Giới sanh
Định, do Định phát Huệ. Do vậy, gọi là Tam Vô Lậu Học”. Nhưng trong ba môn
này, chỉ có Giới là trọng yếu nhất. Bởi lẽ, trì giới chính là chẳng làm các
điều ác, vâng làm các điều thiện. Hạnh ấy gần với Phật, tâm ấy chẳng đến nỗi
trái nghịch với Phật. Vì thế, trong kinh Phạm Võng, đức Như Lai vì chúng sanh
nói lời bảo đảm rằng: “Ta là Phật đã thành, các ông là Phật chưa
thành. Nếu tin được như vậy thì giới phẩm đã đầy đủ”. Ngài còn nói: “Chúng
sanh nhận lãnh giới của Phật là nhập vào địa vị Phật; địa vị đã giống như Đại
Giác rồi, thật sự là các con của Phật”. Vì vậy, một pháp Trì Giới chính là
đạo trọng yếu đệ nhất để siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử.
* Chữ
Luật chẳng chỉ riêng những hành vi thô phù mà thôi. Nếu chẳng chú trọng lòng
kính, giữ gìn lòng thành, thì vẫn là phạm luật. Nhân quả là cốt tủy của Luật.
Ai chẳng biết nhân quả và khinh mạn nhân quả đều là phạm luật. Người niệm Phật
khởi tâm động niệm thường phù hợp với Phật thì Luật, Giáo, Thiền, Tịnh đều cùng
thực hành cả.
8.10.
Luận về kinh điển
* Nếu ai
thiên tư thông minh, mẫn tiệp thì nghiên cứu tánh tướng các tông chẳng trở ngại
gì, nhưng phải lấy pháp môn Tịnh Độ làm chỗ nương tựa, quay về, mới khỏi đến
nỗi có nhân, không quả, khỏi lâm vào cảnh biến diệu pháp liễu sanh thoát tử
thành lời lẽ bàn suông nơi cửa miệng, không có cách gì đạt được lợi ích thật
sự! Phải nên chú trọng lòng kính, gìn giữ lòng thành, xem kinh tượng như đức
Phật sống, chẳng dám khinh nhờn chút nào, mới hòng do lòng Thành của chính mình
lớn nhỏ thế nào mà sẽ đạt được các lợi ích sâu hay cạn. Những người căn cơ chậm
lụt, chỉ nên chuyên nghiên cứu pháp môn Tịnh Độ, nếu thật sự tin đến nơi, giữ
thật vững, sẽ quyết định liễu sanh thoát tử ngay trong đời này, siêu phàm nhập
thánh, so với những kẻ thông hiểu kinh luận sâu xa, nhưng chẳng thực hành pháp
môn Tịnh Độ kia, sự lợi hại khác xa như trời với đất vậy!
Đối với
những kẻ vừa nói trên, chẳng cần biết tư cách như thế nào, trước hết cứ cho
dùng liều thuốc một vị này, thì bất luận là tà chấp, kiến giải lầm lạc, ngã
mạn, phóng túng đến đâu, đề cao thánh cảnh nhưng tự mình đành ở địa vị kém
cỏi... đều do thuốc A Già Đà một vị trị chung vạn bệnh này, không một ai là
chẳng dứt khoát lành bệnh!
* Phật
pháp uyên thâm, kẻ đại thông minh dù tận hết tâm lực cả đời vẫn còn có chỗ chưa
thể nghiên cứu tường tận, nhưng Phật pháp tùy cơ lập giáo; nếu muốn hưởng lợi
ích thật sự, hãy nghiên cứu, tu trì pháp môn đặc biệt, siêu việt, lạ lùng là
Tịnh Độ; đây thật sự là con đường trọng yếu ít tốn tâm lực vậy.
* Việc
giảo đính kinh điển chẳng phải là chuyện dễ dàng, chỉ sợ thầy chẳng rảnh rỗi
đến thế. Nếu ủy nhiệm người khác làm, kẻ đó phải là người kiến thức lỗi lạc,
mười phần tỉ mỉ, suy xét kỹ càng đôi ba lượt, tra cứu kỹ lưỡng thì mới có thể
đính chánh những chỗ chép lầm, trừ sạch những điểm dở tệ, khiến cho thiên chân[17] được tỏ bày triệt để. Nếu không, chẳng thà cứ theo đúng
dạng vẽ hồ lô[18], may ra chẳng đánh mất sự chân xác sẵn có!
* Một bộ
kinh Hoa Nghiêm là vua của Tam Tạng, phẩm cuối cùng quy kết, đặt nặng nguyện
vương. Hãy nên tôn trọng kinh Hoa Nghiêm, nhưng chớ xem thường các kinh khác vì
các kinh Đại Thừa đều lấy Thật Tướng làm bản thể. Hoa Nghiêm vĩ đại vì là đại
pháp xứng tánh cực đàm, vượt ngoài các pháp giới, chẳng thâu nhiếp các pháp Nhị
Thừa. Điểm huyền diệu của kinh Pháp Hoa là “hội
tam quy nhất” (gộp ba thừa về một thừa), “khai Quyền hiển Thật, khai Tích hiển Bổn”. Tông Thiên Thai cho
rằng: “Pháp Hoa thuần viên độc diệu[19], vì Hoa
Nghiêm vẫn còn nói kèm Quyền pháp” (chữ Quyền pháp chỉ các địa vị Thập Trụ, Thập
Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác). Nhưng trong hội Pháp Hoa, đức
Phật khen ngợi Pháp Hoa là “vua của các kinh”, trong hội Hoa Nghiêm, đức Phật
cũng khen [kinh Hoa Nghiêm] như thế. Lẽ nào kẻ hoằng kinh đời sau cứ nhất định
phải căn cứ vào năm bộ lớn[20] để phân định kinh này cao, kinh kia thấp, chẳng chấp
nhận kinh nào cũng có những điểm riêng đáng khen ngợi hay sao? Kẻ tu Thiền ca
tụng Thiền, người tu Tịnh Độ tán dương Tịnh Độ; nếu không, sẽ chẳng thể khiến
cho người khác sanh chánh tín, khiến cho người khác kính ngưỡng.
Chỉ nên
khéo hiểu ý nghĩa mỗi kinh, đừng vướng vào từ ngữ mà lạc mất ý nghĩa. Mạnh Tử
xưng tụng Khổng Tử là bậc thánh chưa từng có trong loài người. Khổng Tử thấy
vua Nghiêu trong canh, thấy vua Thuấn nơi tường, thấy Châu Công trong mộng.
Lòng mong mỏi, hâm mộ ba vị thánh của Ngài sao mà chí thành đến mức cùng cực
như thế ấy!
(Chú thích thêm:
Trong lời chú thích trước, đã nói [Quyền pháp] chỉ Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập
Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác v.v… bởi lẽ, Sơ
Trụ trong Viên Giáo đã phá vô minh, chứng Pháp Tánh. Kinh Hoa Nghiêm còn các
nghĩa như Sơ Địa phá vô minh, chứng Pháp Tánh, nên Hoa Nghiêm vẫn còn kèm theo
Quyền. Mấy chữ trong lời chú thích nhằm giải thích ý nghĩa chữ Quyền. Sợ có kẻ
chẳng hiểu, nên lại giải thích).
* Tổ Thiện
Đạo dạy người ta nhất tâm trì danh, đừng tu tạp nghiệp, là vì sợ kẻ trung căn,
hạ căn sẽ do tạp nghiệp mà tâm khó quy nhất, nên Ngài dạy chuyên tu. Tổ Vĩnh
Minh dạy người “muôn điều thiện cùng tu”
và “hồi hướng Tịnh Độ” là vì sợ hành
nhân thượng căn thiên chấp, đến nỗi phước huệ chẳng thể xứng tánh viên mãn, nên
Ngài dạy “viên tu” (tu trọn khắp).
* Kinh
rách nát chẳng thể tu bổ được nữa, nếu đốt đi cũng không có lỗi gì. Nhưng nếu
thấy còn có thể tu bổ được, đừng nên đốt đi! Nếu chẳng biết lẽ biến thông, cứ
một mực chẳng dám thiêu, thì kinh ấy rốt cuộc chẳng thể xem được, mà cũng chẳng
thể cất giữ như kinh còn tốt, lại trở thành khinh nhờn. Do sợ mắc lỗi khinh
nhờn, để lại [kinh sách hư nát] cho người đời sau, há có nên chẳng biết đến lẽ
quyền biến hay sao?
* Trong
các thứ thuốc đối chứng trị bệnh cho người hiện tại, nhân quả là vị thuốc bậc
nhất, pháp Tịnh Độ là pháp nên tu bậc nhất. Bất luận căn tánh nào, chẳng thể
không trước tiên phải tìm tòi, học hỏi pháp nhân quả và pháp Tịnh Độ. Còn về
giáo tướng, cũng cần phải chọn lựa người để giảng giải, bởi học sinh ai nấy đều
có những điều phải học riêng, Phật học chỉ là học kèm theo mà thôi. Nếu là kẻ
căn cơ nông cạn, ắt sẽ chuyên chú vào Giáo tướng, quăng Tịnh Độ ra sau ót, đến
nỗi rốt cuộc trở thành hữu nhân vô quả, chớ nên giảng dạy chẳng xứng với căn
cơ.
Nay
trong số những người tôn sùng Tướng Tông cũng có tệ nạn ấy. Người đề xướng [học
Tướng Tông] chẳng thật sự vì liễu sanh thoát tử, mà chỉ nhằm thông hiểu pháp
tướng để có thể giảng nói mà thôi. Nếu như những kẻ đó hiểu “dùng tự lực để
liễu sanh tử’ là chuyện khó, ắt sẽ chẳng chuyên chú vào việc đó (tức là chỉ lo học cho hiểu Tướng Tông)
rồi bỏ qua pháp Tịnh Độ không thèm hỏi tới, hoặc còn chê bai là pháp nông cạn
nữa. Những kẻ ấy đều thuộc loại ham cao, chuộng trội, nhưng chẳng biết thế nào
là cao trội! Nếu thật sự biết, dù có bị giết, cũng chẳng chịu bỏ qua pháp môn
Tịnh Độ, cứ cực lực tu hành. Học đạo khó lắm thay!
* Chúng
sanh căn khí bất nhất, Như Lai từ bi vô lượng. Nếu ai thật sự chân thật, chí
thành, cung kính niệm Phật thì đến lúc lâm chung, sẽ có những chuyện chẳng mong
mỏi mà tự nhiên đạt được. Những lời lẽ của ngài Tử Bách và ngài Hám Sơn rất
thân thiết, nhưng hai vị đều là bậc tri thức trong Tông môn, nếu [đem những lời
đó] nói với những người thật sự có lòng tin chân thành, nguyện thiết tha thì sẽ
có ích. Nhưng nếu nói với người chỉ có chút thiện căn, chưa thể chuyên tu, họ
sẽ nghĩ chuyện sanh Tây vượt quá khả năng của chính mình. Từ đó, họ sẽ đánh
trống lùi. Thuyết pháp chẳng phù hợp căn cơ sẽ trở thành lời nói suông, đúng là
như vậy đó.
