IV. TU HÀNH NHƯ THẾ NÀO?
Ý NGHĨA CHÂN THẬT CỦA 'BỔN NGUYỆN NIỆM PHẬT'
Nguyên tác: Lão Pháp sư Tịnh Không
Nguyên tác: Lão Pháp sư Tịnh Không
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng tu:
Phật
thất kỳ này còn chưa chính thức khai mạc nhưng quý vị đến sớm đều vào Niệm Phật
Ðường niệm Phật, như vậy rất đúng như pháp. Mọi người niệm vài ngày, tâm được
định thì mới gặt hái được lợi ích chân thật trong Phật thất, việc này rất đáng
đề xướng, hiệu quả vô cùng thù thắng. Có rất nhiều người trong quý vị đồng tu
từ xa đến, cũng có người phụ trách lãnh đạo Tịnh Tông, phát tâm tu học như vậy
thiệt là quá thù thắng, không những đáng được chúng ta tán thán, thực sự là
được chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần ủng hộ. Hiện nay khắp nơi thành
lập Tịnh Tông Học Hội ngày càng nhiều, đây là một hiện tượng rất tốt. Chúng ta
đã có tổ chức thì phải làm thế nào để phát huy công năng của tổ chức cho có
hiệu quả, giúp đỡ đại chúng huân tu, đây là sứ mạng cấp bách của chúng ta.
Lúc
Tịnh Tông Học Hội vừa được thành lập tôi đã viết một bài nguyên khởi, dùng danh
nghĩa của Hàn Quán trưởng để phát biểu, trong bài nguyên khởi này chúng tôi đề
ra ‘Ngũ kinh Nhất luận’ là kinh điển Tịnh Tông y theo để tu học. Ðây là kinh
điển cơ bản của Tịnh Tông, không những phải đọc tụng, trong nhiều kinh điển đức
Thế Tôn đã nhiều lần khuyên chúng ta ‘thọ trì, đọc tụng, diễn thuyết cho
người khác’. Chúng tôi đã lập lại câu này mấy trăm lần, mấy ngàn lần, cho
dù chúng ta không nhớ những câu nói khác của Thế Tôn, nhưng câu này chắc đã rất
quen thuộc rồi, từ đây có thể biết tầm quan trọng của nó. Nếu có thể thực hiện
được lời dạy trong đó, nói thực ra chúng ta cũng thừa sức thành Phật!
1.
Thâm giải kinh giáo – Tin sâu, nguyện thiết, phụng hành.
Nhưng
muốn làm được câu này nhất định phải chân chánh thông suốt kinh giáo. Số lượng
hết thảy những kinh điển Thế Tôn giảng trong suốt bốn mươi chín năm quá nhiều,
chúng ta là người bình thường không thể nào học hết được. Các đại đức thời xưa biết
rõ điều này nên mới phân tông, lập giáo tùy theo căn tánh của chúng sanh. Ðời
Tùy, Ðường các tông phái ở Trung Quốc đã hình thành, quý vị cũng biết Phật giáo
Trung Quốc có mười tông phái, tám tông thuộc Ðại thừa, hai tông Tiểu thừa,
trong mỗi tông lại chia thành nhiều chi nhánh, mỗi chi nhánh lại chia thành
phái nhỏ, thế nên môn phái khác nhau rất nhiều.
Chư
vị tổ sư đại đức vô cùng từ bi và dùng trí huệ cao độ để chọn ra một số kinh
giáo mà chúng ta có thể thọ trì, [các ngài] giảng giải kỹ càng, làm cho chúng
ta thâm nhập kinh tạng. Trong hết thảy pháp môn thì kinh điển của Tịnh Tông ít
nhất, chỉ có năm kinh một luận. Phân lượng của năm bộ kinh này cũng rất ngắn,
kinh Vô Lượng Thọ là kinh dài nhất, kết hợp năm kinh một luận lại thành một
quyển sách chữ nhỏ thì cũng rất mỏng. Quý vị thấy cuốn Tịnh Ðộ Ngũ kinh mà
chúng ta đã in, cuốn in bìa cứng, dày, có chữ lớn nên lúc đọc không mỏi mắt.
Nếu dùng chữ nhỏ để in thì rất mỏng. Phân lượng tuy không nhiều nhưng đạo lý,
lý luận, phương pháp, và cảnh giới trong đó đều hết sức viên mãn, so với những
kinh lớn, bất luận so với kinh Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Bát Nhã tuyệt đối đều
chẳng thua kém.
Nếu
chư vị có thể nhận thức rõ điều này, thể hội được, thì mới biết Tịnh Tông thiệt
là chẳng thể nghĩ bàn, thực hiện được ‘lời vắn tắt mà đủ trọn ý nghĩa’ (ngôn
giản ý cai) -- rất ít văn tự nhưng hoàn toàn bao gồm hết thảy lý luận, cảnh
giới bên trong. Cho nên tuy kinh điển ít nhưng muốn giảng kỹ thiệt là chẳng dễ!
Hồi trước tôi theo học lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, thầy Lý đã từng nói với tôi nhiều
lần, cả đời thầy sợ giảng kinh A-Di-Ðà nhất, đừng thấy kinh A-Di-Ðà rất ngắn
[thiệt ra] kinh A-Di-Ðà khó giảng nhất! Sau này chúng tôi học kinh rồi mới hiểu
rõ điểm này. Văn tự trong kinh A-Di-Ðà rất cạn, nếu không nghiên cứu sâu vào
[thoạt nhìn thì sẽ nghĩ kinh này] giống như tiểu thuyết ngắn, giới thiệu y báo
và chánh báo trang nghiêm ở thế giới Cực Lạc. Kể chuyện chẳng khó hiểu, nếu chư
vị coi Sớ Sao của Liên Trì đại sư thì ngược lại sẽ chẳng hiểu. Yếu Giải của
Ngẫu Ích đại sư còn tinh tường hơn, thế mới biết nội dung bộ kinh này hết sức
phong phú, vô cùng thù thắng.
Trong
quá khứ tôi cũng đã giảng Năm Kinh Một Luận nhiều lần, cũng có lưu lại băng
thâu âm. Giảng ký kinh Vô Lượng Thọ đã chỉnh lý xong, hiện nay được in thành
bốn cuốn sách bìa cứng, đại khái có chừng một triệu ba trăm ngàn chữ; như vậy
đã nói hết ý tứ chưa? Nói cho quý vị biết: không thể nào! Thiệt giống như nước
trong biển cả, chúng ta chỉ nếm một chút mà thôi. Ý tứ quá phong phú, giảng
không hết, bất kỳ chữ nào, câu nào cũng hàm chứa vô lượng nghĩa. Thế nên chẳng
thể không thâm nhập kinh điển, tự mình thâm nhập rồi thì lòng tin của mình mới
vững chắc, nguyện của mình mới khẩn thiết, công phu niệm Phật đương nhiên sẽ
đắc lực, sự vãng sanh mới nắm chắc trong tay.
Nếu
thói hư tật xấu, tập khí của mình vẫn hiện lên y như cũ, không thể khắc phục,
vậy thì chúng ta phải hỏi tại sao thói hư tật xấu phát sanh? Nói chung là vì
công phu của bạn chưa đủ. Tại sao công phu chưa đủ? Bạn hoàn toàn chưa hiểu rõ
lý luận, phương pháp. Nói một cách khác bạn chẳng có lòng tin. Tuy bạn tin Tịnh
Ðộ, lòng tin này vẫn còn nửa tin nửa ngờ, bạn chẳng có tâm nguyện khẩn thiết.
Nếu bạn có lòng tin thật sự, tâm nguyện thiết tha thì các thói hư tật xấu, tập
khí gì cũng chẳng còn nữa, đều xả bỏ hết. Nếu còn những thói hư tật xấu, tập
khí thì tức là chẳng đủ tín, nguyện, chẳng thông hiểu kinh giáo!
