IV. Sớ Trùng Tu Ao Phóng Sanh Chùa Cực Lạc Ở Nam Tầm [1]
Bửu Quang Tự Đệ Tử Liên Hương dịch
Kiêng giết
phóng sanh về mặt Sự thì nông cạn, dễ thấy; nhưng về mặt Lý lại sâu xa, khó
hiểu rõ. Nếu chẳng hiểu rõ Lý, dù có làm chuyện này, trong tâm chắc chắn chẳng
chí thành, thương xót thiết tha, phước điền lợi ích cũng do tâm lượng mà trở
thành nhỏ nhoi, nông cạn. Nếu gặp phải kẻ vô tri ngăn trở, phỉ báng, [người
phóng sanh] sẽ bị kẻ đó xoay chuyển, khiến cho một dạ thiện tâm vì đó bị tiêu
diệt chẳng còn. Do vậy, chẳng ngại lắm lời giãi bày ý nghĩa, để những loài vật
đều được gội từ ân, loài người đều được vun bồi nền phước, ngõ hầu khẩn thiết
động đến lòng nhân sâu xa, diệt được sát báo cho ta lẫn người, cùng đều được về
cõi thọ, cùng vui tuổi trời. Lại nguyện đem công đức này hồi hướng Tây Phương
để vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, vượt thoát tam giới, làm đệ tử Phật Di Đà,
làm bạn tốt trong hải chúng. May ra sẽ được người đọc chú ý vậy!
Nhất niệm
tâm tánh của chúng sanh sống trên đất hay dưới nước, vốn quả thật chẳng hai,
chẳng khác gì với tam thế chư Phật; nhưng vì sức ác nghiệp đời trước chướng lấp
nên diệu minh chẳng thể hiển hiện, trầm luân trong dị loại, đến nỗi sự hay biết
hèn kém, ngoại trừ chuyện tìm cái ăn, tránh cái chết ra, trọn chẳng biết đến
điều chi khác nữa! Ví như tấm gương đồng quý báu lớn, trải bao kiếp bị bụi lấp,
chẳng những không có mảy may quang minh nào, ngay cả chất đồng của gương cũng
chẳng thể hiển hiện được, khác gì phế vật (vật
hư nát, vô ích)! Chợt gặp được người trí, biết là gương báu sẵn có đủ vô
biên quang minh chiếu trời soi đất, bèn ngày ngày chăm chú giồi mài. Thoạt đầu
bèn lộ chút chất gương, dần dần tỏa ra ánh sáng. Mài đến cùng cực thì ánh sáng
chiếu trời soi đất bèn hiển hiện toàn thể; người vô trí mới bèn quý trọng, xem
là vật quý báu nhất.
Phải biết:
Ánh sáng ấy gương vốn sẵn tự có, nào phải do mài mà có! Tuy là tự sẵn có, nhưng
nếu không có duyên giồi mài thì từ kiếp này sang kiếp khác cũng chẳng có ngày
tỏa ra quang minh. Tâm tánh của hết thảy trời - người chúng sanh lục đạo đều
giống như vậy. Do Hoặc nghiệp từ vô thỉ đến nay che lấp nên chẳng thể tỏ lộ
diệu minh sẵn có, mê trái chân tánh, tạo nghiệp sanh tử. Đức Đại Giác Thế Tôn
biết nhất niệm tâm tánh của các chúng sanh bằng với chư Phật; do vậy, đủ mọi
phương tiện tùy cơ thuyết pháp, khiến cho khắp mọi loài đều tu đạo Giới - Định
- Huệ, ngõ hầu đoạn Hoặc chứng Chân, khôi phục cái mình sẵn có, trọn vẹn phước
- huệ để chứng Pháp Thân.