* Pháp
môn Niệm Phật lấy ba pháp Tín, Nguyện, Hạnh làm tông, lấy Bồ Đề tâm làm căn
bản, lấy “tâm này làm Phật, tâm này là
Phật” làm thật nghĩa “nhân thấu biển
quả, quả tột nguồn nhân”, lấy “nhiếp
trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” làm công phu tối thiết yếu để thực hiện.
Lấy đó mà hành, và nếu Tứ Hoằng Thệ Nguyện lại chẳng lìa tâm, thì tâm sẽ hợp
với Phật, tâm hợp với đạo, ngay trong đời này dự vào dòng thánh, lâm chung lên
ngay thượng phẩm, chẳng uổng đời này!
8.11. Luận về Trung Ấm:
* Trung Ấm tức là thần thức, chẳng phải là thần thức biến
thành Trung Ấm, thế tục gọi [thần thức] là “linh hồn”. Chớ nên chấp trước, câu
nệ những thuyết “Trung Ấm cứ bảy ngày lại
một lần sống chết, bốn mươi chín ngày ắt sẽ đầu thai”... Trung Ấm có sống
chết là do vô minh trong tâm biến hiện tướng sanh diệt, đừng ngây ngô tưởng
Trung Ấm [thật sự] có sống chết như người trong thế gian. Trung Ấm thọ sanh,
nhanh thì như trong khoảng khảy ngón tay liền vào tam đồ, lục đạo; chậm thì đến
bốn mươi chín ngày, hoặc lâu hơn bốn mươi chín ngày v.v...
Người
mới chết mà có thể khiến người quen biết trông thấy vào ban ngày hay ban đêm,
tiếp xúc với hoặc trò chuyện với người đó, thì chẳng riêng gì Trung Ấm mới làm
được như vậy, ngay cả những người đã thọ sanh trong đường thiện hay ác vẫn có
thể vì người quen thuộc, thân thích khi trước mà hiện hình một phen. Đây tuy là
do ý niệm của người đó biến hiện, nhưng chủ yếu là do những thần thánh trong
thế gian hỗ trợ nhằm bóng gió chỉ bày: Con người chết đi, thần minh (thần thức) chẳng diệt, và quả báo thiện
ác chẳng phải là hư huyễn vậy! Nếu không, người dương gian chẳng biết đến việc
cõi âm, mù quáng cho rằng người chết rồi, thân xác đã mục nát thì thần thức
cũng phải phiêu tán, rồi bao người phụ họa theo [thuyết đó], khiến cho người
trong khắp thế gian cùng bị hãm trong hầm sâu tà kiến “chẳng có nhân quả, chẳng
có đời sau, hậu thế”, sẽ thấy người lành cũng chẳng càng thêm kiêng sợ mà tu
đức, kẻ ác càng muốn cùng hung cực ác tạo nghiệp. Dù có lời Phật dạy mà vẫn
không có cách nào để chứng minh, ai chịu tin nhận?
Những
chuyện hiện hình hiện bóng ấy đủ chứng tỏ lời Phật chẳng dối, quả báo phân
minh. Không chỉ người lành càng hướng tới điều lành, ngay cả kẻ ác cũng bị
những tình lý ấy khuất phục, chẳng đến nỗi mười phần quyết liệt. Thiên địa, quỷ
thần muốn cho con người hiểu rõ việc ấy, nên mới có những chuyện người đã chết
hiện thân trong cõi đời, người dương gian xử án cõi âm v.v... Đấy đều là vì
muốn phụ trợ Phật pháp, giúp sức cho đạo bình trị. Lý này rất vi tế, nhưng có
quan hệ rất lớn. Những chuyện như vậy xưa nay chép trong sách vở rất nhiều,
nhưng chưa hề nói rõ nguồn gốc của sự biến hiện, cũng như những lợi ích liên
quan.
* Trung
Ấm tuy lìa thân xác, nhưng vẫn có tình kiến về thân xác giống như khi chưa
chết. Đã có tình kiến về thân xác, đương nhiên [nẩy sanh ý niệm] phải có cơm áo
để sử dụng. Do phàm phu nghiệp chướng quá nặng, chẳng biết Ngũ Uẩn vốn là
không, nên [người trong trạng thái Trung Ấm] chẳng khác gì người sống. Nếu là
bậc đủ đại trí huệ, sẽ nhằm ngay lúc trút bỏ xác thân không còn phải nương tựa
nữa, liền biết Ngũ Uẩn là Không, nên các khổ tiêu diệt, Nhất Chân hiển hiện,
vạn đức phô bày trọn vẹn.
Tuy cảnh
giới [người sống và kẻ chết] bất tất phải nhất định giống hệt nhau, nhưng nào
trở ngại gì đến việc tùy tình kiến của mỗi người mà có các thứ cần dùng. Ví như
khi đốt quần áo giấy, người còn sống chỉ giữ ý tưởng gởi áo cho người chết, còn
quần áo lớn, nhỏ, ngắn, dài làm sao vừa vặn thích hợp cho được! Nhưng do tình kiến
của người sống lẫn tình kiến của người chết, quần áo sẽ đều vừa vặn cả. Điều
này giúp ta thấy nghĩa lý lớn lao “hết
thảy các pháp chuyển biến theo tâm”.
* Sau
khi đã chết, còn chưa thọ sanh trong lục đạo thì gọi là Trung Ấm. Nếu đã thọ
sanh trong lục đạo, chẳng gọi là Trung Ấm. Những kẻ dựa vào thân người khác để
nói chuyện sướng, khổ, đều là do tác dụng của thần thức. Đầu thai ắt phải do
thần thức và tinh huyết của cha mẹ hòa hợp. Khi thọ thai, tức là thần thức đã
trụ trong thai. Lúc sắp sanh, thường có chuyện mẹ thấy người đó (người đến đầu thai làm con) bước vào
nhà mẹ. Đó là vì trong lúc cha mẹ giao cấu, đã có thần thức khác nhập thai
giùm. Đến khi thai thành tựu, bổn thức (thần
thức thật sự của người sẽ đầu thai làm con) mới đến, thần thức thay thế bèn
ra đi. Trang mười hai trong quyển ba sách Dục Hải Hồi Cuồng, nơi các dòng tám,
chín, mười, mười một, mười hai, từng có nói đến chuyện này, nhưng lời đáp trong
ấy chẳng đúng lý cho lắm. Quang vì muốn sửa cho đúng, nên đã tra duyệt. Lời đáp
nguyên bản như sau: “Ví như trứng gà, có
trứng có cồ, có trứng chẳng có cồ. Chưa có thức đầu thai thì giống như trứng
không có cồ”. [Ông Châu An Sĩ] chẳng biết trứng không có cồ, dẫu đem cho gà
ấp, cũng chẳng nở thành con; làm sao dùng để làm tỷ dụ cho được? Quang chỉ mong
giảng rõ nghĩa này, chẳng nề hà tiếm việt, nên trình bày nguyên do cùng cư sĩ.
Mẹ của sư Viên Trạch, mang thai ba năm, chính là thuộc về tình hình này. Đấy là
luận định chung theo lẽ thông thường. Cần phải biết: Nghiệp lực của chúng sanh
chẳng thể nghĩ bàn. Nếu là kẻ Tịnh nghiệp đã thành, thân chưa chết, mà thần
thức đã hiện nơi Tịnh Độ. Kẻ ác nghiệp sâu nặng, người đang nằm trên giường
bệnh, mà thần thức đã chịu phạt trong chốn u minh. Mạng tuy chưa hết, thức đã
đầu thai, cho đến khi sắp sanh, toàn phần tâm thần mới nhập vào thai ấy. Lý này
cũng chẳng phải là hoàn toàn không có, nhưng phần lớn thường là có thần thức
khác đến đầu thai giùm. Các pháp trong tam giới duy tâm sở hiện. Chúng sanh tuy
mê, nghiệp lực chẳng thể nghĩ bàn, đúng là tâm lực chẳng thể nghĩ bàn, mà cũng
là sức thần thông của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn.
8.12. Luận về bốn cõi Tịnh Độ
* Hai
cõi Phàm Thánh Đồng Cư và Phương Tiện Hữu Dư là ước theo phàm phu đới nghiệp
vãng sanh và tiểu thánh Nhị Thừa đã đoạn Kiến Tư Hoặc mà lập, chứ chẳng thể ước
theo Phật để luận. Nếu ước theo Phật để luận, không chỉ toàn thể bốn cõi Tịnh
Độ đều là Tịch Quang, mà ngay cả đời ác ngũ trược, tam đồ ác đạo, không sự gì
Phật chẳng thấy là Tịch Quang. Vì thế nói: “Tỳ Lô Giá Na ở khắp mọi nơi. Chỗ
đức Phật ở, gọi là Thường Tịch Quang”.
“Khắp mọi nơi là Thường Tịch Quang” thì chỉ bậc đã chứng ngộ viên mãn Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na
quang minh chiếu khắp mới có thể thụ dụng, còn mọi người khác đều mới chỉ chứng
vài phần. Từ Thập Tín trở xuống cho đến phàm phu, về Lý thì có [Thường Tịch
Quang Tịnh Độ], nhưng về Sự thì chẳng có. Nếu muốn hiểu rõ, hãy nghiên cứu phần
luận về bốn cõi Tịnh Độ trong sách Di Đà Yếu Giải; sách Phạm Võng Huyền Nghĩa
cũng giảng đầy nghĩa này (Tỳ Lô Giá Na,
Hán dịch là Quang Minh Biến Chiếu, hoặc Biến Nhất Thiết Xứ, chính là cực quả
rốt ráo của chư Phật, là hiệu chung của những vị đã chứng viên mãn Pháp Thân
thanh tịnh. Viên Mãn Báo Thân Lô Xá Na cũng thế. Như Thích Ca, Di Đà, Dược Sư,
A Súc Bệ v.v... chỉ là những danh hiệu riêng của các Hóa Thân Phật mà thôi. Chữ
Lô Xá Na, Hán dịch là Tịnh Mãn, do hết sạch Hoặc nghiệp, viên mãn trọn vẹn
phước huệ, nên ước theo quả báo do Trí Đức và Đoạn Đức cảm thành mà gọi như
vậy).