Từ
điểm này có thể biết ngày nay hoằng dương Tịnh Tông trên thế giới không thể làm
giống như Ấn Quang đại sư. Lúc Ấn Quang đại sư còn tại thế vào những năm đầu
Dân Quốc, trong Niệm Phật Ðường chỉ chuyên niệm Phật mà chẳng giảng kinh, tức
là ‘một câu A-Di-Ðà Phật niệm đến cùng’,
cũng giống như đả Phật thất hằng ngày, một năm ba trăm sáu mươi lăm ngày chẳng
sót ngày nào. Bạn hãy xem thời khóa tụng niệm của chùa Linh Nham thì sẽ biết,
mỗi ngày [niệm Phật] sáu cây hương (lấy thời gian đốt một cây nhang làm đơn
vị) , mỗi năm có hai lần ‘Phật thất tinh tấn’. Phật thất tinh tấn kéo dài
bốn mươi chín ngày, mỗi ngày tăng lên tới chín cây hương. Vào thời của ngài có
thể làm như vậy, ngày nay chúng ta không thể. Nguyên nhân ở tại chỗ nào? Hồi
trước tâm người ta thật thà, đôn hậu, cho dù chẳng hiểu rõ, chẳng thông suốt
kinh giáo, họ chẳng có tí gì hoài nghi đối với những lời giảng dạy của lão sư
phụ, lão hòa thượng – lão hòa thượng dạy họ làm như thế nào thì họ làm như vậy
– như thế mới được!
Thời
đại bây giờ không thể được. Nếu tuổi tác của quý vị lớn như tôi, sáu bảy chục
tuổi thì có thể nhớ vào những năm Dân Quốc bốn mươi (1951) người ở Ðài Loan hết
sức dễ thương, trung hậu, thật thà, chất phác; xã hội Ðài Loan an định, trị an
tốt nhất Ðông Nam Á. Người thời đó tử tế, lúc chúng tôi mới đến Ðài Loan, khi
đi tìm nhà bạn nhưng không biết đường, tùy tiện hỏi người nào thì họ liền ngưng
làm việc và dẫn mình đi kiếm cả một đoạn đường, đưa đến tận nhà. Xã hội hiện
nay không được vậy nữa! Nếu bạn hỏi đường, [họ sẽ trả lời cộc lốc:] ‘Không
biết’, chẳng thèm đếm xỉa đến bạn. Ðây là chỉ mới bốn mươi năm mà thôi! Càng về
trước lòng người càng đôn hậu, lúc mua đồ không có tiền sẵn trong túi thì có
thể thiếu chịu, chẳng cần ghi sổ, ghi tên gì hết, giữa người với nhau có sự
thành tín như vậy; bây giờ đâu còn nữa! Hiện nay chuyện gì cũng phải ký hợp
đồng, còn phải viết ra từng điều rõ ràng, sợ lọt vào những lỗ hổng luật pháp.
Bạn xem đời sống gian nan, khổ sở quá chừng phải không, đâu có thong dong tự
tại như hồi đó. Cho nên thời xưa Niệm Phật Ðường đơn giản, đơn thuần, thiệt có
thể thành tựu, có thể giúp người ta vãng sanh.
Nhân
tâm trong xã hội ngày nay rất sôi động, lo sợ chẳng yên, chẳng có cảm giác an
toàn, tâm nhảy loạn xạ, vậy thì làm sao tín, nguyện có thể vững chắc được! Thế
nên phương pháp duy nhất là phải giảng rõ, giảng kỹ kinh giáo, điểm này rất
quan trọng. Ngày nay chúng tôi đề xướng ‘Giải Hành cùng coi trọng’, hy vọng mỗi
Tịnh Tông Học Hội đều lấy cuốn khóa tụng thường ngày mà chúng tôi đã soạn, cuốn
khóa tụng ấy là do tôi soạn, nghi thức đã được giảm bớt. Lúc trước phần đông
những khóa tụng hằng ngày gồm có: buổi sáng tụng Chú Lăng Nghiêm, Thập Chú,
buổi tối tụng bài văn đại sám hối, kinh Di Ðà. Hiện nay chúng tôi sửa đổi phần
tụng kinh, khóa buổi sáng chọn bốn mươi tám nguyện trong kinh Vô Lượng Thọ,
khóa tối chọn phẩm ba mươi hai đến ba mươi bảy trong kinh Vô Lượng Thọ. Tại sao
chúng ta phải thay đổi kinh tụng niệm hằng ngày? Vì căn tánh của chúng sanh
hiện nay khác với lúc trước. Lúc trước người ta y theo khóa tụng thời xưa có
thể đạt được lợi ích. Ngày nay chúng ta noi theo khóa tụng như vậy chẳng thể
đạt được lợi ích. Mục đích chúng ta tu Tịnh Ðộ là tương lai cầu sanh Tây phương
Cực Lạc thế giới.
Làm
sao mới được vãng sanh?
Nhất
định phải có tâm giống với tâm của đức Phật A-Di-Ðà, có nguyện giống với nguyện
của đức Phật A-Di-Ðà, [kiến] giải giống với đức Phật A-Di-Ðà, hạnh giống với
đức Phật A-Di-Ðà. Nếu chúng ta có thể làm được tâm, nguyện, giải, hạnh đều
giống với đức Phật A-Di-Ðà thì chúng ta nhất quyết sẽ được vãng sanh -- tự tự
nhiên nhiên cảm ứng đạo giao.
Vì
vậy nên giảng giải kinh điển rất quan trọng, nghiên cứu càng quan trọng hơn.
Những đồng tu di dân đến Úc Châu, quý vị ở trong thời đại này có phước báo to
lớn. Chúng ta thấy những người di dân ở khắp nơi trên thế giới đều rất gian
khổ, làm việc không bao giờ ngừng nghỉ, áp lực đời sống nặng nề, đâu được như
những người di dân đến Úc Châu, người nào cũng nhàn hạ, mỗi ngày đều đi đánh
banh. Ðánh banh vẫn tạo nghiệp luân hồi, đánh banh không thể đánh thoát ra nổi
sáu nẻo luân hồi, đánh chẳng ra nổi tam giới. [Thay vì đi đánh banh] quý vị có
thể dùng thời gian này để nghiên cứu Tịnh Ðộ Ngũ kinh Nhất luận, thâm nhập
nghiên cứu, được vậy thì có thể xây dựng được tín và nguyện của mình.
Ngẫu
Ích đại sư dạy rất hay: ‘Thiệt có tín, có nguyện thì có thể vãng sanh,
phẩm vị vãng sanh cao hay thấp là do công phu niệm Phật sâu hay cạn.’
Tín
Nguyện vô cùng quan trọng! Ðừng tưởng mình đã tin tưởng, mình đã phát nguyện
rồi, mình mỗi ngày đều khuyên người niệm Phật, không hẳn vậy đâu! Bạn hãy coi
thử mình còn tham, sân, si, mạn, đố kỵ, chướng ngại không, nếu vẫn còn, vả lại
thường thường nổi lên tức là bạn chẳng có tín, chẳng có nguyện. Người có tín,
có nguyện nhất định chẳng có [phiền não, chướng ngại]; tâm của người có tín, có
nguyện giống hệt tâm Phật, giống hệt tâm Bồ Tát thì làm sao có nhiều phiền não,
có nhiều chướng ngại như vậy được!
Nghiệp
chướng là gì? Nghiệp chướng tức là ‘vọng tưởng, phân biệt, chấp trước’.
Bất
luận đối với người, với sự, với vật bạn còn những tâm niệm này nổi lên tức là
nghiệp chướng. Không những nghiệp chướng này tạo chướng ngại cho việc vãng sanh
của bạn, khi bạn nghiên [cứu kinh] giáo thì cũng gây chướng ngại cho việc tăng
trưởng trí huệ. Ðồng tu niệm Phật thường hay nói câu này: ‘Chúng ta phải tiêu
nghiệp chướng’, nhưng làm thế nào để tiêu trừ nghiệp chướng? Có phải lạy Lương
Hoàng Sám thì sẽ tiêu nghiệp chướng hay chăng? Bạn lạy luôn cả bảy ngày thử coi
bạn còn tham, sân, si hay không? Nếu gặp việc không vừa ý liền nổi giận, đó là
nghiệp chướng hiện ra, nghiệp chướng chưa tiêu gì hết! Giả sử lạy xong bảy ngày
Lương Hoàng Sám mà khi gặp chuyện chẳng vừa ý bạn vĩnh viễn chẳng nổi giận thì
bạn đã tiêu hết nghiệp chướng. Từ điểm này có thể biết trên môi nói tiêu nghiệp
chướng là một việc khác, thực sự thì nghiệp chướng chẳng có tiêu gì cả, không
những chẳng tiêu mà mỗi ngày còn tăng thêm. Như vậy thì làm sao được! Ðây là
việc chúng ta phải đặc biệt cảnh giác, phải nghĩ đến sanh tử luân hồi rất đáng
sợ!
