IX. KHUYÊN NHỦ CÁC THIỆN TÍN TẠI GIA
ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC
Bửu Quang Tự Đệ Tử Như Hòa dịch
9.1. Dạy về luân thường đại
giáo
* Phải tận tánh học Phật thì mới có
thể tận hết luân thường học Khổng. Phải tận hết luân thường học Khổng thì mới
có thể tận tánh học Phật. Thử nhìn vào những bậc đại trung, đại hiếu, và những
vị nêu tỏ tâm pháp của thánh hiền trong Nho giáo xưa nay, không vị nào là chẳng
nghiên cứu kinh Phật sâu xa, ngầm tu, thầm chứng. Hợp hai đạo Phật và Nho lại
thì cả hai cùng tốt đẹp, tách ra thì cả hai cùng bị tổn thương; bởi lẽ, người
trong cõi đời không ai chẳng thuộc trong vòng luân thường, mà cũng không ai ra
khỏi tâm tánh được. Để trọn vẹn luân thường và tâm tánh ấy, hãy dùng “chẳng làm các điều ác, vâng làm các điều
thiện” của nhà Phật để khắc kỷ, giữ lễ, ngăn lòng tà, giữ lòng thành, dùng “cha hiền, con hiếu, anh nhường, em kính”
để bổ trợ. Do vậy, cha con, anh em v.v... dắt dìu nhau cùng trọn vẹn luân
thường, tâm tánh, trừ khử phiền hoặc huyễn vọng, khôi phục Phật tánh sẵn có.
Không chỉ về Thể là một, mà về Dụng cũng chẳng có hai!
* Phải biết rằng: Phật pháp là pháp
chung của cả chín pháp giới, không một ai là chẳng nên tu, mà cũng không ai là
chẳng thể tu! Những kẻ nói “Phật giáo vứt bỏ nhân luân, làm hại thánh đạo” đều
là những kẻ mù chẳng thấy hình sắc mà cứ luận càn. Vì sao nói như thế? Đức Phật
đối với cha dạy lòng Từ, với con dạy lòng Hiếu, với vua dạy lòng Nhân, với bầy
tôi dạy lòng Trung, chồng xướng, vợ theo, anh nhường, em kính. Với những lời lẽ
hay đẹp, những hành vi tốt đẹp, không điều nào kinh Phật lại chẳng thuật rõ túc
nhân hậu quả, hiện nhân hậu quả. Những điều Phật dạy về lòng Từ, lòng Hiếu
v.v... giống như Nho giáo, nhưng những điều đạo Phật dạy về nhân quả ba đời thì
Nho giáo còn chưa bao giờ được nghe đến, huống hồ là “đoạn Hoặc, chứng Chân” và
“viên mãn Bồ Đề, quy về pháp vô sở đắc”! Tiếc là những kẻ ấy chưa được biết
đến, chứ nếu đọc kỹ, nghĩ chín, ắt sẽ khóc lóc, đau đớn, tiếng rền cả đại thiên
thế giới, buồn thương vì tội lỗi báng Phật vậy!
* Muốn học Phật, Tổ, trước hết phải
giữ pháp Thánh Hiền. Nếu như thiếu sót bổn phận, trái nghịch luân thường thì đã
là kẻ tội nhân trong danh giáo[1],
còn làm đệ tử Phật sao được? Phật giáo tuy vượt ngoài thế pháp, nhưng gặp vua
nói Nhân, gặp bầy tôi nói Trung, gặp cha nói Từ, gặp con nói Hiếu, từ cạn mà
dần đến sâu, hạ học, thượng đạt (học từ
những điều căn bản, thấp kém, nhưng đạt được những điều cao quý). Hãy đọc
kỹ An Sĩ Toàn Thư, ắt sẽ biết đại khái!