Lại dạy
người đời phát tâm từ bi, kiêng giết, phóng sanh; ấy là vì ta và hết thảy chúng
sanh đều ở trong luân hồi, từ vô thỉ đến nay lần lượt sanh ra nhau, xoay vần
giết lẫn nhau. Bọn họ cố nhiên là cha mẹ, anh em trai, chị em gái, con cái của
ta, mà ta cũng là cha mẹ, anh em trai, chị em gái, con cái của mỗi một người
trong bọn họ. Bọn họ nhiều phen do ác nghiệp lực mà sanh trong loài người hoặc
sanh trong dị loại[2], bị ta giết
chóc; ta cũng nhiều phen do ác nghiệp lực mà sanh trong loài người hoặc sanh
trong dị loại, bị họ giết chóc. Trải bao kiếp lâu xa, sanh ra nhau, giết lẫn
nhau, trọn không ngơi ngớt! Phàm phu không biết, Như Lai thấy thấu suốt. Hễ
không nghĩ thì thôi, nếu nghĩ đến ắt khôn ngăn hổ thẹn, thương xót! Nay ta may
nhờ phước thiện đời trước, sanh trong loài người, cố nhiên nên cởi gỡ mối oán
kết, kiêng giết, phóng sanh, khiến cho hết thảy những loài có sanh mạng đều
được yên ổn; lại vì họ niệm Phật hồi hướng Tịnh Độ, khiến cho họ được độ thoát.
Nếu họ nghiệp nặng chưa thể vãng sanh ngay, ta bèn nhờ vào công đức từ thiện
này, quyết cầu lâm chung vãng sanh Tây Phương. Đã vãng sanh ắt sẽ siêu phàm
nhập thánh, liễu sanh thoát tử, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, dần dần chứng
được Phật quả.
Vả nữa, yêu
thương loài vật, phóng sanh thì bậc cổ thánh tiên hiền đều làm chuyện này. Vì
thế, kinh Thư có đoạn văn chim, thú, cá, ba ba đều được sống yên vui[3], Văn Vương
ân trạch thấm đến xương khô, huống chi loài vật có tri giác. Như Giản Tử thả
chim cưu, Tử Sản[4] nuôi cá,
Tùy Hầu giúp rắn[5], Dương Bảo
cứu chim sẻ[6]. Đấy là tâm
thánh hiền cùng dùng lòng nhân đối đãi với loài vật, dẫu họ không biết đến
những nghĩa lý: “Những loài có tri giác,
có cử động đều có Phật tánh, lần lượt thăng lên, đọa xuống, làm kẻ oán người
thân lẫn nhau, và tương lai quyết định thành Phật”. Đến khi đại giáo truyền
sang Đông, thì nhân quả ba đời và lý “chúng
sanh, Phật, tâm, ba thứ bình đẳng không hai” sáng lòa trong thế gian. Phàm
là bậc đại thánh đại hiền, không ai chẳng kiêng giết, phóng sanh, nhằm vãn hồi
sát kiếp để vun bồi quả phước, làm nền tảng để dứt nạn binh đao, vui hưởng tuổi
trời. Cổ nhân nói: “Dục tri thế thượng
đao binh kiếp, tu thính đồ môn bán dạ thanh” (tạm dịch: “Muốn biết đao binh
trong cõi thế, hãy nghe lò mổ giữa đêm thanh”). Lại nói: “Muốn cho thế gian không còn nạn đao binh thì trừ phi chúng sanh không
ăn thịt”. Do vậy, biết rằng: Kiêng giết, phóng sanh chính là khuôn mẫu tốt
đẹp để nhổ rễ lấp nguồn [tai nạn], cứu đời.