Trong
lục đạo luân hồi có được thân người thiệt chẳng phải là một chuyện dễ dàng.
Chúng ta hôm nay được thân người là do thiện căn tích lũy từ nhiều đời nhiều
kiếp trước! Ngày nay mình đã gặp nhân duyên này nhưng được thân người xong lại
mất thân người, mất thân người rồi mà muốn kiếm trở lại chẳng phải là dễ, hết
sức khó khăn! Trong kinh điển đức Phật dùng rất nhiều tỷ dụ,[1]
Phật chẳng nói dối, chẳng nói lời không thật, chẳng gạt người, câu nào cũng đều
chơn thật, vì vậy chúng ta phải có tâm cảnh giác cao độ, phải hiểu rõ sự thật
này, hiểu rõ chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
2. Nghiên [cứu kinh] giáo
tức là nhớ Phật – Khoa phán, văn tự và nghĩa lý được thực hiện trong sinh hoạt.
Tu hành, tu là gì? Tu tức là sửa đổi những
thói hư tật xấu mà thôi. Tiêu chuẩn của tu hành là noi theo lời giáo huấn của
Phật, trong kinh Phật dạy làm gì thì mình phải làm theo, dạy đừng làm gì thì
mình nhất định chẳng làm. Tu hành là bắt đầu tu tập từ chỗ này. Vì vậy nghiên
[cứu kinh] giáo rất quan trọng, hy vọng mỗi ngày chúng ta ít nhất phải nghiên
giáo bốn giờ đồng hồ, niệm Phật bốn giờ; mỗi ngày tám giờ đồng hồ, không thể
làm ít hơn, nếu ít hơn thì đời này chúng ta cầu vãng sanh sẽ không chắc chắn.
Mỗi ngày công phu tám giờ đồng hồ nhất định không thể thiếu, đây là đạo phong
và học phong (phong cách tu tập và phong cách học tập) của đạo tràng
chúng ta - giải và hành cùng coi trọng. Quý vị nên biết ‘nghiên giáo’ và ‘niệm Phật’
là cùng một việc, chẳng phải là hai việc. Ðại Thế Chí Bồ Tát dạy: ‘Nhớ Phật niệm
Phật, hiện giờ tương lai, nhất định thấy Phật’ (Ức Phật niệm Phật, hiện tiền
đương lai tất định kiến Phật). Nghiên giáo tức là nhớ Phật; năm kinh một
luận của Tịnh Tông toàn là nói về y báo, chánh báo trang nghiêm của Tây phương
Cực Lạc thế giới. Phương pháp niệm Phật rất nhiều, cho nên nghiên giáo chẳng ở
ngoài niệm Phật. Hy vọng là các đồng tu có thời giờ đều đến tham gia nghiên
giáo; do pháp sư hoặc cư sĩ đại đức phát tâm giảng kinh, giảng một đoạn xong
mọi người nghiên cứu, thảo luận.
Nghiên cứu và thảo luận cần có một chương
trình, thứ tự hẳn hòi để tránh rối loạn, mới có thể gặt hái được kết quả. Còn
về phương pháp, lúc trước tôi đã viết một bài ‘Cương lãnh trọng yếu của việc
nghiên cứu nội điển’, trong đó đề ra vài nguyên tắc, quý vị làm theo những
nguyên tắc này thì rất tốt. Trong đó có những điểm chánh: thứ nhất văn tự phải
trong sáng, gãy gọn, rõ ràng. Phân đoạn của kinh văn phải theo thứ lớp rõ rệt,
việc này trong Phật pháp gọi là ‘khoa phán’. Phương pháp phân chia thành từng
đoạn, thứ lớp thì ‘người nhân thấy điều nhân, người trí thấy điều trí’ [Từ
nội tâm ảnh hưởng đến kiến giải, quan điểm, cách xử sự], chẳng có nhất
định, đều không giống nhau, chẳng có tiêu chuẩn. Cho nên mỗi vị đồng tu tham
gia đều có thể trình bày cách nhìn của mình. Người này cảm thấy nên từ chỗ này
phân đoạn, người kia cảm thấy nên từ chỗ nọ phân đoạn, sau đó mọi người xúm lại
nghiên cứu cách nào hay nhất thì chúng ta dùng cách đó. Phương pháp nghiên cứu
chương pháp và kết cấu của kinh văn đối với sự học Quốc văn cũng có thể giúp
cho mình tiến bộ thêm, đây là một môn học rất lý thú.
Sau đó đi sâu vào văn tự, nhất định phải tìm
ra những chữ đọc trại ra âm chữ khác, chữ lạ chẳng hiểu thì nhất định phải tra
tự điển. Chữ Trung Quốc có nhiều chữ ‘phá âm’, một chữ có rất nhiều cách đọc,
cách đọc khác nhau thì ý nghĩa cũng khác nhau; có khi cách đọc giống nhau nhưng
cùng một chữ có nhiều cách giải thích, cách nào phù hợp đoạn kinh văn này đều
phải nghiên cứu. Ðây là sự nghiên cứu sâu vào văn tự, khi bạn nghiên cứu những
thứ này thì bạn sẽ chẳng khởi vọng tưởng, sẽ không nghĩ ngợi lung tung; vậy thì
Giới, Ðịnh, Huệ đều nằm trọn trong đó.
Vấn đề văn tự chữ nghĩa đã giải quyết xong,
chúng ta mới bàn thảo nghĩa lý trong đó; Phật nói câu này dụng ý ở đâu? Hiểu ý
tứ xong đi thêm một tầng nữa: trong đời sống nên làm như thế nào? Làm thế nào
để ứng dụng vào công việc hằng ngày, xử sự, đãi người, tiếp vật, đây mới thiệt
là làm theo lời giáo huấn của Phật, mới đạt được lợi ích chân thật của lời dạy.
Vì vậy mọi người đều có thể tham dự những công tác này, không chỉ dành riêng
cho một cá nhân nào và chẳng phải nghe theo một người mà thôi, như vậy đạt được
hiệu quả rất ít, mọi người nhất định phải tham dự.
Ở đây tuy sách vở không đầy đủ, nhưng đối với
người sơ học như chúng ta thì cũng khá đủ rồi, nếu cần chúng ta sẽ mua thêm
sách ở Ðài Loan, có một thư viện nho nhỏ, cung cấp cho mọi người nghiên cứu
tham khảo. Quý vị có thể tra cứu tài liệu, ghi chép, mỗi ngày đến giờ nghiên
giáo bạn có thể phát biểu ý kiến, tâm đắc, cảm ứng của bạn. Nếu bạn nghĩ sai,
đồng tu sẽ giúp bạn sửa lại, nếu bạn có ý kiến hay thì cũng có thể chia xẻ với
mọi người, đây là tự lợi, lợi tha, như vậy gọi là ‘thảo luận nghiên cứu giáo
học’.
Ở Tân Gia Ba tôi dùng phương pháp này để dạy
học, tôi dạy học chẳng giảng bài cho học sinh, lúc lên lớp là học sinh lên
giảng đài giảng cho tôi nghe, nếu người này giảng chưa đúng thì đổi một học
sinh khác lên giảng, mỗi học sinh phải luôn luôn chuẩn bị đầy đủ. Kêu ai lên
giảng? Phải rút thăm, vì vậy người nào cũng phải chuẩn bị. Họ học với tôi, học
rất căng thẳng. Cư sĩ Lý Mộc Nguyên nói với tôi: ‘Họ thức đến hai ba giờ khuya còn chưa ngủ’. Tôi biết chuyện này,
ngày xưa chúng tôi đi học cũng vậy; có ai chẳng trải qua những khổ nhọc này?