Lại cần
phải nên biết: Thật Báo và Tịch Quang vốn là một cõi. Ước theo quả cảm bởi xứng
tánh thì gọi là Thật Báo, ước theo Lý được chứng rốt ráo thì gọi là Tịch Quang.
Sơ Trụ mới dự vào Thật Báo, chứng được một phần Tịch Quang. Diệu Giác mới là
thượng thượng Thật Báo, rốt ráo Tịch Quang. Như vậy thì từ Sơ Trụ cho đến Đẳng
Giác đều chỉ chứng được vài phần hai cõi này, đối với cực quả Diệu Giác thì hai
cõi ấy đều là rốt ráo.
Nói đến
Thật Báo là chỉ ước về phần chứng, nói đến Tịch Quang là chỉ ước về cứu cánh.
Tịch Quang vô tướng, Thật Báo có đủ cả Hoa Tạng thế giới hải vi trần số vi diệu
trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn. Ví như hư không vốn chẳng phải là các tướng,
nhưng hết thảy các tướng đều do hư không mà phát hiện. Lại như gương báu rỗng
sáng, trong suốt, trọn chẳng có một vật gì, nhưng người Hồ đến liền hiện bóng
người Hồ, người Hán đến liền hiện bóng người Hán. Thật Báo và Tịch Quang tuy
một mà hai, tuy hai mà một. Vì muốn cho người ta dễ hiểu, nên nói là hai cõi.
* Trong
bốn cõi Tịnh Độ của Cực Lạc, người đới nghiệp vãng sanh sống trong Đồng Cư,
người đoạn Kiến Hoặc sống trong Phương Tiện, người phá vô minh sống trong Thật
Báo, người hết sạch Vô Minh trụ trong cõi Tịch Quang. Thêm nữa, Thật Báo là nói
theo quả báo cảm thành, Tịch Quang là nói theo lý tánh đã chứng, chúng vốn
thuộc cùng một cõi, nhưng giảng như vậy cho người ta dễ hiểu. Vì thế, người
phần chứng thuộc vào Thật Báo, người mãn chứng thuộc về Tịch Quang. Thật ra,
trong cả hai cõi đều có đủ cả phần chứng lẫn mãn chứng. Trong Văn Sao, tôi đã
từng trình bày tường tận. Cõi Đồng Cư tuy có đủ ba cõi kia, nhưng người chưa
đoạn Hoặc chỉ có thể thụ dụng cảnh Đồng Cư. Dù là cảnh của người đới nghiệp
vãng sanh, nhưng chẳng thể gọi cõi đó là cõi phàm phu, vì họ đều đạt được ba
thứ Bất Thoái.
8.13. Luận về xá-lợi
* Xá-lợi
là tiếng Phạn, Hán dịch là “thân cốt”
(xương nơi thân), hoặc dịch là “linh cốt” (xương thiêng), do sức Giới, Định, Huệ của người tu hành tạo thành,
chẳng phải do luyện Tinh, Khí, Thần mà đạt được. Đấy chính là biểu tượng tâm
hợp với đạo, tâm hợp với Phật, chẳng phải là sau khi đã chết, đem thiêu mới có,
mà [ngay trong khi còn sống], xương, thịt, tóc nơi thân đều có thể biến thành
xá-lợi cả.
Xưa có
vị cao tăng nhân tắm gội mà được xá-lợi. Ngài Tuyết Nham Khâm thiền sư cạo đầu,
tóc biến thành xá-lợi. Lại có người chí tâm niệm Phật, trong miệng có xá-lợi.
Lại có người khắc in sách Long Thư Tịnh Độ, tìm được xá-lợi trong bản khắc. Lại
có người thêu hình Phật, thêu kinh, nơi mũi kim đâm xuống liền được xá-lợi. Lại
có người chết đi, đem thiêu, xá-lợi vô số, môn nhân ai nấy đều được; có một
người [học trò] đi xa chưa về kịp, đến lúc trở về cúng quải trước tượng [thầy],
cảm khái đau buồn, liền nhặt được xá-lợi trước tượng. Ngày thiêu hóa thiền sư
Trường Khánh Nhàn, trời nổi trận gió lớn, khói tỏa xa ba, bốn mươi dặm. Khói
bay đến đâu, chỗ đó đều có xá-lợi, cùng nhau nhặt gom lại được hơn bốn thạch.
Nên biết rằng xá-lợi do đạo lực cảm thành, kẻ luyện đan chẳng biết nguyên do,
cứ ức đoán lầm lạc là do Tinh, Khí, Thần cảm thành.
8.14. Luận về tý hương
* “Tý hương” là đốt hương trên cánh tay.
Linh Phong lão nhân (tổ Trí Húc Ngẫu Ích)
hằng ngày trì hai kinh Lăng Nghiêm, Phạm Võng, nên Ngài thường đốt hương. Chỉ
vì hết thảy chúng sanh không ai chẳng tiếc thân mạng, bảo trọng thân mình; đối
với những loài khác thì giết thân chúng, ăn thịt chúng, tâm càng vui vẻ, còn
chính mình bị muỗi đốt, gai đâm, sẽ khó thể chịu đựng. Trong các kinh Đại Thừa
như Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Phạm Võng v.v.., đức Như Lai khen ngợi khổ hạnh, dạy
đốt thân, cánh tay, ngón tay để cúng dường chư Phật hòng đối trị tâm tham và
tâm yêu tiếc, bảo trọng tự thân. Trong Lục Độ, pháp này thuộc về Bố Thí Độ.
Bố Thí
có nội, ngoại bất đồng. Ngoại Bố Thí là quốc thành, vợ con, nội bố thí là đầu,
mắt, tủy, não. Đốt hương hay đốt thân đều gọi là Xả, phải chí tâm khẩn thiết,
ngưỡng mong Tam Bảo gia hộ, chỉ mong ta lẫn người nghiệp tiêu, huệ sáng, tội
diệt, phước tăng (nói là ta, người, nhưng
thật ra là vì mình. Lại đem công đức ấy hồi hướng cho pháp giới chúng sanh, nên
gọi là ta người); trọn chẳng được mảy may khởi tâm cầu tiếng tăm, cầu phước
lạc nhân thiên thế gian, chỉ vì trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh mà
làm thì công đức sẽ vô lượng, vô biên, chẳng thể nghĩ bàn. Đấy gọi là tam luân
thể không[21], bao gồm trọn vẹn Tứ Hoằng Thệ, do tâm nguyện nên công
đức rộng lớn, do tâm nguyện nên chóng đạt được quả báo.
Nếu như
tâm chuộng hư danh, chỉ dùng cái tâm chấp trước mà bắt chước thực hiện cái hạnh
trừ khử chấp trước thì đừng nói là đốt hương trên cánh tay, dù đốt cả toàn
thân, vẫn chỉ là khổ hạnh vô ích! Ấy là vì do tâm chấp trước, vì mong được danh
dự, chẳng hiểu nghĩa lý “tam luân thể không”, mà cũng chẳng gồm trọn Tứ Hoằng
Thệ Nguyện; khiến cho pháp phá trừ Thân Kiến của Như Lai trở thành pháp khiến
cho Thân Kiến càng thêm kiên cố. Tội phước do tâm mà phân biệt, quả báo do tâm
mà sai khác. Vì thế, kinh Hoa Nghiêm nói: “Bò uống nước thành sữa. Rắn uống
nước thành nọc độc. Kẻ trí học thì chứng Niết Bàn, người ngu học càng tăng thêm
sanh tử!”
* Tâm Bồ
Tát giống hệt như thái hư, không gì là chẳng bao quát, vì muốn lợi lạc chúng
sanh, nên bày mọi phương tiện, trước là dùng dục để lôi kéo [chúng sanh], sau
đó mới khiến cho họ nhập Phật trí. Chớ dùng tri kiến phàm phu để suy lường lầm
lạc. Vì các Ngài đã chứng Pháp Nhẫn, trọn không còn có nhân ngã, chỉ muốn nhiếp
thọ hết thảy chúng sanh vào biển pháp đại giác của Như Lai. Nếu so đo, tính
toán, sẽ thuộc về tình kiến, chẳng thể ngầm khế hợp với đạo vô nhân ngã.
Nói “bố thí đầu, mắt, tủy, não” là sự thật,
còn nói [bố thí cả] kỹ nữ (kỹ nữ là những
cô gái làm nghề ca múa. Nói đến Kỹ thì Kỹ (妓) có nghĩa là ca múa), thể nữ... chẳng qua là để diễn tả tâm bố thí rộng lớn
của Bồ Tát, chớ vì từ hại ý, chấp chết cứng vào lời nói. [Nếu chấp câu nguyện] “nguyện kỹ nữ đầy dẫy trong A-tăng-kỳ thế
giới” [là sự thật] thì biết an bài họ vào đâu đây? Câu nói ấy nhằm nêu rõ
Bồ Tát đã bỏ cả trong lẫn ngoài, trọn chẳng tham tiếc, trong thì bỏ cả đầu,
mắt, tủy, não, ngoài thì bỏ quốc thành, vợ con, chẳng sanh tham chấp đối với
bất cứ một pháp nào. Vì thế, ở trong sanh tử chỉ riêng Bồ Tát được giải thoát.
Những kẻ
nhận bố thí kia do được nguyện lực của Bồ Tát nhiếp trì, nên sẽ ngay trong lúc
này hoặc trong đời sau, không kẻ nào chẳng đích thân được hưởng lợi ích, liễu
sanh thoát tử; như vua Ca Lợi cắt chặt thân thể [Nhẫn Nhục tiên nhân], sau này
trở thành người được [Phật] độ đầu tiên là ngài Kiều Trần Như. Phàm phu tiểu
tri tiểu kiến há có thể suy lường tâm đại Bồ Đề lượng như thái hư ư?
Phải
biết rằng: Phàm phu chưa đắc Pháp Nhẫn, trong tâm ngưỡng mộ đạo Bồ Tát, nhưng
hành sự phải thuận theo lẽ thường của phàm phu. Nếu không, sẽ có thể gây trở
ngại cho việc gìn giữ, duy trì đạo pháp. Nếu chưa chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn, dù
chẳng duy trì pháp đạo, cũng chẳng nên học theo Bồ Tát bỏ đầu, mắt, tủy, não
v.v... bởi tự lực chẳng đủ, chẳng kham nhẫn thọ, mình lẫn người đều chẳng được
lợi ích gì cả! Phàm phu cứ căn cứ theo những điều phàm phu có thể làm được mà
làm thì mới nên.