* Muốn làm Phật tử chân thật, phải
bắt đầu làm chân Nho trước đã. Nếu đối với những sự như chí tâm, thành ý, khắc
kỷ, giữ lễ, giữ lòng kính, trọng lòng thành, hiếu đễ, vui vẻ, cung kính... mà
chẳng thể tu tập, đôn đốc, thì nền tảng chẳng kiên cố, học Phật sao được? Chọn
lấy tôi trung trong đám con hiếu; kẻ tánh hạnh trái nghịch Nho phong, lẽ nào có
thể gánh vác gia nghiệp của Như Lai, trên nối tiếp huệ mạng, dưới hóa độ chúng
sanh cơ chứ? Phật pháp không chuyện gì to lớn chẳng bao hàm, không điều gì nhỏ
nhặt chẳng nêu lên. Dù là pháp thế gian hay xuất thế gian, không một pháp nào
lại chẳng thuộc vào phạm vi của Phật pháp. Những kẻ câu nệ, hủ bại trong thế
gian thường cứ bảo “xuất gia là trái nghịch luân lý”, họ đều là hạng chưa suy
xét thấu đáo đã vội hủy báng, do sợ mắc nghẹn nên bỏ ăn, tự chôn vùi tánh mạng,
thật là đáng thương!
Nếu có thể mở rộng tầm mắt, mới biết
Phật pháp lưu truyền rộng rãi khắp trong ngoài Trung Hoa, đạo pháp thạnh hành
cả hai ngàn năm qua, được rất nhiều vua thánh, tôi hiền, hào kiệt, vĩ nhân hộ
trì, truyền bá. Lẽ đương nhiên, đạo ấy phải là chân đạo mà phàm tình chẳng thể
suy lường! Dù có bị một hai gã Nho sĩ câu nệ, hẹp hòi bài xích, hay những tên
vua bạo ác hủy phá, rốt cuộc hai tay vẫn không che nổi mặt trời, ngửa mặt nhổ
lên trời, chỉ càng tự phô bày cái thấy biết kém cỏi, ít ỏi của mình mà thôi, tự
lầm lạc gây tạo tội lỗi, rốt cuộc Phật pháp có bị tổn hại gì! Lại có kẻ bề
ngoài làm ra vẻ chê bai Phật pháp, bên trong lại thật sự tu chứng. Từ đời Tống
đến nay, những bậc danh nho không có ai là chẳng như vậy! Vì lẽ đó, Quang nói “thành ý chánh tâm do vậy hãy còn khiếm
khuyết” thật đúng là lời bàn quyết định vậy!
* Đối với việc học Phật, vốn phải
trọn vẹn nhân đạo thì mới hòng hướng đến. Nếu chẳng thật sự thực hành hiếu, đễ,
trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ, dù có suốt ngày thờ Phật, Phật cũng chẳng gia
hộ! Ấy là vì Phật giáo bao gồm hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian. Do
đó, với cha nói Từ, với con nói Hiếu, khiến cho ai nấy đều tận hết bổn phận làm
người, sau đấy mới tu pháp xuất thế. Ví như muốn dựng lầu cao vạn trượng, ắt
trước hết phải đắp nền móng kiên cố, khai thông đường nước, thì lầu cao vạn
trượng mới có thể xây lên được, mới vĩnh cửu chẳng hư hoại. Nếu như nền móng
chẳng vững, ắt chưa xây xong đã sụp.
Sách Luận Ngữ nói: “Tuyển trung
thần ư hiếu tử chi môn” (chọn tôi
trung từ nơi con hiếu); học Phật cũng giống như vậy. Xưa kia, ông Bạch Cư
Dị hỏi Ô Khoa Thiền Sư[2]: “Thế nào là đại ý Phật pháp?”. Sư dạy: “Đừng làm các điều ác, vâng làm các điều
lành”. Muốn học Phật pháp, phải khắc kỷ, dè dặt, việc gì cũng đều phải phát
xuất từ cái tâm chân thật mà làm. Người như vậy mới đáng gọi là chân Phật tử.
Nếu tấm lòng gian ác, lại toan mượn Phật pháp để tránh tội nghiệp, có khác gì
trước đã uống thuốc độc, sau lại uống thuốc bổ, muốn cho thân thể khỏe mạnh,
nhẹ nhàng, kéo dài tuổi thọ, phỏng có được chăng?
* Đại trượng phu muốn văn chương
trùm thiên hạ, công nghiệp vang dội vũ trụ, nhưng chẳng thể đoạn Hoặc, chứng
Chân, liễu sanh thoát tử, thì chỉ là chấp vào cái bên ngoài, bỏ sót cái bên
trong, chấp cái Có tuy nó chỉ là đằng ngọn, bỏ đi cái Không dù nó chính là đằng
gốc. Người đời ai có thể vẹn toàn được mọi việc? Chúng ta chỉ nên gắng sức giữ
vẹn luân thường, tận lực tu Tịnh nghiệp là được, cần gì phải bận tâm đến điều
gì khác nữa!