Vì thế, Trí
Giả đại sư đời Trần mua hơn sáu mươi chỗ ở Lâm Hải, Giang, Hỗ, Khê, Lương, cả
hơn bốn trăm dặm làm ao phóng sanh, xin sắc chỉ lập bia cấm ngặt đánh cá. Kẻ
nào bắt trộm làm càn sẽ bị mắc vạ. Đến niên hiệu Trinh Quán đời Đường (triều vua Đường Thái Tông) vẫn còn như
thế. Đến năm Càn Nguyên thứ hai đời Đường Túc Tông (759), vua hạ chiếu truyền
các châu trong thiên hạ lập ao phóng sanh, sai Nhan Chân Khanh[7] soạn bài
văn bia và viết bằng bút son; trong ấy có câu: “Đức vua ta lấy cả thiên hạ làm ao, hết thảy [các loài] trong toàn cõi
đều nhờ phước, nương sức Đà La Ni gia trì, cạn bờ mé phiền não sanh tử; suy đến
tận ngàn xưa, chưa hề phảng phất giống được như vậy”. Năm Thiên Hỷ nguyên
niên (1017) đời Tống Chân Tông, hạ chiếu truyền thiên hạ lập ao phóng sanh, Tây
Hồ ở Hàng Châu cũng trở thành ao phóng sanh của vua Tống. Đời Minh, đại sư Liên
Trì lập ao phóng sanh ở hai nơi là Thượng Phương và Trường Thọ. Bài Giới Sát
Phóng Sanh Văn của ngài lưu truyền khắp thiên hạ. Cho đến nay đã hơn ba trăm
năm, những người thông hiểu trong hàng Tăng - tục đều ngưỡng mộ cao phong, từ
bi cứu tế loài vật không thể tính kể. Nếu như có kẻ nói:
- Người quan
quả cô độc[8], bần cùng,
hoạn nạn, đâu đâu cũng có, sao không châu cấp, lại gấp rút lo lắng cho loài dị
loại chẳng liên quan gì đến ta? Đấy chẳng phải là điên đảo nơi chuyện thong thả
- gấp rút, nặng - nhẹ đó ư?
Đáp:
- Ông chưa
biết nguyên do đức Như Lai dạy người kiêng giết, phóng sanh. Tuy người và vật
khác nhau, nhưng Phật tánh vốn đồng. Do ác nghiệp nên chúng bị trầm luân trong
dị loại, ta do thiện nghiệp may được thân người. Nếu chẳng xót thương, giúp đỡ,
cứ mặc tình giết hại, ăn nuốt, thì một mai kia nếu phước ta hết rồi, tội của
chúng đã trả xong, khó tránh khỏi phải đền trả từ đầu, [đem thân mình] thỏa
miệng bụng của chúng. Phải biết đao binh đại kiếp đều do sát nghiệp đời trước
cảm thành. Nếu không có sát nghiệp, dẫu thân gặp phải giặc cướp, chúng cũng sẽ
khởi lòng lành, chẳng giết hại mình. Huống chi những tai nạn bất ngờ như ôn
dịch, nước, lửa thì người kiêng giết, phóng sanh rất ít gặp phải. Do vậy, biết
rằng: Che chở loài vật chính là tự che chở mình. Kiêng giết sẽ khỏi bị trời
giết, quỷ thần giết, trộm cướp giết, [khỏi bị] oán - thân giết nhau báo thù
trong tương lai. Những kẻ quan quả cô độc, bần cùng, hoạn nạn cũng nên tùy phần
tùy lực châu cấp cho họ, chứ nào phải người kiêng giết phóng sanh hoàn toàn
chẳng hành những điều công đức ấy! Tuy người quan quả cô độc rất đáng thương,
nhưng họ chưa đến nỗi lâm vào tử địa, còn loài vật nếu không bỏ tiền chuộc
mạng, sẽ lập tức phải lên chảo, thớt để thỏa bụng miệng con người!
Lại có kẻ
nói:
- Loài vật
vô tận, phóng sanh được mấy?