8.15. Luận về cảnh giới
* Người
niệm Phật lâm chung được Phật tiếp dẫn; đấy là chúng sanh và Phật cảm ứng đạo
giao, dù chẳng lìa khỏi tâm nghĩ tưởng, nhưng chẳng thể nói là [cảnh giới ấy]
chỉ do một mình tâm tưởng hiện, tuyệt đối chẳng có chuyện Phật, Thánh đến
nghênh tiếp! Tâm tạo địa ngục, thì lúc lâm chung, tướng địa ngục hiện. Tâm tạo
Phật quốc, thì lúc lâm chung, tướng Phật quốc hiện.
Nói “tướng tùy tâm hiện” thì được, nhưng nói
“chỉ có tâm, không có cảnh” thì chẳng
được. Nếu bậc Đại Giác Thế Tôn nói “chỉ
có tâm, không có cảnh” thì chẳng có lỗi gì, chứ nếu các hạ nói như vậy, ắt
sẽ rớt vào tri kiến đoạn diệt, ắt thành tà thuyết phá hoại pháp môn tu chứng
của đức Như Lai; chẳng thể không dè dặt! Nếu nói tỉ mỉ mỗi điều, ắt rất tốn bút
mực. Biết một, ắt sẽ suy được cả ba, không còn sót một nghĩa nào.
* Phải
biết rằng: Hiện tại không có pháp nhất định. Do cái thấy của mỗi người khác
nhau, nên hãy tạm gác những cảnh giới của Phật, Bồ Tát lại đó, chỉ dùng những
cảnh phàm tiểu để giảng rõ. Ông Tử Tấn là con vua Châu Linh Vương, học đạo tiên
bảy ngày, khi xuất hiện ở Hầu Sơn thì đã qua đời Tấn. Vì thế mới có thơ rằng:
Vương tử
khứ cầu tiên,
Đan
thành[22] nhập cửu thiên,
Động trung phương thất nhật,
Thế thượng kỳ thiên niên.
(Vương tử học đạo tiên,
Thành đạo dạo cửu thiên,
Trong động chỉ bảy bữa,
Trần gian gần nghìn niên)
(Chữ
“kỷ” (幾) phải đọc giọng bằng, có nghĩa là
“gần”. Từ đời Châu Linh Vương đến nhà Tấn, thời gian dài gần một ngàn năm).
Lại như ông Lã Thuần Dương gặp Chung
Ly Quyền trong quán trọ ở Hàm Đan, ông Chung khuyên họ Lã học đạo Tiên, họ Lã
mong được phú quý rồi mới học. Ông Chung trao cho ông Lã một cái gối bảo hãy
ngủ một giấc. Họ Lã mộng thấy mình làm quan từ chức nhỏ đến chức lớn, rồi làm
đến Tể Tướng. Năm mươi năm phú quý vinh hoa, thật ít có trong đời. Con cháu đầy
nhà, thường sung sướng, chẳng có tai ương gì. Sau vì một chuyện chẳng hợp ý bề
trên, bèn tự thoái quan. Lúc tỉnh giấc ra, chủ quán trọ còn đang nấu nồi cháo
kê vàng [chưa chín]! Trong mộng thấy ra ngoài cầm quân, vào triều làm tể tướng,
bao nhiêu là chuyện lớn, thời gian lâu cả năm mươi năm, đến khi tỉnh giấc, nồi
cháo kê vàng vẫn chưa nhừ. Đấy chẳng qua là cảnh do tiên nhân biến hiện, mà còn
có thể trong một niệm biến hiện những sự nghiệp, cảnh giới của cả năm mươi năm;
huống hồ là cảnh giới của Phật là vị trời trong trời, là thánh của các thánh,
[hoặc cảnh giới] của các vị đại Bồ Tát đã chứng Pháp Thân? Vì thế, ngài Thiện
Tài vào trong lầu gác của đức Di Lặc, vào trong một lỗ chân lông của đức Phổ
Hiền, đều ở trong mười phương thế giới hành lục độ vạn hạnh trải qua Phật sát
vi trần số kiếp. Xem đoạn văn ấy, ông còn có thể suy lường hay chăng?
Phải biết rằng: Ba đời không có thật
thể, còn là phận phàm phu thì chỉ thấy được cảnh giới của phàm phu, chớ nên vin
vào cảnh giới phàm phu trông thấy để bảo cảnh giới của Phật, Bồ Tát cũng giống
như thế, chẳng có gì khác! Nay tôi dùng ví dụ để giảng rõ: Như gương soi tỏ mấy
mươi tầng núi sông, lầu gác, quả thật chẳng có gần xa, nhưng gần xa rành rành!
Sắc pháp thế gian còn như thế, huống là bậc đã chứng tâm pháp duy tâm tự tánh
ư? Bởi thế mới nói: “Ư nhất hào đoan, hiện bảo vương sát, tọa vi
trần lý, chuyển đại pháp luân” (trên
đầu sợi lông, hiện cõi bảo vương, ngồi trong vi trần, chuyển đại pháp luân).
Mười đời xưa nay, trước sau chẳng
lìa đương niệm (một niệm hiện tại),
vô biên cõi nước chẳng xa cách [một khoảng nhỏ bằng] đầu sợi lông! Phàm những
gì thuộc về cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn thì hãy nên ngửa tin lời Phật, đừng
suy lường xằng bậy. Nếu như khẩn thiết đến cùng cực, sẽ tự hiểu rõ hết, cũng
chẳng cần phải hỏi ai khác cả. Nếu chẳng khẩn thiết, chí thành, dù ra sức lễ
bái, trì tụng, nhưng cứ suốt ngày cuồng vọng suy lường những cảnh giới mà phàm
phu chẳng thể suy lường thì có khác gì đi theo vết xe đổ của pháp sư Huyễn
Nhân, dù có muốn chẳng vướng lấy tội báo báng Phật, báng Pháp, báng Tăng thì
cũng chẳng thể được!
*
Biết lệnh nghiêm[23]
có rất nhiều điều linh cảm, tôi khôn ngăn bội phục. Như ước về lúc thọ pháp, nếu
Đại Sĩ cùng thiên long bát bộ cùng hiện thì Mật Tông vẫn có cấm giới “chẳng cho
tuyên truyền diệu cảnh”. Đấy phải chăng là vì lòng sùng phụng trong sạch, bền
chắc mà Ngài thuận lòng thị hiện chăng? Nếu hiểu như vậy, nhất định [người được
thấy diệu cảnh đó] phải có sở chứng. Nếu [người ấy] không có sở chứng, nhất
định thánh chẳng tùy tiện ứng hiện suông!
Còn “thấy ứng thân” như luận Khởi
Tín đã nói thì đó là tình cảnh của người niệm Phật lúc lâm chung, vì chưa phá
được vô minh nên Ứng Thân, Báo Thân, và Pháp Thân [mà người ấy] được thấy đều
chẳng phải là do thiện căn của người ấy mà được thấy. Bồ Tát ứng hiện tại Phạm
Âm động ở Phổ Đà cũng là phương tiện quyền biến nhằm tăng trưởng tín tâm cho
chúng sanh, tuy người người được thấy, nhưng chẳng thể lấy đó làm chứng cứ. Nếu
cứ vin vào đó, ắt sẽ khiến cho hết thảy mọi người đều dựa dẫm vào đó mà đồn
thổi. Người xưa được thấy Bồ Tát Văn Thù ở Ngũ Đài rất nhiều, nhưng đều là
những vị có đại nhân duyên hoặc là có công phu tu tập sâu dầy, hễ ai gặp Ngài
đều có chứng ngộ giải nhập.
Năm Quang Tự thứ mười hai (1886),
Quang triều bái Ngũ Đài, trước hết, ở phố Lưu Ly Xưởng[24]
của Bắc Kinh, tìm tác phẩm Thanh Lương Sơn Chí khắp nơi nhưng chỉ tìm được một
bộ, thường xem hằng ngày. Do trời lạnh, đến tháng Ba mới đến núi. Ở trên núi
hơn bốn mươi ngày, thấy những người lên núi triều bái, đa số nói họ được thấy
Bồ Tát Văn Thù, nhưng người thật sự hành trì rất ít. Vì thế mới biết là những
người lên núi triều bái nói được thấy Bồ Tát đều chỉ nói dựa theo những tích
chuyện của cổ nhân để khoe khoang đó thôi. Nếu ai thật sự được thấy, người ấy
ắt sẽ vàng thau khác hẳn với những kẻ thuận miệng nói hùa theo. Nếu không, ngài
Văn Thù chẳng tự trọng, dễ dãi hiện thân, còn ra thế nào nữa?
“Lý
tức Phật” hết thảy chúng sanh đều có, chẳng phải là chỉ riêng người
nghịch trần hiệp giác. Nếu là hạng nghịch trần hiệp giác thì đã thuộc về “danh tự tức Phật”. Ông X. nọ [khoe] khi
nhập định giống hệt như Tỳ Lô Giá Na, khi xuất định vẫn là phàm phu, nhưng
chẳng biết hổ thẹn, còn lớn tiếng khinh người. Nếu thật sự giống hệt như Tỳ Lô
Giá Na, quyết chẳng đến nỗi vẫn là phàm phu! Ông ta toan dùng Mật tông để lòe
người, chẳng biết rằng: Dù Quang chẳng biết Mật tông đi nữa, lẽ nào chẳng biết
đúng sai, dễ hồ lung lạc được ư?
8.16. Luận về thần thông
* Thiền sư Đạo Tế là bậc thánh nhân
đại thần thông. Ngài muốn khiến cho hết thảy mọi người sanh tín tâm, nên thường
hiển hiện những sự chẳng thể nghĩ bàn. Ngài ăn thịt, uống rượu để giấu kín đức
của bậc thánh nhân, vì muốn cho những kẻ ngu tưởng Ngài là kẻ điên rồ, không có
pháp tắc; nhân đó, chẳng tin tưởng Ngài cho lắm. Nếu không làm như thế, Ngài sẽ
chẳng thể trụ trong thế gian. Phật, Bồ Tát hiện thân, nếu thị hiện giống như
phàm phu thì các Ngài chỉ dùng đạo đức để giáo hóa người khác, tuyệt đối chẳng
hiển hiện thần thông. Nếu hiển hiện thần thông, sẽ chẳng trụ trong thế gian
được; còn nếu hiện làm kẻ điên rồ, dù có hiển thị thần thông, cũng chẳng trở
ngại gì. Chớ bảo “người tu hành ai nấy đều nên uống rượu, ăn thịt!” Người lành
thế gian còn chẳng uống rượu, ăn thịt, huống hồ là đệ tử Phật! Muốn giáo hóa
chúng sanh mà chính mình chẳng y giáo phụng hành thì không chỉ làm cho người
khác chẳng tin, mà còn khiến cho họ thoái thất tín tâm nữa. Vì thế, chẳng được
học đòi uống rượu, ăn thịt.