* Trộm nghĩ Nho lễ coi trọng cúng tế
Xuân Thu, Thích giáo đặt nặng chuyện quanh năm truy tiến. Nghĩ đến cái ân nguồn
nước, cội cây, mà thực hành cẩn thận, chu đáo việc truy tiến thì thế gian và xuất
thế gian há có ngăn cách ư?
9.2. Luận về giáo dục gia
đình
* Gia đình muốn hưng thịnh, phải bắt
đầu từ gia quy nghiêm chỉnh. Gia đình gần như tan nát bắt nguồn từ coi nhẹ hoặc
phế bỏ gia quy. Muốn con em thành người, phải bắt đầu từ hành vi, việc làm của
mình sao cho đúng phép tắc, hòng làm gương cho con em. Lý nhất định phải là như
thế! Như nay muốn bắt đầu [giáo dục con em] ít tốn công sức nhất, trước hết,
hãy nói về nhân quả báo ứng khiến cho chúng tập thành tánh, mới hòng mai sau chẳng
đến nỗi làm càn quá đáng. Đây thật đúng là diệu pháp bậc nhất để tề gia, dạy
con, khiến cho đời yên, dân hiền vậy.
* Con em có nên người hay chăng, chỉ
là do giáo dục trong gia đình. Phàm đối với con cái, ngay từ nhỏ, phải dạy
chúng hiếu, đễ, trung, tín, siêng năng, tiết kiệm, ôn hòa, cung kính, để khi
chúng lớn lên đi học đọc sách mới có nền tảng để hưởng được lợi ích. Nếu như từ
nhỏ đã dung túng thành thói, hãy khoan kể đến những đứa không có thiên tư,
không được học hành đàng hoàng; ngay cả những đứa có thiên tư, có học hành đàng
hoàng, cũng chỉ thành thợ gọt giũa chữ nghĩa, thành kẻ bại hoại trong cửa Nho
mà thôi! Đời có kẻ tài ngang Bắc Đẩu, học rộng năm xe[3],
nhưng hành vi, việc làm toàn là ỷ mình thông minh, độc hại sanh linh, hủy diệt
đạo nghĩa. Những hạng ấy vốn là do từ thuở đầu đã thiếu sự giáo dục trong gia
đình mà nên nỗi. Văn Vương nêu gương khiến từ vợ ông ta cho đến anh em đều nói
theo, cho đến khắp cả nước, nên giữ vững gia đình, đất nước; cũng như sách Đại
Học nói muốn trị thiên hạ và quốc gia thì phải bắt đầu từ “cách vật trí tri,
thành ý chánh tâm”, đều
vì cùng một mục đích. Đấy chính là bí quyết vô thượng để dạy con người trở
thành thánh, thành Hiền của đạo Nho. Bỏ điều này, cầu lấy điều khác, đều toàn
là tìm tòi nơi cái ngọn vậy!
* Đối với tình hình hiện tại, ngay
khi con cái biết nói, nhận biết sự vật, trong nhà hãy dạy cho con nhận biết mặt
chữ trước. Mỗi tờ giấy chỉ viết một chữ, đừng viết cả hai mặt. Hạn định mỗi
ngày mấy chữ, mỗi ngày học thuộc mặt những chữ đó xong, lại bắt con nhận mặt
toàn bộ các chữ đã học một hai lượt nữa. Chưa hơn một năm, con sẽ biết được
nhiều chữ. Sau này, lúc con đọc sách, phàm đọc qua chữ nào đều nhận biết, chẳng
đến nỗi có cái tệ miệng chỉ đọc làu làu [nhưng vẫn không biết chữ].
Tùy theo năng lực của con, sai con
làm những việc lặt vặt để tập tánh siêng năng. Đừng cho con ăn uống, mặc quần
áo quá sang trọng. Phàm những khi con phí phạm ngũ cốc và làm hư hỏng vật gì,
chẳng cần biết vật ấy quý giá hay tầm thường thế nào, phải bảo cho con biết
những vật ấy chế tạo chẳng dễ, cũng như nói đến những nghĩa lý bị tổn phước,
giảm thọ v.v... Nếu con vẫn vậy, nhất định phải trách phạt, quyết chẳng bỏ qua.