Nếu chẳng chịu đựng được chút khổ nhọc thì bạn làm sao học cho được? Thông
thường tôi sẽ chọn từ ba đến bốn người, nếu đều giảng không được hoàn hảo thì
chẳng còn cách nào khác, tôi phải đứng lên giảng. Nếu họ giảng cũng khá thì tôi
chẳng cần giảng, chỉ sửa sai chút đỉnh là được. Dùng cách này học sinh thiệt là
rất nhọc nhằn, nhưng họ thâu thập được lợi ích thực sự. Nếu trong ba tháng chỉ
nghe tôi giảng thì sau khi bước ra khỏi giảng đường liền quên hết - lời nói
thoảng qua tai thì chẳng dùng được. Cho nên họ nói với tôi những gì họ học được
trong ba tháng còn phong phú hơn những gì họ học trong bốn năm ở Phật Học Viện
trước đây, thiệt là đạt được lợi ích to lớn, tuy nhọc nhằn nhưng chẳng uổng
công. Trong bốn năm trước có ngày nào phải thức đến hai ba giờ khuya đâu? Chẳng
có. Mỗi đêm ngủ say mê, mơ mộng lung tung, trong ba tháng này khẩn trương, chịu
khó, bởi vậy mới có thâu hoạch.
Lúc trước ở Ðài Trung thầy Lý cũng dùng
phương pháp này dạy chúng tôi. Thầy ngồi ở hàng ghế cuối cùng, vì lúc đó chưa
có máy khuyếch âm (amplifier), khi
bạn lên giảng đài nói chuyện phải nói đến mức thầy nghe rõ thì mới được, vì vậy
nên thầy ngồi ở chỗ xa nhất. Nếu thầy nghe chẳng rõ thì không được – âm thanh
của bạn nhỏ quá, chẳng đủ tiêu chuẩn. Âm thanh, thái độ, cử chỉ của bạn đều
phải đủ tiêu chuẩn, đều phải tiếp nhận phê bình, thế nên tu học phải hết lòng.
Có gắng sức, hết lòng thì bạn mới có ích lợi, ích lợi ở chỗ nào? Bạn đạt được
ích lợi thì bạn hiểu được. Ngày hôm sau, lập lại! Lập lại thêm lần nữa! Ngày
nào cũng vậy, mỗi ngày đều phải trao giồi, luyện tập, bạn sẽ có hứng thú sâu
đậm đối với sự tu học Phật pháp, thời gian của bạn sẽ không lãng phí, đời sống
của bạn rất dồi dào phong phú, bạn sẽ rất vui vẻ, đây đúng là niềm vui pháp hỷ
sung mãn! Trải qua sự học tập như vậy bạn mới có thể luyện tập giảng kinh – lên
giảng đài tập dợt lại, tiếp nhận lời phê bình của người nghe, người nghe giúp
bạn sửa đổi, cải tiến. Sau đó bạn phải hết lòng sửa đổi bài giảng nháp của bạn,
sửa đổi âm thanh của bạn, thái độ biểu diễn, sau cùng lên giảng đài chánh thức
biểu diễn.
Mỗi buổi sáng nghiên giáo, phải cần hai đến
ba tiếng đồng hồ, không thể gián đoạn. Buổi tối giảng kinh, những người phát
tâm giảng kinh thay phiên nhau giảng. Tại sao chúng ta phải giảng kinh vào buổi
tối? Trong xã hội hiện nay các đồng tu tại gia rất bận rộn trong công việc làm
ăn, ban ngày chẳng có thời giờ đến nghe kinh, chỉ có buổi tối. Vì vậy chúng ta
thay đổi niệm Phật vào buổi chiều, giảng kinh buổi tối. Buổi tối giảng kinh là
mở rộng cho mọi người, hoan nghinh những người ở ngoài đến nghe giảng. Giảng
kinh cũng không được gián đoạn, tứ chúng đệ tử đều phải phát tâm. Buổi sáng
công phu niệm Phật, niệm một giờ rưỡi, cũng bằng thời gian một cây hương trong
Phật thất. ‘Buổi sáng nghiên giáo, buổi
chiều niệm Phật, buổi tối giảng kinh’. Một năm ba trăm sáu mươi lăm ngày,
mỗi ngày đều như vậy, đây là học phong, đạo phong của Tịnh Tông chúng ta.
Mỗi tháng chúng ta đề xướng đả Phật thất một
lần. Lúc đả Phật thất thì có ngưng việc nghiên giáo không? Không ngưng. Người
đả Phật thất ở Niệm Phật Ðường niệm Phật, chúng ta có phòng học dành riêng cho
việc nghiên giáo, chỉ có những đồng tu chủ trì và hộ thất trong bảy ngày này
không tham gia nghiên giáo, phải hộ trì đạo tràng Phật thất. Trong khóa Phật
thất thì buổi tối vẫn giảng kinh như thường. Như vậy có lợi vì những người đến
tham dự Phật thất có rất nhiều người chẳng ở tại địa phương này, là những người
từ chỗ khác đến, lúc bình thường cơ hội nghe pháp rất ít, đến đây vừa đúng lúc
được dịp học hỏi, chúng ta giảng một ít Phật pháp cho họ nghe. Cho nên từ ngày
đầu đến ngày thứ năm trong Phật thất đều giảng kinh, đêm thứ sáu làm lễ hồi
hướng, đêm thứ bảy làm lễ Tam Thời Hệ Niệm, hai đêm này không giảng kinh, ngoài
ra ngày nào cũng giảng kinh. Hy vọng Tịnh Tông Học Hội ở khắp nơi đều có thể
hết lòng làm theo phương pháp này.
3.
Tu hành – Thanh tịnh, Bình đẳng, Giác
Tu hành cần phải chân thành, thật thà, quan
trọng nhất là ba điều trong đề kinh của kinh Vô Lượng Thọ: ‘Thanh tịnh - Bình đẳng - Giác’. Năm chữ này là Tam Bảo!
Khi bắt đầu học Phật quý vị phải quy y Tam
Bảo.
Tam Bảo là ‘Giác, Chánh, Tịnh’.
Thanh tịnh là Tăng Bảo, Bình đẳng là Pháp
bảo, Giác là Phật bảo.
Trong đề kinh có đầy đủ Tam Bảo. Không những
đầy đủ Tam Bảo mà Tam Học cũng đầy đủ. Tam học là ‘Giới, Ðịnh, Huệ’, Thanh tịnh là Giới, Bình đẳng là Ðịnh, Giác là
Huệ.
Ðồng tu Tịnh Tông chúng ta tu những gì? Tu
Giác, Chánh, Tịnh.
A-Di-Ðà Phật tức là Giác - Chánh - Tịnh.
Quý vị đã đọc kinh Vô Lượng Thọ, thấy Thế Tôn
nói với A Nan: ‘Quý vị có muốn nhìn thấy Thanh tịnh - Bình đẳng - Giác
không?’, Thanh tịnh - Bình đẳng - Giác tức là A-Di-Ðà Phật. Nếu chúng ta tu
Thanh tịnh - Bình đẳng - Giác thành công, chúng ta cũng sẽ là A-Di-Ðà Phật, tự
tự nhiên nhiên sẽ là trăm ngàn ức hóa thân của A-Di-Ðà Phật; bạn sẽ là hóa thân
của A-Di-Ðà Phật thì bạn làm sao chẳng đến Cực Lạc thế giới được? Ðương nhiên
sẽ đến mà!
Thế nên phải hiểu kinh Vô Lượng Thọ của Tịnh
Tông, năm kinh một luận dạy chúng ta tu những gì? Tức là dạy chúng ta tu Thanh
tịnh - Bình đẳng - Giác. Mỗi năm tâm chúng ta có thanh tịnh hơn năm trước
không? ‘Thanh tịnh’ nghĩa là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, phiền não
giảm bớt, thói hư tật xấu ít hơn rồi. Như vậy là có tiến bộ, là công phu
đắc lực rồi đó.