Ngài (Đạo Tế) ăn những con vật chết, ói ra những con vật sống. Ông ăn
con vật chết vào, còn chưa thể ói ra thịt còn nguyên hình dạng, làm sao học đòi
Ngài ăn thịt cho được? Ngài uống rượu vào bèn nhả ra vàng để thếp tượng Phật,
khiến cho vô số cây gỗ lớn từ trong giếng trồi lên. Ông uống rượu vào, muốn cho
nước từ dưới giếng trào lên còn không được, làm sao học đòi Ngài [uống rượu] cho
được?
Truyện về Tế Công có đến mấy loại,
nhưng chuyện Túy Bồ Đề hay nhất. Gần đây có đến tám bản khác nhau lưu thông, đa
phần là những bản do người đời sau thêm thắt vào. Chuyện Túy Bồ Đề cả văn lẫn
nghĩa đều hay, những chuyện được kể trong ấy đều là những sự thực thuở ấy.
Người đời chẳng biết nguyên do, không bắt chước bừa bãi, thì cũng hủy báng xằng
bậy. Học bừa theo đó sẽ quyết định phải đọa địa ngục. Hủy báng xằng bậy tức là
dùng tri kiến phàm phu để suy lường thần thông của thánh nhân, cũng mắc tội
lỗi, nhưng so với kẻ học bừa theo, tội còn nhẹ nhiều hơn lắm. Thấy những điều
chẳng thể nghĩ bàn của Ngài, phải nên sanh lòng kính tin. Thấy Ngài uống rượu,
ăn thịt, chẳng chịu bắt chước làm theo, sẽ đạt được lợi ích, chẳng bị tổn hại.
* Người có thể hoằng đạo, chứ đạo
chẳng thể hoằng người. Thế gian loạn lạc là do ác nghiệp đồng phận của chúng
sanh cảm thành, các thuyết tà vạy cũng thế (cũng
do cùng nguyên do ấy). Phong tục thế gian biến đổi, lúc thoạt đầu đều là do
một hai kẻ phát khởi. Yên bình, loạn lạc, tà, chánh không gì đều chẳng như thế
cả; sao chẳng xét đến sức người để chuyển biến, lại chuyên quy vào sức thần
thông của Phật, Bồ Tát để hòng chuyển biến vậy? Chẳng phải là Phật, Bồ Tát
không thể hiển thị thần thông biến hiện, hiềm rằng chúng sanh nghiệp nặng, nên
[dù có biến hiện], cũng vẫn như không. Ví như mây dầy, sương đậm, mờ mịt, chẳng
thấy được mặt trời giữa ban ngày, bèn bảo là chẳng có mặt trời ư? Con người
cùng trời, đất gọi là Tam Tài; Tăng và Phật, Pháp gọi là Tam Bảo. Gọi như vậy
là do căn cứ vào ý nghĩa hỗ trợ, tán dương công sanh trưởng [của trời đất],
hoằng dương đạo pháp mà đặt tên. Ông cứ muốn bỏ nhân lực, bám vào sức của Phật,
Bồ Tát, trời đất, có còn đáng gọi là biết đạo hay chăng?
Đời đại loạn, đại bi Bồ Tát thị hiện
cứu vớt, bảo vệ, cũng chỉ cứu được kẻ hữu duyên; vì loạn lạc chính là đồng
nghiệp, còn túc nhân và hiện duyên (duyên
trong hiện tại) là biệt nghiệp. Có biệt nghiệp có thể cảm Bồ Tát thì sẽ
được Bồ Tát gia bị, cứu vớt, che chở, há nên bàn bạc luông tuồng ư? Những
chuyện phương tiện thuận nghịch cứu vớt, che chở chúng sanh của Bồ Tát chẳng
phải là chuyện mà kẻ hiểu biết lầm lạc, hẹp hòi có thể thấu hiểu được đâu nhé!
Nay tôi vì ông nói một thí dụ để từ đó mà suy ra, để rồi đừng nói “Bồ Tát đúng
là oan gia”, cũng như để tạo thành nền tảng tốt đẹp hòng nhập đạo thành Phật.
Chư Phật lấy tám khổ làm thầy để thành đạo Vô Thượng. Như vậy, Khổ là cái gốc
để thành Phật. Thêm nữa, Phật dạy đệ tử lúc ban đầu phải tu Bất Tịnh Quán. Quán
lâu ngày, ắt có thể đoạn Hoặc, chứng Chân, thành A La Hán. Như vậy thì Bất Tịnh
lại là cội gốc của Thanh Tịnh.
Người ở Bắc Câu Lô Châu hoàn toàn
chẳng khổ, nên chẳng thể nhập đạo. Châu Nam Diêm Phù Đề sự khổ rất nhiều, nên
người nhập Phật đạo để liễu sanh tử không thể tính nổi số. Giả sử thế gian trọn
chẳng có các nỗi khổ sanh, lão, bệnh, tử, đao binh, thủy, hỏa v.v... thì ai nấy
đều sống say chết ngủ trong lạc thú buông lung, có ai chịu phát tâm xuất thế để
liễu sanh tử đâu nhỉ? Ngay cả kẻ thống lãnh quân mạnh, giữ địa vị cao, gây bao
việc khổ não chúng sanh, không chừng là bậc đại bi thị hiện đó chăng? Nghĩa này
chỉ có thể nói cùng người thông suốt, đừng nói với kẻ vô tri, vô thức. Nếu là
người thông suốt, dù thật sự [gặp gỡ] ác ma, vẫn có thể đạt được lợi ích; còn
người vô tri vô thức nếu biết đến nghĩa này, ắt sẽ chẳng biết phát tâm tu hành,
trái lại còn hủy báng Phật pháp. Ví như dùng thuốc, trẻ nhỏ chẳng thể uống
thuốc, bèn bôi thuốc lên vú, dù nó không uống cũng thành uống. Ông toan làm bậc
thông suốt, nhưng triển khai rộng lớn nghĩa này thì hại người rất nhiều, lợi
người rất ít. Xin hãy im lặng, đừng bàn nói ẩu tả. Cảnh giới của Phật, Bồ Tát,
phàm phu chẳng thể suy lường được!
8.17. Luận về bí truyền
* Nay các ngoại đạo, không đạo nào
chẳng dùng cách bí truyền để dẫn dụ, khêu gợi kẻ vô tri theo đạo của họ. Lúc
nguyện gia nhập, ắt phải phát thệ: Từ rày về sau, nếu phản lại đạo, ắt sẽ mắc
ác báo như thế này, như thế nọ. Thật sự ra, phần nhiều [các “đạo” ấy] là những
pháp dối người. Do trót phát thệ, dù có biết những sai trái trong đạo, cũng
chẳng dám trái nghịch hoặc phơi bày ra. Cách phát thệ bí truyền của ngoại đạo
ràng buộc, làm con người lầm lạc quá đáng vậy.
Đức Phật ta chẳng có pháp bí truyền;
đối với một người, Ngài cũng nói như thế, đối với vạn người, Phật cũng dạy như
thế. Cửa đóng, then cài, bên ngoài đặt người tuần hành canh gác, chỉ cho một
người vào, thì thầm chẳng cho người ngoài nghe được, những đạo như thế chẳng có
chuyện quang minh, chánh đại gì đâu! Vì mong các vị hiểu được tệ nạn ấy, nên
tôi mới lược thuật vậy!
* Nếu có bí quyết mầu nhiệm chỉ khẩu
truyền ở chỗ kín đáo thì chính là tà ma ngoại đạo, chẳng phải là Phật pháp.
8.18. Luận về cầu cơ
* Những lời giáng cơ trong đàn cầu
cơ đa phần là do loài linh quỷ dựa dẫm vào tri thức của người xoay cơ mà nói
ra. Nếu nói về đạo lý thế gian còn đúng nhiều, chứ nói đến Phật pháp thì do
chính mình chẳng biết, bèn bịa đặt những lời nhảm nhí.
* Cầu cơ đa phần là các linh quỷ giả
mạo Phật, tiên, thần, thánh. Những quỷ kém cỏi chẳng có sức thần thông, những
quỷ khá hơn sẽ biết được tâm người, nên dựa dẫm vào sự thông minh và tri thức
của người [phò cơ] để nói này nói nọ.
Ông Kỷ Văn Đạt nói: “Cầu cơ đa
phần là linh quỷ giả danh giáng cơ. Tôi cùng người anh tên là Thản Nhiên cùng
phò cơ. Tôi biết làm thơ, nhưng chữ viết không ra gì. Tôi phò cơ thì thi từ mẫn
tiệp, nhưng chữ viết nguệch ngoạc, xiên xẹo. Thản Nhiên phò cơ thì thi từ tầm
thường, nhưng chữ viết sắc sảo. Đối với những quỷ giả mạo cổ nhân, nếu chú tâm
hỏi những điểm bí nhiệm, quan yếu, bèn nại cớ năm tháng lâu xa, chẳng còn nhớ
gì nữa, nên biết chẳng phải là thật”.
Như vậy thì sự linh ứng của quỷ là
chúng có thể dựa vào những điều đã biết trong tâm của người hiện tại để mượn
dùng. Đối với những điều tuy có trong thức điền, nhưng trong cái thấy biết hiện
tại của đương nhân không có, hoặc người ấy chẳng biết đến nghĩa đó thì quỷ
chẳng thể dẫn ra để dạy người ta [về điều ấy được]. So với Tha Tâm Thông của
bậc nghiệp tận tình không bèn khác nhau một trời, một vực, nhưng xét về khí
phận thì có vẻ tương tự mà thôi. Tôi lại chỉ sợ quý vị bị mê hoặc bởi những lời
giáng cơ, nên chẳng thể không dẫn chứng để phân trần vậy.
* Gần đây, các đàn cầu cơ ở Thượng
Hải rất thịnh hành. Những lời khai thị sửa lỗi, hướng thiện, tiểu luân hồi,
tiểu nhân quả [của các đàn cơ ấy] đều rất có ích đối với thế đạo nhân tâm, nhưng
những lời giảng về cõi trời, về Phật pháp, toàn là những lời lẽ quàng xiên.
Chúng ta là đệ tử Phật chẳng thể bài xích pháp ấy, vì sẽ mắc lỗi ngăn trở người
khác hướng thiện, nhưng cũng chẳng thể phụ họa, tán dương pháp ấy, bởi những
lời giáng cơ về Phật pháp toàn là ức đoán, chỉ e gây thành cái họa hoại loạn
Phật pháp, lầm lạc chúng sanh.
8.19. Luận về luyện đan
* Phật pháp chỉ dạy người ta
dứt ác tu thiện, minh tâm kiến tánh, đoạn Hoặc, chứng Chân, liễu sanh thoát tử.