Có như thế, con sẽ tự kiệm ước, trọn chẳng đến nỗi xa xỉ, phung phí.
Khi con đọc được sách, bảo con hãy
đọc kỹ các sách Âm Chất Văn, Cảm Ứng v.v... thuận theo từng mặt chữ mà giảng
giải. Hễ hành vi hằng ngày của con là tốt lành, bèn chỉ cho con thấy điều thiện
trong hai sách ấy để khen ngợi. Nếu hành vi nào không tốt, bèn lấy những điều
bất thiện trong hai sách ấy để quở trách (nhà
cư sĩ Bành Nhị Lâm đỗ đạt đứng đầu tỉnh Chiết Giang, từ nhiều đời qua đều tuân
thủ hai sách ấy. Nhà ấy, trạng nguyên rất nhiều, nhưng đều suốt đời tuân thủ
hai sách ấy, chẳng bỏ phế). Như vàng đổ khuôn, như nước có đê ngăn, lẽ nào
chẳng thành vật dụng, vẫn cứ chảy lung tung như cũ ư? Con người có đúng là
người hay không là do từ nền tảng ấy. Chẳng giảng đến điều ấy, lại muốn trở
thành con người vẹn toàn, họa chăng thiên tư phải hơn cả Mạnh Tử!
Đến tuổi đi học, đừng cho con vào
học ngay những trường hiện thời đang mở, hãy nên hợp vài nhà [có con em trong
tuổi vỡ lòng lại] mời một vị thầy học vấn và đức hạnh đều tốt đẹp, tin sâu nhân
quả, để dạy con học Tứ Thư, Ngũ Kinh. Đợi đến khi con học được mấy phần, đối
với văn tự lẫn đạo lý đều chẳng bị lầm lạc bởi những tà thuyết, tục luận, mới
cho con vào học những trường hiện thời để mở rộng tầm mắt, biết suy xét việc,
chẳng đến nỗi hành động trái thời, không có cách gì tiến lên được! Làm được như
thế, đứa con nào có thiên tư sẽ tự thành đạt, đứa không có thiên tư cũng thành
người lương thiện. Thật sự ra, những điều lão tăng hay nói chẳng ngoài những
chuyện “riêng mình thiện, khiến người khác cũng thiện, tự lợi, lợi người”!
* Dạy con cái phải bắt đầu từ căn bản.
Cái căn bản vừa nói đó chính là hiếu thảo với cha mẹ, giúp đỡ mọi người, nhẫn
nhục, chuyên gắng, dùng chính thân mình dạy dỗ người khác, nêu gương đạo đức.
Như vàng hay đồng đã nung chảy, nghiêng rót vào khuôn, khuôn ngay sẽ ra hình
ngay, khuôn méo thành hình méo. Chưa đổ vào khuôn đã biết trước là sẽ lớn, nhỏ,
dầy, mỏng, huống gì khi đã đúc xong. Gần đây, lòng người phần nhiều chẳng biết
đến điều ấy, cho nên những con em có thiên tư đa phần ngông cuồng, bồng bột, kẻ
không có thiên tư lại ương bướng, hèn kém. Đó là vì lúc nhỏ chẳng uốn vào khuôn
phép, như nước đồng sôi đổ vào khuôn hỏng, ắt phải thành đồ hư. Kim loại vốn
chỉ một, nhưng đồ đúc ra sai khác nhau một trời một vực, tiếc thay! Phật lấy Vô
Ngã làm giáo. Hiện tại, những kẻ có chút tri kiến thường nhìn lên tận trời, cứ
tưởng chỉ có nghĩa lý văn tự mới là Phật pháp, chẳng biết “tu thân, tịnh tâm, diệt trừ ngã tướng, tận lực tu Định, Huệ, ngõ hầu
đoạn Hoặc, chứng Chân” là Phật pháp!