Đáp rằng:
- Phải biết
chuyện phóng sanh thật ra nhằm để phát khởi thiện tâm tối thắng “bảo vệ sanh
mạng mọi loài vật” của mọi người, ngõ hầu lãnh hội được ý nghĩa của chữ “Phóng”
(thả), trong tâm đã động lòng trắc
ẩn, ắt chẳng nỡ ăn nuốt. Đã không có người ăn nuốt thì người đánh bắt sẽ phải
thôi, khiến cho hết thảy loài vật dưới nước, trên mặt đất, trên hư không đều tự
tại bay, chạy, bơi lội trong nơi sinh sống của chúng. Như vậy, thành ra không
phóng sanh mà hóa ra là phóng sanh khắp tất cả. Đấy chẳng phải là “cả thiên hạ biến thành một cái ao” ư?
Dẫu không phải ai cũng đều như vậy cả, nhưng một người chẳng nỡ ăn thịt thì vô
lượng sanh mạng trên đất liền, dưới nước khỏi bị giết chóc; huống chi nào phải
chỉ có một người! Lại vì hiện tại, vị lai hết thảy đồng nhân đoạn trừ cái nhân
của quan quả cô độc, hoạn nạn, bần cùng, tạo cái duyên trường thọ, không bệnh,
phú quý, an lạc, cha con đoàn viên, vợ chồng giai lão[9] cho họ. Đấy
chính là làm chuyện châu cấp, cứu tế sẵn để đời đời kiếp kiếp trong vị lai mãi
mãi chẳng bị những nỗi khổ quan quả cô độc v.v… hưởng thụ dài lâu những niềm
vui sống lâu, giàu sang v.v… Đấy chẳng phải là “toàn nước được hưởng phước” ư? Há có nên coi thường gác bỏ? Ông
hãy nghĩ kỹ đi, kiêng giết, phóng sanh rốt ráo là khăng khăng vì con người hay
là khăng khăng vì loài vật, điên đảo nơi chuyện thong thả - gấp rút, nhẹ - nặng
vậy?
Phía ngoài
chùa Cực Lạc ở Nam Tầm từ trước đã có ao phóng sanh, nhưng do bờ vách chưa xây
nên bị sụp lở, lại thêm nhiều năm chưa được khơi vét, bùn lầy đầy ứ. Thường có
những người lành phải ra sông phóng sanh, dù phát thiện tâm nhưng sanh vật khó
được hưởng lợi ích. Sáng vừa được thả, chiều lại bị bắt, quá nửa là như vậy.
Nếu gần sông to thì dĩ nhiên nên thả xuống sông, nơi sông nhỏ trọn chớ nên thả
xuống. Viên Lâm đại sư lòng bất nhẫn, muốn đào sâu ao đó, phía ngoài đắp tường
vây bọc bảo vệ để có chỗ phóng sanh mà kẻ bắt cá trộm cũng không làm gì được! Ý
ấy cũng rất tốt lành, nhưng chưa tiến hành, đến khi Giác Tam đại sư từ Phổ Đà
đến đó, vừa trông thấy liền hợp ý, trở về chùa bàn bạc chuyện ấy, nhưng tôi đã
buông xuống vạn duyên, chuyên tu Tịnh nghiệp rồi [nên không thể cáng đáng việc
ấy]. Thầy Giác Tam kế thừa đầu mối cũ, muốn sự ấy chóng thành, nhưng công trình
rộng lớn, sức một mình Sư khó thể thành tựu, tính quyên mộ thiện tín toàn trấn
cùng giúp cho việc thù thắng, xin tôi viết lời tựa (phần sau lược đi).
THƯỢNG HẢI HỘ QUỐC TỨC TAI PHÁP HỘI PHÁP NGỮ HẾT
[1] Thị trấn Nam Tầm thuộc thành phố
Hồ Châu, tỉnh Chiết Giang.
[2] Dị loại: Khác chủng loại. Do
loài vật không thuộc loài người nên thường được gọi là Dị Loại.
[3] Nguyên văn: “Điểu, thú, ngư, miết hàm nhược”. Trong bài tựa cho cuốn Vệ Sinh Tập,
Tổ đã giải thích: “Nhược là thuận. Hàm
Nhược có nghĩa là đều được thuận theo thiên tánh, chẳng vướng mắc nỗi khổ bị
sát hại”. Ở đây, chúng tôi chỉ dịch tóm gọn là “chim, thú, cá, ba ba đều được sống yên vui”.