Toàn bộ Đại Tạng Kinh trọn chẳng có lấy một chữ dạy người ta vận khí luyện đan,
cầu thành tiên bay lên trời, trường sanh bất lão chi cả.
Thời kỳ đầu Dân Quốc, gã dân ma Liễu
Hoa Dương soạn Huệ Mạng Kinh, tận dụng kinh Phật, lời Tổ để chứng thực pháp
luyện đan, xoay chánh thành tà, dùng pháp báng pháp. Người chưa mở mắt thấy tà
thuyết đó, ngỡ là chân thật, đánh mất chánh kiến mãi mãi. Lời lẽ, sự tu hành
của họ đều là phá hoại Phật pháp, nhưng vẫn hiu hiu tự đắc, cho mình may mắn
gặp được chân thừa, được nghe chánh pháp, đúng là nhận giặc làm con, nấu cát
thành cơm, một gã lòa dẫn lũ mù kéo nhau sa vào hầm lửa, chẳng đáng buồn ư!
Phàm một pháp luyện đan chẳng phải
là không lợi ích, nhưng chỉ có thể kéo dài tuổi thọ, cao nhất là thành tiên bay
lên trời, pháp ấy còn chưa phải là chân truyền của Lão Tử, huống hồ là chánh
đạo của Phật pháp ư? Khổng Tử nói: “Triêu văn đạo, tịch tử khả hĩ!” (sáng nghe đạo, tối chết cũng đành)”.
Lão Tử nói: “Ngô hữu đại hoạn vi ngô hữu thân” (ta có mối lo lớn là ta có thân). Nếu lãnh hội được những lời ấy,
sẽ chẳng bị bọn luyện đan kia mê hoặc. Hãy đọc kỹ các sách An Sĩ Toàn Thư, Cư
Sĩ Truyện, Bình Tâm Luận, Kê Cổ Lược[25]...
thì gương sáng đặt trên đài, tốt xấu tự phân, lò nung thử vàng, thật giả rạch
ròi.
* Trộm nghĩ nguồn gốc của Thích và
Đạo chẳng hai, nhưng nhánh nhóc, chi phái khác xa nhau một trời một vực. Phật
giáo dạy người ta trước hết tu Tứ Niệm Xứ Quán: Quán thân bất tịnh, quán thọ là
khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã. Đã biết thân, thọ, tâm, pháp đều
thuộc huyễn vọng, khổ, không, vô thường, vô ngã, bất tịnh thì Chân Như diệu
tánh sẽ tự hiển hiện.
Nếu ước theo nguyên sơ chánh truyền
thì Đạo giáo cũng chẳng coi trọng chuyện “vận khí luyện đan, chỉ cầu trường
sanh”; nhưng các đời sau tu hành theo Đạo Giáo, không một ai chẳng coi pháp ấy
là chánh tông! Phật giáo không có điều lớn lao nào chẳng bao gồm, không điều
nhỏ nhặt nào chẳng đề cập đến, không chỉ nêu tỏ đạo lý thân tâm tánh mạng đến
hết sạch không còn sót, mà ngay cả những điều nhỏ nhặt như hiếu, đễ, trung,
tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ... của Thế Đế, mảy may điều thiện nào cũng chẳng bỏ
sót. Chỉ riêng chuyện luyện đan vận khí, chẳng nhắc đến một chữ nào, nhưng [đệ
tử Phật] phải kiêng dè sâu xa [đừng luyện đan], bởi một đằng dạy người ta biết
thân tâm là huyễn vọng, một đằng lại dạy người ta chấp chặt thân tâm là chân
thật. Cái tâm vừa mới nói đó chỉ là tâm tùy duyên sanh diệt, chẳng phải là chân
tâm sẵn có. Một pháp luyện đan chẳng phải là không có lợi ích, nhưng chỉ kéo
dài tuổi thọ, cao nhất là thành tiên bay lên trời. Nếu bảo là pháp để liễu sanh
thoát tử thì chỉ là lời nói mớ mà thôi!
8.20. Luận về tu hành, xử sự
phải phù hợp, thích nghi
* Đối với pháp niệm Phật, phải tùy
theo sức lực của mỗi người để tùy tiện niệm ra tiếng, niệm thầm, niệm lớn
tiếng, niệm nhỏ tiếng, không cách nào là chẳng được, lẽ nào cứ một mực niệm lớn
tiếng đến nỗi tổn hơi thành bệnh vậy? Căn bệnh nặng của ông do khí bị thương
tổn mà ra, nhưng thật sự là do nghiệp lực từ vô lượng kiếp biến hiện. Do ông
tinh tấn niệm Phật, nên chuyển hậu báo thành hiện báo, chuyển báo nặng thành
báo nhẹ. Chẳng biết là do căn bệnh này sẽ tiêu được tội tam đồ ác đạo trong bao
nhiêu kiếp số. Phật lực khó nghĩ lường, Phật ân khó báo, hãy nên sanh lòng vui
mừng, nghĩ mình may mắn lớn lao, sanh lòng hổ thẹn to lớn, sanh lòng tin trong
sạch lớn lao, dùng một pháp Tịnh Độ để tự hành, dạy người, mong sao quyến thuộc
trong nhà, và hết thảy những ai hữu duyên cùng sanh Tây Phương thì mới chẳng
phụ căn bệnh này, mới khỏi phụ ân Phật đã vì mình hiện thân!
* Học Phật phải chuyên lấy việc tự
liễu ngộ làm chánh, nhưng cũng phải tùy phần, tùy sức làm các công đức. Phải là
người có sức lớn lao thì mới hòng triệt để buông xuống, triệt để đề khởi được.
Người căn cơ trung hạ nếu không làm gì hết sẽ trở thành biếng nhác, chây lười,
đã chẳng sốt sắng tự lợi, mà đối với việc lợi người cũng gác bỏ hết, trở thành
cái tệ như Dương Tử “dù nhổ một cái lông
để làm lợi cho người khác cũng chẳng chịu làm”[26].
Vì thế, phải hành cả hai pháp hỗ trợ cho nhau, nhưng chú trọng vào mặt tự lợi.
Cũng đừng hiểu lầm lời cư sĩ Nhị Lâm (Bành
Tế Thanh). Hiểu lầm sẽ đắc tội với ông Nhị Lâm chẳng nhỏ. Ý của Bành Nhị
Lâm là chuyên chú tự lợi, chứ chẳng phải là phế sạch chuyện tùy phần, tùy sức
dạy người khác tu theo pháp môn Tịnh Độ đâu nhé! Việc lợi người chỉ có hàng Bồ
Tát mới có thể gánh vác; ngoài ra, ai dám nói những lời lẽ lớn lao ấy! Người
căn cơ trung hạ tùy phần, tùy sức làm việc lợi người thì mới phù hợp với đạo lý
tu hành tự lợi, bởi lẽ, pháp môn tu hành có lục độ, vạn hạnh. Tự mình chưa độ
thoát thì chuyện lợi người vẫn thuộc về tự lợi, nhưng chẳng thể chuyên chú vào
hình thức bề ngoài để làm!
* Người tu hành thật sự thì dính vào
chuyện khác để làm chi? Chỉ vì do chưa thể buông cả toàn thân xuống, chưa thể
cắt đứt vạn duyên, thì chẳng ngại gì vun bồi kèm thêm trong lòng để vớt vát lấy
một nửa mà thôi.
* Niệm Phật tuy trọng chí thành,
thanh khiết, nhưng nếu bệnh nhân không đủ sức thì cứ giữ lòng chí thành niệm
thầm, hoặc niệm ra tiếng, công đức vẫn giống hệt như vậy. Bởi lẽ, Phật từ rộng lớn,
như cha mẹ lúc thấy con cái bệnh khổ, ắt chẳng nệ vào những nghi thức lúc bình
thường để trách móc, lại còn đến vỗ về, xoa nắn thân thể con, rửa sạch những dơ
bẩn. Nếu con bệnh đã lành mà vẫn đối xử với cha mẹ giống hệt như lúc còn đang
bệnh thì sẽ bị sét đánh vậy!
* Lập thân, xử thế, gìn lòng, dù là
ngu hay hiền đều phải cung kính, chẳng sanh lòng ngạo mạn. Hành sự thì thân
hiền, xa ngu, giữ ưu, bỏ kém. Như thế thì sẽ tránh khỏi nỗi tệ lây phải tính
xấu, cũng như giữ cho mình khỏi bị lầm lạc. Chuyện trong thiên hạ có cái lý
nhất định, nhưng không có pháp nhất định. Nếu chẳng dựa vào tình và sự để định
đoạt, cứ giống như chấp chết cứng vào toa thuốc để trị biến chứng thì người
sống sẽ ít, kẻ chết lại nhiều. Phải tình hợp với lý, pháp phù hợp sự thì mới nên!
* Vạn sự trong thiên hạ có cái lý
nhất định, nhưng khi gặp chuyện phải vận dụng cái lý nhất định để hành xử sao
cho thích nghi, lý phù hợp cùng quyền, pháp tương ứng với đạo thì mới nên!
* Phật pháp phải tùy theo căn tánh
của mỗi người mà thực hiện, chẳng thể chấp chặt vào quy cách rộng lớn thông
thường. Nếu trái nghịch căn cơ, sẽ khiến cho người ấy bị mất lợi ích liễu sanh
thoát tử thù thắng; cốt sao người ấy phải tự lượng căn tánh để tu trì [sao cho
thích hợp].
* Vào thời Phật pháp hưng thạnh dưới
các triều Đường, Tống, người tại gia phần nhiều dùng cách hỏa táng; nhưng [nay]
nên thuận theo thói tục chôn cất, vì sợ kẻ câu nệ luận bàn quàng xiên, chứ thật
ra thiêu thì gọn gàng hơn. Qua bốn mươi chín ngày hãy thiêu sẽ ổn thỏa. Còn
chôn thì trải qua nhiều năm, rất có thể hài cốt bị phơi bày. Cái lệ ba năm tang
chế chẳng dùng đến lễ nhạc cố nhiên phải tuân thủ.
Vào đời Thanh trước kia, quan văn có thể xin nghỉ cư tang, nhưng quan võ chẳng
được phép nghỉ cư tang bởi việc quân chẳng thể sao nhãng, nên chẳng tuân
theo quy chế. Hiện thời thịnh hành quan niệm “bỏ thói thường [chẳng tuân theo]
là bất hiếu”, dù giữ đúng thời gian tang chế, vẫn còn bị chê trách nữa là.
Chúng ta hãy nên theo đúng cổ lễ, nhưng phải châm chước để làm theo, tuy chẳng
thể thay đổi ngay, nhưng đừng có quá câu nệ là được!