Nếu mỗi ngày tụng kinh, niệm Phật nhưng thói
hư tật xấu cũng còn nhiều như cũ, tâm lượng vẫn còn hẹp hòi, vậy thì chẳng có
ích chi cả! Chúng ta nghĩ coi Phật, Bồ
Tát có tâm như thế nào? Phật, Bồ Tát có tâm chân thành, thanh tịnh, từ bi, khi
khởi tâm động niệm đều nghĩ đến hết thảy chúng sanh, chẳng nghĩ đến mình; chúng
ta phải học cái tâm của Phật, tức là niệm niệm vì chúng sanh, tận tâm tận lực
giúp Phật pháp, giúp chúng sanh, đừng nghĩ về mình; ‘mình chẳng còn nữa thì
bạn sẽ thực sự được đại tự tại’. Tại sao chúng ta học Phật chẳng được thành
tựu? Tuy nghĩ đến chúng sanh, tự mình còn chiếm hơn phân nửa vì vậy nên bạn
chẳng thể thành tựu, bạn chẳng được cảm ứng. Ðến lúc nào mới quên mình, dốc
toàn tâm toàn lực vì chúng sanh? Trong kinh quý vị thường thường niệm đến câu ‘tâm
bao trùm hư không, lượng trọn khắp các cõi nhiều như cát’ (tâm bao thái
hư, lượng châu sa giới); đó là tâm lượng của chư Phật, Bồ Tát, chúng ta
phải học theo. Tâm bao trùm hư không, lượng trọn khắp các cõi nhiều như cát là
tâm lượng vốn sẵn có của mỗi người chúng ta; tại sao bây giờ tâm lượng chúng ta
nhỏ nhoi như vậy? Hai người ở chung với nhau bất đồng ý kiến, không thể bao
dung lẫn nhau, vậy thì bạn còn có thành tựu gì nữa? Thế nên học Phật việc đầu
tiên là phải mở rộng tâm lượng, phải có thể bao dung nhẫn nhịn, khi gặp những
việc không như ý thì cũng đừng nên trách móc người khác, chỉ nghĩ tưởng việc
của mình, như vậy mới có thể giải quyết vấn đề, mới có thể thành tựu đức hạnh,
trí huệ của mình.
4.
Phản tỉnh, sửa lỗi lầm, tiêu nghiệp chướng
Trong lịch sử Trung Quốc mọi người đều biết
vua Thuấn. Vua Thuấn là vị đầu tiên trong ‘Nhị Thập Tứ Hiếu’, ngài là vị dẫn
đầu của đạo hiếu. Ngài làm như thế nào? Mẹ của ngài mất sớm, cha cưới kế mẫu.
Kế mẫu sanh một đứa con, đương nhiên thương con mình và đối xử với ngài rất bạc
bẽo, người cha lại nghe lời của kế mẫu. Trong đời sống hằng ngày hầu như việc
gì cũng làm cho cha phiền lòng, ngài chẳng nghĩ rằng cha mẹ không đúng, hoàn
toàn quay ngược lại, nghĩ về mình, tự hỏi mình đã làm gì sai chăng? Hoàn toàn
phản tỉnh nội tâm. Cứ như vậy trải qua mấy năm, cha mẹ rốt cuộc cũng bị ngài
cảm hóa. Ðây là đại hiếu! Chân chánh làm được lời dạy của Lục Tổ Huệ Năng: ‘Nếu
là người tu đạo chân chánh, chẳng nhìn lỗi người khác’.
Dưới cái nhìn của vua Thuấn, người khác chẳng
có lỗi lầm gì hết, lỗi lầm đều là của cá nhân mình. Tại sao mọi người đều đối
xử không tốt với mình? Chẳng trách người khác, chỉ trách mình; tự mình phản
tỉnh, thực sự sám hối, sửa lỗi lầm, như thế mới cảm động cha mẹ. Sau này vua
Nghiêu biết được, vua Nghiêu biết được người này rất phi thường, trong nhà có
thể làm cho cả nhà hòa hợp, sau này có thể ảnh hưởng đến làng xóm, làm cho
người trong cả xóm, cả địa phương hòa hợp. Nếu người này làm quốc vương thì
nhất định có thể cai trị dân chúng cả nước, thế nên vua Nghiêu nhường ngôi cho
ngài, còn gả hai người con gái của mình cho ngài. Ðây là thánh nhân thế gian,
là tấm gương tốt cho chúng ta.
Thế nên người tu đạo chân chánh thì đừng nhìn
lỗi lầm của người khác, hết thảy lỗi lầm đều là của mình. Tại sao người ta lại
trừng mắt nhìn chúng ta? Tại sao họ mắng chửi mình mà không chửi người khác? Tự
chúng ta suy nghĩ xem mình đã có lỗi với họ ở chỗ nào? Chúng ta làm sai chỗ
nào? Việc gì làm cho người ta sanh phiền não? Thế nên tu hành chẳng có gì khác
ngoài việc có thể quay đầu, phản tỉnh, sửa lỗi lầm, đây gọi là sám hối thực sự,
được vậy mới có thể tiêu nghiệp chướng. Nếu nói chỗ nào cũng nhìn thấy lỗi lầm
của người khác, mình chẳng có lỗi, người này chắc chắn là chúng sanh trong ba
đường ác. Phu Tử nói: ‘Người ngu như vậy, chẳng cần trách họ!’ chẳng cần
nói nữa, người này sẽ đi vào tam đồ lục đạo mà.
Chúng ta nhất định phải thâm nhập kinh giáo,
vĩnh viễn chẳng bao giờ tạm dừng, được vậy mới có thể nâng cao cảnh giới của
mình. Các ngôi vị Bồ Tát mới có thể nâng cao, Thập Trụ thăng lên Thập Hạnh, rồi
thăng lên Thập Hồi Hướng, lên Thập Ðịa. Chúng ta niệm Phật cũng chẳng ngoại lệ,
chúng ta có thể từ Phàm Thánh Ðồng Cư độ thăng lên Phương Tiện Hữu Dư độ, lại
thăng lên Thật Báo Trang Nghiêm độ, đây mới là người thông minh chân chánh.
Không ngừng nâng cao cảnh giới của mình, đời này chúng ta chẳng luống uổng.
Tuy mọi người chưa đọc kinh Hoa Nghiêm nhưng
đã nghe đến năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử, đó là dạy chúng ta
làm thế nào để tu Ðại thừa Bồ Tát đạo. Trong pháp Bồ Tát chỉ có một mình – tự
mình tôi là phàm phu, là học sinh, trừ tôi ra hết thảy đều là chư Phật, chư Bồ
Tát; thế nên Thiện Tài thành Phật ngay trong một đời. Ngày nay chúng ta học
Phật - chỉ có mình đúng, mọi người đều sai hết. Có tâm niệm này, thái độ này
thì bạn làm sao thành tựu? Mỗi ngày tăng trưởng ngã chấp, ngã mạn. Chuyện này
không thể được, là tạo ra vô lượng vô biên tội nghiệp, chẳng phải tiêu nghiệp
chướng mà mỗi ngày càng tăng thêm nghiệp chướng.
5.
Học Phật phải bắt đầu từ khởi tâm động niệm
Phật, Bồ Tát là gương mẫu, mô phạm cho chúng
ta, chúng ta phải học theo các Ngài. Khi chúng ta khởi tâm động niệm, ngôn ngữ
tạo tác, khi tâm niệm vừa khởi trong tâm liền nghĩ: ‘Tôi làm như vậy có thể làm gương mẫu cho mọi người chăng?’ Nếu bạn
có thể hạ thủ từ chỗ này thì sự tu hành của bạn sẽ có tiến bộ. [Lấy thí dụ]
Chúng ta đi trên đường muốn khạc nhổ lập tức liền nghĩ nếu tôi nhổ bừa bãi thì
có thể làm gương mẫu cho xã hội đại chúng hay không? Tâm niệm này vừa khởi lên
thì bạn tự nhiên sẽ chẳng dám khạc nữa. Hiện nay những thứ giấy bao bọc bánh
kẹo rất đẹp, ăn rồi chúng ta có thể tùy tiện liệng những miếng giấy này không?