* Trộm nghĩ: Cha mẹ yêu con không gì
chẳng quan tâm, chỉ có bệnh tật, hoạn nạn là thêm bận tâm. Con trẻ vừa biết nói
liền dạy nó niệm danh hiệu Nam-mô A Di Đà Phật và Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát,
khiến cho những điều kém xấu đã vun bồi trong đời trước của nó, nay nhờ thiện
lực này, ắt tai họa sẽ tiêu ngay khi chưa nẩy mầm, được phước nhưng chẳng biết,
không còn phải lo ngại các hiểm nạn tai ương, bệnh tật, khổ sở v.v... Khi con
vừa hiểu biết đôi chút, liền dạy con trung hậu, khoan dung, nhân từ, kiêng
giết, phóng sanh và những sự tích nhân quả ba đời rành rành, ngõ hầu tập thành
tánh, ngay từ lúc còn thơ đã chẳng dám giết hại tàn nhẫn các loài trùng kiến
nhỏ nhoi, lớn lên quyết chẳng đến nỗi làm điều gian ác, khiến cho cha mẹ, tổ
tiên mang nhục lây!
* Con em có tài hoa, nếu được khéo
giáo hóa, sẽ dễ trở thành người chánh trực; không khéo giáo hóa, đa số sẽ thành
hạng bại hoại. Ngày nay, dân không lẽ sống, nước nhà lắm nỗi gian nan, mấy phen
chao đảo, đều là do những kẻ có tài năng nhưng không được khéo dạy khiến cho
mầm họa được ươm từ từ. Người không có tài, đương nhiên phải dạy họ thành thực;
đối với người có tài, càng phải nên dạy họ thành thực. Thế nhưng thành thực vẫn
có thể là giả vờ. Thoạt đầu, hãy thường nên dạy dỗ về nhân quả báo ứng và đạo lý
“con người khởi tâm động niệm gì, mỗi điều thiên địa quỷ thần đều biết, đều
hay”, khuyên con phải đọc kỹ các sách Âm Chất Văn, Thái Thượng Cảm Ứng Thiên,
đừng nghĩ chúng không phải là sách Phật rồi xem thường. Ấy là vì phàm phu tâm
lượng thiển cận, nếu dùng những lý xa xôi lớn lao để giảng nói, sẽ khó thể lãnh
hội. Những sách ấy dù già hay trẻ nghe đến đều được lợi ích, huống hồ là những
người lấy việc chú trọng điều thiện làm thầy ư? Đối với tử thi, phân nhơ, rắn
độc mà đức Phật còn dạy con người quán để chứng A La Hán, số [người chứng ngộ]
ấy còn nhiều hơn cát sông Hằng; huống hồ những lời lẽ thiết thực, tồn tâm dưỡng
tánh, cảnh tỉnh này, [há nên xem thường ư?]
* Còn thuộc địa vị phàm phu, chẳng
thể không bệnh, nhưng cũng chẳng nên bỏ mặc, chẳng trị. Cách trị bệnh tốn ít
sức nhất, lại được lợi ích nhiều nhất, là lấy bệnh làm thuốc. “Lấy bệnh làm
thuốc” nghĩa là chẳng để bệnh lụy mình. Chẳng hạn như cái bệnh yêu mến con cái
quyết chẳng thể đoạn được, thì chẳng ngại gì dùng ngay sự yêu mến đó làm cái
gốc khiến cho con cái khi sống làm người chân chánh, chết đi sanh về Tịnh Độ.
Yêu con như vậy là biến phàm tình thế gian thành thánh quả xuất thế gian. Nếu
chẳng khéo sử dụng lòng Ái, mặc lòng nuông chiều con, thì còn hơn giết chết con
cả trăm ngàn vạn ức vô lượng vô biên lần! Nước nhà diệt vong, nhân dân đồ thán,
đều là do những kẻ làm cha mẹ chẳng hiểu rõ sự tình un đúc nên, chẳng đáng buồn
ư?
* Muốn cho con cháu chẳng hướng theo
nẻo bại hoại, cùng nhau noi theo chánh đạo, hãy nên lấy các sách Cảm Ứng Thiên
Vựng Biên và Âm Chất Văn Quảng Nghĩa làm kim chỉ nam. Dù những làn sóng thế tục
xấu ác vây bủa ngập trời, mây đen phủ kín mặt nhật, cũng chẳng đến nỗi chẳng
biết hướng về đâu, chìm đắm mất cả. Nếu không, dù gió lặng, sóng yên, mặt trời
chiếu sáng tỏ, cũng khó bảo đảm không có nước xoáy, vào đó liền bị đắm chìm,
huống hồ trọn chẳng có chuyện gió yên, sóng lặng, mặt trời chiếu rạng ngời thế
đạo nhân tâm! Phải biết nội dung hai chữ Âm Đức rất rộng. Thành tựu con em
người ta, khiến cho chúng thành thánh, thành hiền, cố nhiên thuộc về Âm Đức.