* Liên xã mới mở phải có quy chế
nhất định, nữ nhân tuyệt đối chẳng được tham dự liên xã, đừng bắt chước nơi
khác buông tuồng chẳng thúc liễm, đến nỗi một pháp vừa lập, trăm mối tệ chen
chúc nẩy sanh. Rất quan trọng, rất quan yếu đấy!
* Trộm nghĩ thế đạo nhân tâm hiện
thời suy sụp đến cùng cực. Lại còn phung phí quốc khố, so với trước kia thuế má
nặng hơn gấp mấy lần, mọi thứ đắt đỏ, dân không lẽ sống. Tai trời họa người
giáng xuống liên tiếp. Gặp phải thời buổi này, muốn hoằng dương đạo pháp, chỉ
còn cách khuyên những người tìm đến học hãy học lấy yếu nghĩa (nghĩa trọng yếu) nhà Phật. Với cha nói
Từ, với con nói Hiếu, anh nhường, em kính, chồng xướng, vợ theo, ai nấy trọn
hết bổn phận để làm nền tảng [cho việc học đạo]. Ngoài ra, còn phải giữ lòng
Thành, chuyên chú lòng kính, khắc kỷ, giữ lễ, hiểu nhân rõ quả, mong thoát khỏi
luân hồi, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện, tín nguyện niệm Phật,
cầu sanh Tây Phương. Dù thiên tư cao đến cách mấy, cũng phải y theo đây mà
hành. Ngoài ra, những khi có thời gian, có sức thì nghiên cứu hết thảy các kinh
luận cũng chẳng trở ngại gì. Cốt sao tùy phận tu trì trong chính gia đình của
mình, chẳng cần phải cất dựng phòng ốc cho nhiều, lại phải sắp đặt nhân viên
cho đông, đây kia qua lại, bận bịu chức vụ, tốn phí thời gian[27].
Đấy chính là cách tương kế tựu kế để hoằng pháp bậc nhất trong hiện tại vậy.
* Muốn cầu vãng sanh hãy nên buông
bỏ thế gian này, cũng như buông bỏ cái tâm cuồng vọng quá phận mong giống như
Bồ Tát ở trong sanh tử độ thoát chúng sanh. Chuyện ấy đòi hỏi chính mình đã là
Bồ Tát thì mới được. Nếu chính mình còn là phàm phu, lại toan đảm nhiệm việc
ấy, thì không chỉ chẳng thể độ người, mà còn chẳng thể tự độ! Không ít thiện
tri thức thế gian mắc phải bệnh này, nhưng cứ ngỡ chính mình có tâm Bồ Tát.
Phải biết rằng: [Nếu có] tâm ấy, phải cầu vãng sanh trước đã thì mới có lợi
ích. Nếu mình đã là Bồ Tát thì chẳng cầu vãng sanh còn được, nếu không, tai hại
chẳng nhẹ! Tâm cuồng vọng quá phận chính là chướng ngại lớn nhất đối với chuyện
tu hành. Chớ nên không biết điều này.
* Trong lúc kiếp trược thời loạn
này, lẽ tất nhiên phải đề xướng nhân quả báo ứng và pháp môn Tịnh Độ thì mới
hòng có lợi ích thật sự. Những kẻ ham cao chuộng trội kia chỉ sợ những pháp ấy
mà được đề xướng thì tiếng tăm, giá trị của họ sẽ bị hủy hoại, nên “thà để
người khác chẳng hiểu, quyết chẳng chịu để môn phong của chúng ta thua kém”.
Hãy thử hỏi họ: Đối với những vật bên ngoài dùng để điều dưỡng sanh mạng, có
thể nào cứ cố chấp vào một pháp chẳng chịu biến đổi cho thông suốt hay chăng?
Mùa Hạ mặc áo mỏng, mùa Đông khoác áo cừu, đói thì ăn, khát thì uống. Mỗi ngày
còn phải chọn lấy những điều thích nghi; thế mà đối với việc hoằng dương đạo
pháp thì lại bất trí, chẳng theo đúng lẽ như việc dưỡng sanh, vẫn còn bảo là
thật sự muốn làm cho người khác được lợi lạc nữa ư?
* Tịch Viên liên xã ắt phải thanh
tịnh, thơm sạch, chủ nhân ắt phải cung kính chí thành, chớ nên ngạo mạn đối với
người khác, mà cũng chớ nên có thái độ, biểu hiện ban ân cho người khác. Đối với
mọi người đến tham dự, đều phải đối đãi ôn hòa, cung kính, khiêm tốn. Lúc chưa
niệm Phật cũng như lúc niệm Phật xong, đều chớ nên bàn chuyện nhà; có những
nghĩa trọng yếu nào đáng bàn luận, trình bày thì hãy bàn. Nếu không, ai nấy trở
về chỗ mình. Những ai quá nhỏ tuổi hãy nên tự niệm ở nhà. Nếu thường đến liên
xã, ở gần thì còn tạm được, chứ nếu đường xa, chỉ sợ có xảy ra chuyện ngoài ý
muốn, chớ nên không cẩn thận. Lập liên xã bất quá chỉ nhằm đề xướng [phong thái
niệm Phật] trong địa phương mà thôi, phải lấy việc niệm Phật tại gia làm chính.
* Người học Phật trước hết phải biết
nhân quả, xử sự dè dặt, cẩn trọng. Nếu đã có thể dè dặt, cẩn trọng thì tà niệm
sẽ tự tiêu, chẳng đến nỗi làm điều chẳng đúng pháp. Nếu trót làm, phải cực lực
đoạn diệt thì mới là tu hành chân thật. Nếu không, học một đường, làm một nẻo,
tri kiến càng cao, hành vi càng tệ. Đấy chính là căn bệnh đã lậm tận xương tủy
của những kẻ học Phật tự xưng là bậc thông gia ngày nay. Nếu có thể luôn lấy
việc tránh lỗi lầm làm điều mong mỏi thì cứ học một phần sẽ được một phần lợi
ích thật sự.
8.21. Luận về phú cường
* Trung Quốc nghèo hèn là vì chẳng
tuân theo lễ nghĩa. Tuân theo lễ nghĩa, lẽ đâu nghèo hèn đến nỗi ấy? Thử hỏi
nguyên nhân gây nên sự nghèo hèn, có nguyên nhân nào ngoài chuyện tham ăn của
đút lót, nhận của hối lộ để ngoại nhân hưởng lợi hay không? Ông chưa thấy rõ
gốc bệnh, nên mới bảo là “thuốc chẳng hiệu nghiệm”, có đáng gọi là trí chăng?
Nước ngoài cường thịnh, nhưng nước họ nhỏ, nếu họ chẳng đồng tâm hiệp lực, há
có thể tự lập ư? Trung Quốc mỗi người mỗi ý. Dù có đồng tâm đi nữa, nhưng ngoại
nhân đem lợi ra nhử, liền bị của đút lót xoay chuyển, không chỉ chẳng đoái hoài
đất nước và nhân dân, mà ngay cả thân mình cũng chẳng thèm đếm xỉa đến nữa!
Chẳng phải là việc phụng hành lễ nghĩa đã bị đánh mất đó sao?
Xưa Lâm Văn Trung Công[28]
đánh đuổi quân Di đủ chứng thực điều ấy. Từ đấy, bất cứ việc lớn việc nhỏ gì,
không việc nào lại chẳng vì Trung Quốc chu toàn cho thành tựu chăng? Người
Trung Quốc đa phần quên mất tám chữ (hiếu,
đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ), nên nước ngoài mới hùng mạnh như thế,
Trung Quốc mới yếu hèn đến thế. Nếu như ai nấy đều giữ gìn lễ nghĩa thì các
hàng hóa vô ích của ngoại quốc sẽ không có cách nào tiêu thụ được, mỗi năm
Trung Quốc sẽ tiết kiệm được cả mấy ngàn vạn vạn lạng vàng! Người Trung Quốc mà
bệ rạc thì phải nói thành thật là bệ rạc đến tột cùng! Mạnh Tử nói: “Độc cô thần nghiệt tử, kỳ thao tâm dã nguy,
kỳ lự hoạn dã thâm, cố đạt” (Bầy tôi cô đơn và con vợ lẽ do luôn phải bận tâm
về những nỗi nguy hiểm, nên biết lo nghĩ sâu xa, vì thế, họ thông đạt).
Ông tuy đọc sách hiểu đời, nhưng
chưa lãnh hội cái đạo đọc sách hiểu đời, nên mới hỏi như vậy. Đối với tình thế
hiện tại, đề xướng nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi, cải ác tu thiện, và tín
nguyện vãng sanh là cách vãn hồi kiếp vận, cứu quốc, cứu dân bậc nhất; đàm
huyền thuyết diệu [so ra] vẫn kém hơn. Muốn cứu đời nhưng chính mình chẳng tận
lực thực hành, sẽ chẳng có hiệu quả thật sự. Từ chính mình lan ra cả nhà, từ
một nhà lan đến cả ấp, từ mỗi ấp lan ra cả nước, một khi đã tạo thành nề nếp,
sẽ có hiệu quả chẳng thể lường được. Nếu không, dù có mơ vẫn khó thấy được!
* Gần đây, những người làm chuyện
lớn phần nhiều là trẻ tuổi, đa phần là lập dị, coi học theo ngoại quốc là đúng,
coi Nghiêu, Thuấn, Châu, Khổng chẳng ra gì. Kẻ chưa đắc chí bèn là người dân
cuồng vọng, ương ngạnh khó giáo hóa. Kẻ đã đắc chí liền thành phường hại nước
mọt dân. Vì thế, thiên tai nhân họa xảy ra liên tiếp, vận nước nguy ngập, dân
không lẽ sống. Học Phật cốt là để đối trị tập khí, cải ác hướng thiện. Nếu vô
sự, bèn miệt mài học Phật, nhưng hữu sự, bèn gạt phăng việc học Phật sang một
bên, thì chỉ mang cái tiếng suông, trọn chẳng có mảy may lợi ích thật sự gì!
8.22. Luận về cách dự phòng
tai họa
* Đối với tình thế hiện tại, chỉ nên
tận tâm, còn chuyện họa, phước, cát, hung trong tương lai, chẳng thể dự đoán
được. Nếu có thể chí thành niệm Phật, niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, ắt sẽ có sự
chuyển biến âm thầm, chẳng đến nỗi vướng phải mối nguy hiểm to lớn. Nếu chẳng
dốc sức vào đây, dù vận dụng hết tâm cơ, mưu mẹo, vẫn khó đạt hiệu quả tốt đẹp,
bởi tình thế trong cõi đời biến huyễn, khó thể dự liệu nổi! Những kẻ vinh hoa,
phú quý hiển hách kia trong chốc lát còn bị tiêu tan hết sạch, huống gì bọn ta?