Bạn có nghĩ đến lời đức Phật dạy chúng ta không? ‘Diễn thuyết cho người khác’, diễn là biểu diễn, làm gương cho
người ta xem, tôi làm như vậy có giống Phật, Bồ Tát không? Giống đệ tử của
Phật, Bồ Tát chăng? Tùy tiện liệng bậy những thứ này thì tôi đã có lỗi đối với
Phật, Bồ Tát. Hôm nay các bạn mặc áo thun, trên đó có ghi dòng chữ: ‘Ðệ tử Di Ðà’, những hành vi của bạn có
xứng đáng với Phật A-Di-Ðà chăng? A-Di-Ðà Phật dạy bạn làm như vậy sao? Nghĩ
vậy nên chúng ta tự nhiên sẽ thâu liễm, sẽ không dám phạm lỗi lầm.
Nền trị an ở Tân Gia Ba rất tốt là [nhờ] pháp
trị đấy! Hình phạt rất nặng. Chúng ta không muốn bị người phạt, chúng ta có
lương tâm, thường thường nghĩ đến A-Di-Ðà Phật, mỗi khi chúng ta khởi tâm động
niệm, hết thảy hành động đều phải xứng đáng với Phật A-Di-Ðà, đáng là học trò
giỏi của Phật A-Di-Ðà, là gương mẫu cho xã hội đại chúng, đó gọi là tu hành.
Bắt đầu từ đâu? Bắt đầu từ đây – y giáo phụng hành. Trong kinh dạy chúng ta làm
như thế nào? Chúng ta có thể nghĩ đến những thứ này, có thể trong đời sống hằng
ngày, từng ly từng tí đều không vi phạm lời dạy của Phật, đây tức là tự hành
hóa tha, thiệt là làm được ‘thọ trì, đọc tụng, diễn thuyết cho người khác
biết’; ‘Thuyết’ là khi người ta
hỏi mình, mình nhiệt tâm giải thích cho người ta biết. Chỉ cần bạn làm được
tốt, tự tự nhiên nhiên sẽ cảm động những người xung quanh, cảm động hàng xóm
láng giềng của bạn.
Nếu bạn làm được lâu dài, công phu sâu dày
rồi, bạn sẽ có thể cảm hóa xã hội; những người được bạn cảm động nhất định sẽ
thỉnh giáo bạn, đây là cơ duyên chín muồi. Bạn phải giải thích tường tận cho
họ, khuyến khích họ học Phật, nói với họ sự lợi ích của việc học Phật: tâm
người học Phật thanh tịnh, thanh tịnh tức là tâm chẳng bị ô nhiễm; tâm địa bình
đẳng chẳng có cao thấp, có cao thấp thì chẳng bình đẳng, không bình đẳng thì
đương nhiên chẳng thanh tịnh. Ðại trí đại giác là từ thanh tịnh, bình đẳng sanh
ra. Nếu tâm bạn chẳng thanh tịnh, chẳng bình đẳng thì sẽ sanh phiền não, chẳng
sanh trí huệ, thì sẽ mê hoặc điên đảo, vậy thì làm sao được!
Thời gian người ta sống trên đời này hết sức
ngắn ngủi, làm đệ tử Như Lai đặc biệt là làm đệ tử Di Ðà là hết sức hy hữu, đây
là cơ hội hiếm hoi, khó gặp nhất! Ðệ tử Di Ðà được hết thảy mười phương thế
giới chư Phật Như Lai đều tán thán và tôn trọng. Lúc chúng ta muốn đi tham
phỏng đạo tràng của chư Phật ở mười phương thế giới, chư Phật thấy chúng ta là
đệ tử Di Ðà đều sẽ đặc biệt tiếp đón. Nhưng nếu hành động, khởi tâm động niệm
của chúng ta chẳng làm rạng danh đức Phật A-Di-Ðà, ngược lại ngày ngày đều bôi
nhọ Ngài, như vậy thì không được đâu! Làm những việc trái ngược lương tâm, luôn
làm việc tham, sân, si, mạn mà còn treo chiêu bài ‘Ðệ tử Di Ðà’, chẳng phải chúng ta đã làm mất mặt A-Di-Ðà Phật rồi
hay sao? Việc này làm sao được? Hy vọng chư vị đồng tu thường phản tỉnh.
Trong hai khóa lễ sáng tối, khóa sáng là để
chúng ta phát nguyện giống như ‘đại nguyện của đức Phật A-Di-Ðà’, Ngài phát bốn
mươi tám đại nguyện độ chúng sanh thì chúng ta cũng phát bốn mươi tám nguyện độ
chúng sanh. Khóa tối niệm phẩm ba mươi hai đến phẩm ba mươi bảy, đây là ‘giữ
giới niệm Phật’. Ðoạn kinh này đặc biệt dùng để răn dạy chúng sanh đời mạt
pháp, nghiệp chướng tập khí của chúng ta quá nặng, khi khởi tâm động niệm phạm
lỗi quá nhiều, đức Phật đã kể ra tất cả [lỗi lầm] trong đoạn kinh này. Sau khi
niệm xong chúng ta phải phản tỉnh coi mình có phạm những lỗi này không, nếu có
thì phải mau sửa đổi! Nếu không có thì phải tự nhắc nhở đừng bao giờ phạm. Cho
nên phẩm ba mươi hai đến phẩm ba mươi bảy là giới phẩm, nội dung là giải thích
rõ về ngũ giới và thập thiện, vô cùng trân quý !
6.
Kinh cứu mạng trong thời Mạt pháp – Phát Khởi
Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo Kinh.
Nhưng thói hư tật xấu của chúng ta thực sự
rất nhiều. Ðây là lý do người niệm Phật thì nhiều nhưng người vãng sanh được
rất ít, chúng ta phải tìm ra nguyên nhân của vấn đề này. Tại sao người niệm
Phật chẳng thể vãng sanh, vẫn còn phải đọa ba đường ác, nguyên nhân rốt cuộc là
ở chỗ nào? Tại sao công phu niệm Phật của chúng ta chẳng đắc lực? Tại sao hàng
phục phiền não tập khí của mình chẳng được?
Vì những vấn đề này nên chúng tôi mới giảng ‘kinh Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo’.
Tôi đã giảng bộ kinh này ba lần, tại Mỹ, Ðài Loan, và Tân Gia Ba, giảng tại Tân
Gia Ba tường tận nhất vì có đủ thời gian. Bộ băng thâu âm này đã được đồng tu
chép ra giấy đợi tôi coi xong, sửa đổi chút đỉnh rồi sẽ in thành sách. Bộ kinh
này là đức Thế Tôn đặc biệt dạy cho người hiện nay, giảng cho chúng ta biết
những lỗi lầm gì mà mình dễ phạm, chỉ cần chúng ta phạm một lỗi trong đó thì
niệm Phật chẳng được vãng sanh. Nếu lỗi nào cũng phạm thì quá nghiêm trọng rồi.
Thế nên lúc tôi giảng kinh đặc biệt đã nói rõ kinh này là ‘kinh cứu mạng’ trong thời mạt pháp, chúng ta nhất định phải hết
lòng học hỏi.
Thường thường chúng ta phạm lỗi nhưng chẳng
biết, sau khi Phật nói ra, phân tích rõ thì chúng ta mới biết. Tuy là giảng
kinh nhưng trong đó có rất nhiều ý nghĩa mà trên giảng đài tôi chẳng tiện nói
ra, nên tôi chỉ nói sơ sơ những gì phải nói mà thôi, chẳng thể nói rõ, nói rõ
thì sẽ đụng chạm người khác, hy vọng mọi người lắng lòng thể hội, tự cứu mình
rất quan trọng. Nếu chúng ta có thể cứu mình thì mới có thể giúp người khác,
mới có thể hoằng dương Phật pháp, gánh vác sự nghiệp kế thừa Như Lai, phát
triển sự nghiệp đại pháp. Ðệ tử xuất gia phải như vậy, đệ tử tại gia cũng chẳng
ngoại lệ.