Thành tựu con em của chính mình, khiến cho chúng thành thánh, thành hiền, cũng
là Âm Đức. Ngược lại, khiến cho con em người ta bị lầm lạc, đương nhiên là tổn
Âm Đức; khiến cho con em của chính mình bị lầm lạc, cũng là tổn Âm Đức. Nếu vừa
đủ khả năng lẫn đủ sức thì may mắn nào hơn! Nếu không, đối với những hành vi,
ngôn ngữ hằng ngày trong gia đình, phải lấy việc thành thánh, thành hiền làm
đầu, đấy chính là dùng Tục để tu Chân. Nay cư sĩ dùng thân mình để thuyết pháp,
xin hãy đem ý này thiết tha bảo cùng bè bạn và hết thảy người quen biết thì
cũng là một cách để tự lập, lập người, tự lợi, lợi tha vậy!
* Nhà Châu mở nước là do ba bà Thái[4]
tạo lập nền tảng, Văn Vương thành thánh là nhờ thai giáo. Do vậy biết rằng: Thế
gian không có bậc thánh, bậc hiền, là do đời thiếu những người mẹ thánh hiền mà
nên nỗi! Nếu như bà mẹ nào cũng giống như ba bà Thái, dù con họ chẳng thành
Vương Quý, Văn Vương, Châu Công, cũng hiếm có đứa làm bậy, gian ngoa. Thế nhưng
người đời chỉ biết yêu thương con cái, mặc tình nuông chiều thành thói, chẳng
biết làm gương cho con. Đây chính là một điều đại bất hạnh của nước ta.
Con người lúc còn nhỏ thường gần bên
mẹ, nên chịu ảnh hưởng của mẹ rất sâu. Con gái ngày hôm nay sẽ là mẹ người khác
trong mai sau. Muốn vun đắp quốc gia, phải lấy việc dạy dỗ con gái làm nhiệm vụ
cấp bách. Đừng bảo: “Con gái sẽ là con người khác, ta cần gì phải uổng công
nhọc sức lo lắng?” Phải biết rằng: Vì trời đất mà vun bồi một kẻ lương dân biết
giữ phận, không có công đức nào lớn hơn! Huống hồ nếu một cô gái đức hạnh vẹn
toàn, con cái cô ta ắt sẽ noi theo nề nếp tốt đẹp đó, còn gì vẻ vang hơn?
Vả nữa, con dâu và cháu dâu của mình
chẳng phải là con gái nhà người khác đó sao? Muốn cho đất nước quật cường,
không có hiền mẫu thì không có cách nào phụ trợ! Đời không mẹ hiền thì không
chỉ là nước không có dân lành, nhà không có con ngoan, mà ngay cả những gã thầy
chùa bại hoại sống bám vào Phật trong Phật pháp, thảy đều
do những bà mẹ bất hảo sanh ra. Nếu mẹ thật sự hiền, con sẽ trọn chẳng đến nỗi
đớn hèn như thế. Tiếc thay!
* Gia quyến của ông rất đông, khi
các cô em dâu, em gái, con gái v.v... của ông đi học về, hãy đem những sự những
nhân quả báo ứng và lợi ích của việc niệm Phật bàn luận cùng họ, ngõ hầu ai nấy
đều biết “trong tâm mình đã tự biết, thì tâm sẽ tương thông thiên địa quỷ thần,
cũng như sẽ tương thông với từ phụ Di Đà”. Do vậy, họ sẽ đoạn trừ ác niệm, tăng
trưởng chánh tín, ngõ hầu hiện tại đáng làm vợ hiền, tương lai xứng làm hiền
mẫu, khiến cho [nết tốt] đó truyền lan trong làng xóm, đấy cũng là pháp luân
căn bản để bình trị thiên hạ quốc gia.