[4] Tử Sản (không rõ năm
sinh – mất năm 522 trước Công nguyên), tên thật là Công Tôn Kiều, tự Tử Sản, hiệu
là Tử Khương, sống vào thời Xuân Thu, người nước Trịnh. Ông chính là dòng dõi của
Trịnh Mục Công, nổi tiếng thông minh từ nhỏ, rất giỏi về cai trị, làm chức
Khanh đời Trịnh Giản Công, chấp chính suốt hai mươi ba năm, rất nhân từ. Ông tiến
hành nhiều cải cách quan trọng, chỉnh đốn quyền tư hữu ruộng đất của quý tộc để
nông dân có ruộng làm, định lại sắc thuế cho hợp lý hơn. Ông là người đầu tiên cho
biên soạn hình luật và cho khắc tân luật lên một cái đỉnh to đặt trong cung vua
để mọi người đều được biết luật. Ông chủ trương thuyết Nhân Bản, và cũng được
coi là một trong những Nho Gia điển hình trước thời Khổng Tử. Không rõ chuyện
nuôi cá của ông ta được trích từ điển tích nào.
[5] Đời Xuân Thu, Tùy Hầu (vua nước Tùy) đi ra ngoài chơi thấy một
con rắn bị người ta đánh gần chết, vứt trên vệ đường, động lòng thương xót, liền
sai tùy tùng đem thuốc cứu rắn, rồi đem thả đi. Ít lâu sau, rắn từ sông ngoi lên,
nhả tặng vua một viên minh châu để báo ân cứu mạng. Do vậy, viên ngọc ấy thường
được gọi là Tùy Hầu Châu, hoặc Linh Xà Châu. Sách Sưu Thần Ký mô tả viên ngọc ấy
như sau: “Kích thước tròn trặn chừng một
tấc, trắng muốt, ban đêm tỏa ánh sáng, có thể soi sáng cả gian phòng”.
[6] Có lần Dương Bảo vào Hoa
Sơn thấy con chim sẻ bị thương rơi xuống đất, máu me bê bết, cảm thương ông liền
đem về băng bó, chăm sóc, khi chim lành bèn thả đi. Chim tha đến bốn cái chén
ngọc, lại nói: “Mong con cháu ông sẽ trắng trong, tinh thuần như bạch ngọc”.
Đêm ấy, ông mộng thấy một vị trời mặc áo vàng đến bảo: “Tôi là con chim sẻ vàng
được ông cứu mạng. Tôi vốn là sứ giả của Tây Vương Mẫu, bị thương giữa đường.
May được ông cứu giúp, nay được trở về Nam Hải nên đến đáp tạ”. Về sau, con
cháu ông đều nổi tiếng đức hạnh, hiển đạt.
[7] Nhan Chân Khanh (707-784), tự
Thanh Thần, thường được gọi là Lỗ Công (vì
ông được phong chức Lỗ Quận Khai Quốc Công), là một thư pháp gia nổi tiếng
thời Đường. Tuy cũng là thi nhân, thơ ông không nổi tiếng như các nhà thơ khác
thời Thịnh Đường. Tài thư pháp của ông được người đương thời bình luận: “Phóng khoáng nhưng không buông tuồng, dễ
dãi nhưng không vụng về, đặt bút viết xuống là được ngay”. Lối viết Khải
Thư của ông được coi là mẫu mực cho mọi hành giả viết chữ Khải Thư về sau. Ông
còn được coi là truyền nhân của Trương Húc về lối chữ Thảo.
[8] Quan quả cô độc: Quan là góa vợ,
quả là góa chồng, cô là mất cha mẹ, độc là không con cái.
[9] Vợ chồng sống hạnh phúc đến già
với nhau.
Nhận xét
Đăng nhận xét