Phật pháp là sự nghiệp to lớn của tứ chúng
đồng tu, tôi đã nói nhiều lần rồi. Chúng ta hy vọng đạo tràng hưng vượng, trong
đạo tràng có ba loại người, thứ nhất là những người có năng lực, có năng khiếu,
có hứng thú học giảng kinh; thứ nhì là người có hứng thú học dùng pháp khí, học
nghi thức, chủ trì Niệm Phật Ðường lãnh chúng tu hành; thứ ba là số còn lại,
hai công việc kể trên đều chẳng làm được thì làm công việc nội hộ, tức là làm
công việc hành chánh, làm công việc hộ trì đạo tràng. Ba loại người này hợp tác
với nhau thì đạo tràng này sẽ hưng vượng. Phật pháp mới có thể hoằng dương khắp
thế giới, làm lợi ích cho xã hội đại chúng, vô lượng công đức phải nhờ có ba
nhóm người này hợp tác với nhau.
7.
Khuyến tín, Khuyến nguyện. Tán thán lẫn nhau.
Ðến lúc giảng kinh buổi tối, pháp sư ở Niệm
Phật Ðường phải khuyên mọi người nghe giảng kinh, không thể nói: ‘Niệm Phật là đủ rồi, nghe giảng có ích gì?’
Câu này tuy chẳng sai nhưng là dùng để nói với người như thế nào? Là để nói với
những người thượng căn, trí óc lanh lợi, vì họ đều đã thông đạt hết rồi. Ngoài
ra còn dùng để nói với những người đầy đủ thiện căn, phước đức, nhân duyên, vì
họ chẳng có hoài nghi, công phu chẳng xen tạp, như vậy thì được! Chỉ có hai
loại người này được, nhưng hai hạng người này rất hiếm có, nhiều lắm là chỉ có
một, hai người trong số một vạn người. Người thường đều có căn tánh bậc trung,
người căn tánh bậc trung chẳng đủ tín tâm, nguyện tâm. Làm thế nào tăng thêm
tín tâm và nguyện tâm của họ? Bằng cách nghe pháp. Thế nên nghe giảng kinh rất
quan trọng. Bạn hãy coi lúc đức Phật Thích-Ca còn tại thế, mỗi ngày trong suốt
bốn mươi chín năm đều giảng kinh, thuyết pháp, đức Phật Thích-Ca chẳng hề đả
Phật thất, Thiền thất. Quý vị tra hết Ðại tạng kinh cũng chẳng tìm ra!
Tại sao đức Phật Thích-Ca chẳng đề cập đến sự
việc trong ‘Hành Môn’? Vì chỉ cần bạn
có đầy đủ tín, đầy đủ nguyện, thì tự mình sẽ hành, đâu cần người ta dạy? Thế
nên sự cống hiến của cả đời đức Phật là ‘Khuyến tín, khuyến nguyện’, nếu bạn có
tín, có nguyện thì tự nhiên sẽ làm theo. Cho nên nhất định phải khuyên người
nghe pháp thì mới chẳng phụ lòng đức Phật Thích-Ca đã thuyết pháp suốt bốn mươi
chín năm.
Pháp sư trong giảng đường nhất định phải
khuyên thính chúng đến Niệm Phật Ðường niệm Phật. Tại sao vậy? Chỉ nghe giảng
kinh, nghe xong chẳng làm, chẳng niệm Phật thì không có ích lợi, chẳng thể vãng
sanh. Ðây là phải khen ngợi lẫn nhau, cổ đức nói: ‘Nếu muốn Phật pháp hưng
vượng thì chỉ có cách Tăng khen ngợi Tăng’. Người xuất gia khen ngợi, tán
thán lẫn nhau thì Phật pháp sẽ hưng thịnh. Không những chúng ta khen ngợi người
của tông phái mình, chúng ta cũng phải tán thán người thuộc tông phái khác, tôi
đã nói đạo lý này rất nhiều lần rồi. Chúng ta phải có tâm lượng xinh đẹp này,
phải có sự nhận thức này, vô lượng pháp môn đều là do Phật dạy, nếu bạn nói: ‘Pháp môn của tôi mới tốt, pháp môn kia
chẳng tốt’ thì tôi hỏi có phải bạn đã phỉ báng Phật chăng? Báng Phật là tội
gì? Là tội đọa địa ngục A Tỳ đấy! Nếu bạn nói: tôi niệm Phật rất tốt [thì tại
sao lại đọa được?] Bạn niệm được rất tốt là chuyện khác, tội báng Phật này bạn
phải gánh chịu; huống chi bạn đã phạm một giới nặng, phạm Bồ Tát giới - tự tán
hủy tha - tự tán thán mình và hủy báng người khác. Trong Du Già Bồ Tát Giới
Bổn, giới tự tán hủy tha (khen mình chê người) là giới nặng nhất, là sẽ
đọa địa ngục A Tỳ đấy. Bao nhiêu người tạo tội nghiệp này mà chẳng biết! Tương
lai đọa lạc thì quá oan uổng! Phạm Võng kinh Giới Bổn chẳng liệt kê tội này vào
những tội nặng mà liệt vào hạng thứ nhì [tức thuộc bốn mươi tám giới khinh].
Trong Du Già Sư Ðịa Luận Bồ Tát Giới Bổn, tội này là tội thứ nhất - chẳng được
tự tán hủy tha. Thế nên chúng ta phải tôn trọng, phải tán thán các pháp môn
khác!
Năm 1977 tôi giảng kinh ở Hương Cảng. Pháp sư
Thánh Nhất đến nghe tôi giảng suốt ba ngày. Lúc đó tôi vốn chẳng quen biết
thầy, sau khi ra về, thầy khuyến khích tín đồ của thầy đến nghe tôi giảng kinh;
việc này rất hiếm có! Thầy là người học Thiền, tôi là người niệm Phật, [thầy]
chẳng có sự phân biệt môn hộ, rất đáng được tán thán! Thầy còn mời tôi đến
Thiền đường của thầy để giảng khai thị. Tôi đến chùa Bảo Liên trên núi Đại Dự,
lúc đó thầy còn trẻ tuổi, trong Thiền đường có hơn bốn mươi mấy người tham
Thiền, mỗi ngày đều tọa hương, thầy mời tôi đến giảng khai thị. Tôi không thể
nói: ‘Học Thiền không tốt, niệm Phật mới
tốt’. Thế nên tôi đến đó tán thán Thiền, hên là tôi cũng có chút đỉnh ‘khẩu đầu thiền’, vẫn có thể ứng phó
được. Hồi trước tôi đã giảng ‘Lục Tổ Ðàn
Kinh’, ‘Vĩnh Gia Thiền Tông Tập’, ‘Chứng Ðạo Ca’, Tín Tâm Minh của Tam Tổ,
giáo nghĩa của Thiền Tông tôi đã giảng chẳng ít cho nên cũng có chút đỉnh ‘khẩu
đầu thiền’ nói ra khuyến khích, tán thán họ. Tán thán Thánh Nhất pháp sư, tán
thán đạo tràng, tán thán đại chúng; Tăng tán thán Tăng làm cho họ có thêm lòng
tin đối với pháp môn này, càng tôn kính pháp sư của họ, chúng ta phải giúp họ.