Bồ Tát thuận theo thế tục lợi sanh,
chẳng bày vẽ phong cách riêng, đối bệnh cấp thuốc, khiến cho ai nấy đều theo
đúng đường về nhà mới thôi. Hiện tại, các phụ nữ trong chốn học đường đa phần
lầm lạc sanh dị tâm, toan nắm lấy chánh quyền, chẳng biết tự giữ bổn phận giúp
chồng dạy con chính là căn bản khiến cho thiên hạ thái bình. Bởi lẽ, vương
nghiệp nhà Châu bắt nguồn từ ba bà Thái. Ba bà Thái Khương, Thái Nhậm, Thái Tự
là những bậc thánh trong hàng nữ nhân, họ chỉ chú trọng dạy con ngay từ lúc còn
trong thai để ngầm giúp chồng. Người đời nay chẳng học theo gương ấy, những
điều họ toan tính đều là những mưu mô tai ác khiến cho thiên hạ loạn lạc biết
là chừng nào!
* Người sanh trong thế gian phải có
thiện ác phụ trợ mới hòng thành tựu được. Dù là bậc thánh trời sanh, vẫn cần
phải có hiền mẫu, hiền thê phụ trợ đạo đức, huống hồ là những kẻ kém cỏi hơn ư?
Do bà Thái Nhậm dạy con từ thuở trong thai, nên Văn Vương sanh ra đã có thánh
đức. Vì thế, kinh Thi khen ngợi chuyện Ngài nêu gương khiến cho từ vợ cho đến
anh em đều noi theo, khiến cho gia đình và cả nước yên vui. Đấy chỉ là nói
riêng về Văn Vương, chứ nếu luận về bà Thái Tự, cố nhiên đức hạnh của bà cũng
bổ trợ cho đường lối đạo đức của Văn Vương, như hai ngọn đèn cùng chiếu càng
thấy sáng ngời, hai tay cùng rửa mới được sạch sẽ. Xem những câu “tư tề Thái Nhậm, Thái Tự tự huy âm”[5] (đoan trang thay Thái Nhậm, Thái Tự nối
tiếng thơm), ắt sẽ thấy rõ. Vì thế mới nói: Đời ít người hiền là do đời
thiếu mẹ hiền và vợ hiền vậy! Đó là vì vợ hiền sẽ ngầm giúp chồng, mẹ hiền dạy
con cái ngay từ lúc còn trong thai. Huống hồ mấy năm đầu tiên, con luôn ở bên
mẹ, được uốn nắn theo khuôn mẫu tốt đẹp, thường được răn dạy, tánh tình sẽ ngầm
chuyển biến, chẳng mong đợi mà được như vậy.
Tôi thường bảo: “Dạy con gái là cái gốc để tề gia trị quốc”, lại cũng thường nói: “Quyền trị quốc bình thiên hạ, nữ nhân đã
nắm giữ quá nửa!” chính là ý này. Bởi lẽ, kẻ có thiên tư cao được mẹ hiền
un đúc, được vợ hiền giúp đỡ, ắt sẽ trở nên ý thành, tâm chánh, rạng ngời Minh
Đức, chuyên dốc chí nơi sự lành tột bậc, lúc cùng quẫn thì riêng mình thiện,
lúc hiển đạt bèn khiến thiên hạ cùng được tốt lành. Dẫu là kẻ thiên tư bình
thường, cũng có thể tuân thủ quy củ, một bề giữ phận lương dân, trọn chẳng đến
nỗi vượt lý, trái phận, làm điều sai quấy, gian dối, khiến cho cha mẹ nhục nhã,
gây hại cho đời.
Tiếc cho người đời mơ màng, chẳng
dạy con gái tận hết luân thường, giữ bổn phận, hằng ngày chỉ lo trau chuốt,
chẳng màng đến chuyện gì khác. Mai kia làm vợ người ta, làm mẹ người ta, không
chỉ chẳng thể giúp chồng dạy con trở thành thiện sĩ, trái lại, còn dạy con hóa
thành kẻ ác. Bởi vậy mới nói: Đối với con gái, phải dạy họ chú tâm dạy dỗ con
cái [mai sau]. Những câu tôi đã nói như “dạy
con gái là cái gốc để tề gia trị quốc” và “quyền trị quốc bình thiên hạ, nữ nhân chiếm quá nửa” chính là lời
chân thật.
Gần đây, học vấn phát triển mạnh mẽ,
phụ nữ đi học đa phần bị lầm lạc bởi những giáo viên chẳng biết dạy từ cội gốc.