Khổng Tử nói: “Bất tri mạng, vô dĩ vi quân tử dã” (Kẻ chẳng biết mạng thì
chẳng thể coi là quân tử); nhưng
phải cực lực tu trì thì mới đáng gọi là Mạng. Nếu biếng nhác, chây lười, tánh
tình buông xuôi, dù đạt được hay mất đi điều gì thì cũng chẳng thể gọi là Mạng
được!
* Tình thế hiện nay là tình thế hoạn
nạn. Dù bảo là niệm Phật có thể diệt túc nghiệp, nhưng phải sanh lòng hổ thẹn
lớn lao, chuyển đổi cái tâm tổn người lợi mình, hành hạnh Bồ Tát lợi khắp chúng
sanh, dẫu cho túc nghiệp hiện ra, cũng sẽ đều nhờ Phật hiệu quang minh trong
đại Bồ Đề tâm để tiêu diệt hết sạch. Nếu trong đời trước hoặc trong xưa kia, đã
từng tạo nghiệp lớn, nay tuy thôi làm ác, nhưng chỉ niệm Phật qua quýt, ơ hờ,
thì công chẳng thắng nổi tội, rất có thể mắc phải ác báo. Chẳng phải là niệm
Phật vô ích, nhưng vì chưa phát Bồ Đề tâm, mà ác nghiệp lại rộng lớn, nên công
niệm Phật chẳng thể áp đảo ác nghiệp. Nếu có thể phát đại Bồ Đề tâm, bèn như
vầng mặt trời rạng rỡ giữa hư không, sương móc tiêu ngay lập tức. Người đời
phần nhiều là nửa đời tạo ác, sau đấy mới sám hối đôi chút, do bởi chưa thể
hoàn toàn không gặp phải ác báo, bèn nói “Phật pháp chẳng thiêng, tu trì vô
ích!” Cư sĩ chẳng coi Quang tôi là người ngoài, cố nhiên Quang chẳng thể không
cùng cư sĩ trình bày sơ lược nguyên do, ngõ hầu cư sĩ thoát khỏi đường mê, vượt
lên bến giác!
[1]
Cơm vua (vương thiện, 王膳): “Vương thiện”
là cỗ bàn của nhà vua. Đây là một điển tích lấy từ kinh Pháp Hoa, phẩm Thọ Ký:
Các vị La Hán như Ca Chiên Diên, Tu Bồ Đề, Mục Kiện Liên... nghe Phật chỉ dạy
đạo Nhất Thừa, bèn biết mình cũng có khả năng thành Phật, nhưng vẫn chưa đủ tự
tin, bèn cầu xin Phật thọ ký, giống như kẻ đói thấy cỗ bàn của vua chẳng dám
ăn, phải chờ vua cho phép. “Ăn no cơm
vua” ý nói vị Tăng trong đoạn thư này đã hiểu lý Nhất Thừa, đã tự tin mình
có khả năng thành Phật.
[2]
Trước khi hiểu đạo Phật, tổ Ấn Quang mê Nho, nên kịch liệt bài báng đạo Phật.
[3]
Thời xưa dùng những tấm đồng tròn, đánh bóng làm gương soi mặt.
[4] Phật sát vi trần số kiếp: Số kiếp nhiều như số vi trần
trong một cõi Phật.
[5]
Bạn bè xa cách nhau gọi là “khiết khoát”, nên khi viết thư, ta hay gọi người
bạn ở xa là “hiền khiết” (bạn hiền).
[6] Đắc pháp sư: Lãnh hội pháp, chứng ngộ pháp nơi vị nào
thì vị ấy gọi là “đắc pháp sư”.
[7]
Thô trì trọng giới: Giữ các giới trọng còn ở mức giới tướng, chưa hoàn toàn giữ
được giới tánh nên gọi là “thô trì”.
[8]
Lệnh thân: Tiếng gọi tỏ ý tôn trọng đối với mẹ của người khác.
[9]
Vị này có pháp hiệu là Khiết Tung, tự là Trọng Linh, tự hiệu là Tiềm Tử, mỹ
hiệu là Minh Giáo, quê ở Đàm Tân, Đằng Châu, là một vị cao tăng thuộc tông Vân
Môn, trụ tại chùa Linh Ẩn. Sư thường đội tượng Quán Âm trên đỉnh đầu, mỗi ngày
niệm thánh hiệu Quán Âm mười vạn câu, ngộ pháp nơi ngài Hiểu Thông của tông Vân
Môn, kinh sách văn chương thế gian không học mà tự biết.
[10] Có thể
tạm hiểu là “ngay nơi đây chính là cõi Thường Tịch Quang”, hoặc “hiện hữu ngay
tại nơi đây”, hoặc “có thể ngộ nhập ngay nơi đây, chẳng cần tìm nơi khác”.
[11] Năm
tông: Năm tông của nhà Thiền là Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Tào Động, Vân Môn và Pháp
Nhãn.
[12] Nguyên
văn “xuất gia nãi đại trượng phu chi sự,
phi tướng tướng sở năng vi” (xuất gia là chuyện của bậc đại trượng phu,
chẳng phải là tướng quân hay thừa tướng có thể làm được). Chúng tôi chỉ dịch là
bậc quyền cao chức trọng.
[13] Thời
Minh, tăng sĩ phải trúng tuyển kỳ khảo thí về nội điển mới được cấp giấy chứng
nhận (độ điệp) là Tăng sĩ thực thụ. Tăng sĩ không có độ điệp sẽ bị phạt tù,
đánh đòn, sung quân làm lính ở nơi xa xôi.
[14] Đại
Học vốn là một chương của sách Lễ Ký, chưa rõ ai là tác giả, thường được cho là
Tăng Tử (Tăng Sâm) viết. Thoạt đầu
Đại Học chẳng phân thành đoạn, nhưng Châu Hy trong sách Đại Học Chương Cú đã
chủ trương chia Đại Học thành mười chương nhỏ. Nội dung chủ yếu của sách Đại
Học bao gồm ba cương lãnh (minh Minh Đức,
thân dân, chỉ ư chí thiện) và tám điều mục (cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ).
[15] Cơ
Khoái Hội là con trai của Vệ Linh Công, thoạt đầu là Thái Tử nước Vệ. Do mưu
hại bà Nam Tử (chánh hậu của Vệ Linh Công), nên bị truất phế, phải chạy sang
đất Tấn, nương nhờ Triệu Giản Tử. Con trai của Cơ Khoái Hội là Cơ Triếp được
nối ngôi khi Vệ Linh Công mất, trở thành Vệ Xuất Công. Năm 481 trước Công
Nguyên, Cơ Khoái Hội đem quân về giành ngôi của con trai, trở thành Vệ Trang
Công. Vệ Xuất Công phải lưu vong. Tử Lộ bị giết trong trận tranh giành quyền
lực ấy.
[16] Thần
lâu hải thị (蜃楼海市:
lầu sò, chợ biển). Người cổ Trung Hoa tin ngoài biển có một giống sò rất lớn
gọi là Thần, hơi thở của chúng tạo thành những ảo ảnh nhìn xa như lầu gác, chợ
búa trên mặt biển
[17] Chữ
“thiên chân” ở đây chỉ diện mạo nguyên gốc của kinh điển.
[18] Ý nói
kinh điển lưu truyền như thế nào thì cứ chép đúng y như thế, đừng tự tiện sửa
đổi theo ý riêng.
[19] Gọi là
“thuần viên” vì chỉ giảng về pháp viên đốn. Gọi là “độc diệu” vì chỉ mình kinh
Pháp Hoa phô bày diệu nghĩa “hội tam quy
nhất, khai Tích hiển Bổn, hội Tích nhiếp Bổn”.
[20] Năm bộ
lớn là cách phán giáo chia các kinh điển do đức Phật đã nói thành năm thời kỳ:
Hoa Nghiêm, A Hàm, Bát Nhã, Phương Đẳng và Pháp Hoa - Niết Bàn
[21] Tam
luân thể không: Bản thể của ba luân đều không, tức là không thấy có người thí,
không thấy có người nhận, không thấy có vật được dùng để bố thí.
[22] “Đan thành” là thuật ngữ của Đạo Giáo, ý
nói nội linh đan đã luyện thành, tức là đã thành đạo tiên.
[23] Lệnh
nghiêm: Tiếng gọi cha người khác một cách tôn kính.
[24] Lưu Ly
Xưởng là một khu phố nổi tiếng về bán đồ cổ ở Bắc Kinh trong thời ấy.
[25] Sách
này có tên gọi đầy đủ là Thích Thị Kê Cổ Lược, do ngài Thích Giác Ngạn soạn, là
một bộ lược sử Phật giáo theo thể loại biên niên. Nội dung trích dẫn rất nhiều
truyện ký, văn tập, tự chí, bia, kệ v.v… nên sử liệu rất phong phú.
[26] Dương
Tử tức là Dương Châu (Chu), tên tự là Tử Cư, người thời Chiến Quốc, chủ trương
thuyết “vị ngã”: Làm điều lợi nhỏ nhặt dù bằng cái lông cho người khác cũng
chẳng chịu làm.
[27] Đây là
lời khuyên của Tổ dành cho ông Vương Dữ Tiếp, vì ông này tỏ ý muốn xây dựng đạo
tràng để làm chỗ tu trì.
[28] Lâm
Văn Trung Công chính là Lâm Tắc Từ (1785-1850), là người chủ trương chống Anh
trong cuộc chiến tranh Nha Phiến. Ông kiên quyết lệnh cấm thuốc phiện, đã thẳng
tay đốt bỏ hơn hai chục ngàn hòm thuốc phiện của ngoại quốc tại Quảng Đông khi
được vua Đạo Quang bổ làm Khâm Sai Đại Thần, kiêm Tiết Độ Thủy Sư tỉnh Quảng
Đông, cũng như bắt giam tay trùm thuốc phiện lớn nhất thời đó là Lancelot Dent
người Anh. Nước Anh đã tuyên chiến với Trung Hoa, tấn công Thiên Tân, Bắc Kinh,
Trực Lệ, Quảng Châu, Thượng Hải, Bảo Sơn. Nhà Thanh buộc phải ký hòa ước Nam
Kinh, và bồi thường chiến phí cho Anh và Pháp mỗi nước tám triệu lạng bạc. Lâm
Tắc Từ bị đày đi Tân Cương, mãi cho đến năm 1845 mới được phục chức làm Tổng
Đốc Vân Quý. Văn Trung là thụy hiệu của Lâm Tắc Từ.
Nhận xét
Đăng nhận xét