Tôi học phương pháp này ở đâu? Là do Chương
Gia đại sư dạy cho tôi; sau này tôi cũng thấy sự tán thán lẫn nhau trong kinh
Hoa Nghiêm. Thế nên từ đó tôi và Thánh Nhất pháp sư trở thành bạn thân. Tôi
cũng là bạn cũ của pháp sư Diễn Bồi ở Tân Gia Ba, thầy tu theo Di Lặc Tịnh Ðộ,
tôi tu Di Ðà Tịnh Ðộ, chẳng giống nhau! Tôi đến Tây phương Cực Lạc thế giới,
thầy đến Ðâu Suất Nội Viện. Lúc thầy mời tôi thuyết giảng tôi chẳng thể nói: ‘Di Lặc Tịnh Ðộ tuy gần nhưng chẳng dễ đến!’,
không thể nói như vậy. Tôi không thể nào tán thán mình, không thể hủy báng
thầy. Thầy ở tại đó đã dạy học hơn hai mươi mấy năm, rất nhiều người đều theo
thầy học Di Lặc Tịnh Ðộ, chúng ta chẳng thể phá hoại người khác. Cổ đức có nói:
‘Thà chịu khuấy động nước trong ngàn sông nhưng chẳng nên động tâm của người
tu đạo’ (Ninh động thiên giang thuỷ, bất động đạo nhân tâm). Thế nên
tôi đến đó tán thán Di Lặc Bồ Tát, tán thán Di Lặc Tịnh Ðộ, một chữ về Di Ðà
Tịnh Ðộ cũng chẳng nhắc đến, đây là lễ phép, là việc chúng ta phải làm.
Khi đến một đạo tràng nào đó lại phê bình đạo
tràng, tự tán dương pháp môn mà mình tu học, thì đó là ngu si! Vừa nghe bạn
liền biết người này ngay cả thường thức, lễ tiết thông thường cũng chẳng hiểu.
Nhưng hiện nay người như vậy rất nhiều, ngược lại người thông suốt, hiểu rõ thì
quá ít. [Nghe tôi] tán thán Thiền Tông, trên đường từ núi Ðại Dự ra về có đồng
tu hỏi:
‘Thưa
Pháp sư, Thiền hay như vậy tại sao thầy chẳng tu Thiền? Tại sao thầy lại niệm
Phật?’.
Tôi trả lời: ‘Căn cơ của tôi rất thấp! Thiền
là dành cho người thượng thượng căn, tôi là người hạ hạ căn, chỉ niệm A-Di-Ðà
Phật cầu sanh Tịnh Ðộ’.
Tôi nói như vậy là lời nói chân thật. Chúng
ta phải học chư Phật, Bồ Tát ‘phải thường nâng cao người khác, khiêm nhường
hạ mình xuống, tuyệt đối sẽ có lợi ích – [lợi ích] là phá trừ ngã chấp, phá trừ
ngã mạn’.
‘Ngã chấp và ngã mạn’ là những thứ làm người
tu hành như chúng ta mất mạng, là chất độc nguy hiểm nhất’, Phật dạy chúng ta dùng phương pháp này để
phá trừ -- bất luận ở đâu chúng ta cũng phải hạ thấp mình xuống, luôn luôn nghĩ
mình chẳng bằng ai hết, người nào cũng giỏi hơn mình nhiều. Ðây là sự thật!
Người nào cũng có sở trường của họ, tôi chẳng sánh bằng. Nếu làm được như vậy
thì tâm mình sẽ yên ổn, tự nhiên sẽ hàng phục được thói quen cống cao, ngã mạn,
sẽ giúp rất nhiều cho ‘giải, hành’ của mình.
8.
Niệm niệm vì Phật pháp, vì chúng sanh
Hy vọng các bạn đồng tu cùng nhau nỗ lực hết
lòng học tập, đặc biệt là công việc nghiên cứu, thâm nhập giáo lý, việc này hết
sức quan trọng, không thể sơ suất bỏ qua, phải tận tâm tận lực để làm. Ðặc biệt
quý vị ở đây thiệt đúng là nhân duyên hết sức tốt đẹp, cả đời người rất khó
kiếm được, đừng để quang âm mòn mỏi, thời gian luống trôi. Cùng nhau nỗ lực học
tập không những có thể làm gương mẫu cho đồng tu học Phật, cũng làm tấm gương
tốt cho xã hội đại chúng. Làm cho xã hội đại chúng nhìn thấy người học Phật đều
rất hiền lương, giữ gìn phép tắc, tuân giữ luật pháp, các bạn sẽ được xã hội
đại chúng tôn trọng. Họ tôn trọng bạn tức là tôn trọng Phật pháp, mến mộ bạn
tức là mến mộ Phật pháp; Phật pháp tự nhiên ở địa phương này, xã hội, quốc gia
này có thể phát triển, đây là công đức lớn lao của các bạn.
Nếu chúng ta học Phật mà ngôn hạnh đều chẳng
đúng như pháp, xã hội mất cảm tình đối với chúng ta, như vậy chẳng phải chỉ hại
cá nhân của bạn mà thôi, bạn đã tiêu hủy hết thảy tiền đồ của Phật pháp. Người
ta vừa nghe bạn là Phật giáo đồ - Phật giáo đồ chẳng giữ luật lệ, Phật giáo đồ
lộn xộn - như vậy có được không? [Nếu vậy] bạn đã phá hoại hình tướng của Phật
pháp. Thế nên chúng ta học Phật phải làm gương mẫu cho xã hội đại chúng, nhất
định phải tuân giữ luật pháp. Hiện nay việc mà người ta rất khó giữ là ‘tham lam tiền tài’. Vì tham tài nên tìm
đủ mọi cách trốn thuế; chuyện này chẳng đúng như pháp, việc này tuyệt đối là
sai lầm. Quốc gia Úc này đang phải trả nợ, kinh tế quốc gia rất khó khăn, chúng
ta đóng thuế là việc đương nhiên nên làm. Người học Phật phải tu hạnh từ thiện,
thường thường từ bi cứu trợ, quốc gia này có khó khăn mà bạn không giúp đỡ thì
chẳng nên. Trong kinh Phật dạy đệ tử của Phật tuyệt đối chẳng trốn thuế, nếu
bạn trốn thuế thì bạn đã vi phạm lời giáo huấn của Phật.
Huống chi bạn học Phật, tương lai sẽ thành
Phật, pháp duyên độ chúng sanh của bạn phải rộng, phải thịnh. Muốn pháp duyên
hưng vượng thì phải kết duyên; hôm nay bạn đóng thuế là có duyên với quốc gia
này, kết duyên với quốc gia này; tại sao chúng ta chẳng làm chuyện tốt này? Bạn
có duyên với chúng sanh, có duyên với khu vực, quốc gia này thì tương lai khi
bạn thành Phật, làm Bồ Tát bạn sẽ đến chỗ này dạy dỗ chúng sanh, pháp duyên của
bạn sẽ thù thắng! Thế nên niệm niệm phải đừng nghĩ cho mình, niệm niệm phải vì
xã hội, vì chúng sanh tức là vì Phật pháp. Học Phật phải bắt đầu từ đây, chi
tiết quá nhiều nói chẳng hết, hy vọng mọi người có thể nghe một hiểu mười.
Ngày mai tôi sẽ nói sơ lược với quý vị về
cương lãnh tu học của Tịnh Tông: Tam phước, Lục hòa, Tam Học, Lục độ, Thập
nguyện. Vì thời gian rất ngắn nên chỉ có thể giới thiệu đơn giản; lúc trước tôi
có giảng kỹ về Tịnh Nghiệp Tam Phước, chúng ta nên nghe nhiều về đề tài này để
biết rõ mình phải làm những gì trong đời sống hằng ngày. Xin cám ơn quý vị.
Buổi nói chuyện tại Tịnh
Tông Học Hội Úc Châu, 1997 (ngày thứ nhì)
[1] Trong kinh có tỷ dụ ‘thân
người khó được’ như sau: từ trên đỉnh núi cao thả một sợi chỉ xuống, phía
dưới chân núi đặt một cây kim, thả sợi chỉ từ đỉnh núi xuống và xỏ ngay vào cây
kim ở dưới chân núi, gió vừa thổi nhẹ thì sợi chỉ chẳng biết sẽ bay đến phương
nào rồi! Ðừng nói là chỉ có một sợi, dù có một ngàn sợi, mười ngàn sợi, có sợi
nào may mắn xỏ được ngay vào lỗ kim, sác xuất của việc này xảy ra vô cùng nhỏ
bé, chuyện này rất khó xảy ra, mất thân người rồi muốn được thân người trở lại
cũng khó như vậy!
Nhận xét
Đăng nhận xét