Do đó, họ chẳng coi trọng chuyện tận hết luân thường, giữ bổn phận, yên cửa,
yên nhà, giúp chồng dạy con. Ai nấy đều muốn nắm lấy chánh quyền, làm trưởng
quan, toan tính quá phận, tập thói cuồng vọng, thật đáng than thở vậy! Nếu như
có kẻ đứng lên cực lực đề xướng việc vun bồi trong gia đình, khiến cho việc tu
thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ tự nhiên được hữu hiệu thì may mắn lắm
thay!
* Phận làm con cố nhiên phải tỏ bày
đức hạnh của cha mẹ. Để tỏ bày đức ấy, phải chú trọng đến chuyện bản thân tự
hành, chính mình phải khắc kỷ giữ lễ, ngăn tà, giữ lòng thành, biết sai liền
sửa, thấy điều nghĩa bèn làm, hiểu nhân rõ quả, kiêng giết, phóng sanh, đừng
làm các điều ác, vâng làm các điều thiện, sanh Tín, phát nguyện trì danh hiệu
Phật, tự hành, dạy người cùng sanh Tịnh Độ. Có thể làm như vậy, dù người ta
chẳng biết đến đức hạnh của cha mẹ, nhưng do ngưỡng mộ đức hạnh của người ấy,
cũng sẽ ngưỡng mộ lây đức hạnh của cha mẹ và tổ tiên kẻ đó; cho rằng ông bà cha
mẹ phải ngầm tu đức hạnh đã lâu, nên mới có được con cháu nối tiếp như thế. Nếu
không, dù cha mẹ, tổ tông có đức tốt ai nấy đều biết, nhưng con cái không ra
gì, người ta ắt sẽ đâm ngờ cha mẹ, tổ tông tuy có đức tốt, biết đâu lại có
những điều ác ẩn giấu. Nếu không, sao từ cửa đức hạnh tốt đẹp, lại nẩy nòi hạng
con cháu tệ hại đến thế? Vì thế, phải biết rằng: Lập thân hành đạo chính là
biểu dương đức hạnh của cha mẹ, tổ tông. Làm con phải chú trọng lòng kính, cẩn
thận, dè dặt, tận lực thực hành như thế, mới mong khỏi làm nhục lây bậc sanh ra
mình!
* Đời có hiền mẫu thì mới có hiền
nhân. Các thánh mẫu đời xưa chú trọng thai giáo để un đúc bẩm chất con cái ngay
từ thuở đầu, mong mỏi con tập quen thành tánh. Thế gian gọi nữ nhân là Thái
Thái là vì ba vị thánh nữ Thái Khương, Thái Nhậm, Thái Tự, bà nào cũng giúp
chồng dạy con, mở mang vương nghiệp tám trăm năm [của nhà Châu]. Cho nên mới
dùng chữ Thái Thái để gọi nữ nhân. Quang thường nói: “Quyền bình trị thiên hạ, nữ nhân nắm hơn quá nửa”. Tôi còn thường
nói: “Dạy con gái là cái gốc để tề gia
trị quốc”, hàm ý: Tận hết đạo làm vợ, giúp chồng dạy con.
Chẳng như nữ lưu ngày nay, đa số
chẳng giữ bổn phận, vọng động muốn nắm lấy chánh quyền, làm đại sự, chẳng biết
vun bồi ngay từ trong gia đình. Đấy đúng là: Gom sắt cả chín châu vạn quốc,
cũng chẳng thể đúc nổi lỗi lầm to lớn ấy. Do đó, thế đạo nhân tâm ngày càng suy
đồi, tai trời vạ người xảy ra liên miên. Tuy những tai vạ ấy do ác nghiệp đồng
phận của chúng sanh cảm thành, nhưng thật ra cũng là do đánh mất sự giáo dục
trong gia đình mà nên nỗi!
Vì thế, kẻ có thiên tư quen thói
cuồng vọng, người không có thiên tư trở thành bướng bỉnh, sàm sỡ. Nếu như ai
nấy đều được mẹ hiền uốn nắn, người người đều thành thiện sĩ, cùng quẫn thì
riêng mình thiện, hiển đạt sẽ khiến người khác cùng thiện; sao đến nỗi trên
không có đạo để noi theo, dưới không pháp để tuân giữ, thói tệ nảy sanh trăm
mối, dân không lẽ sống vậy!
* Chỉ cầu sao chẳng đói, chẳng rét,
mơ chi phát tài cự vạn. Để vàng ròng đầy rương cho con, chẳng bằng dạy con một
quyển kinh. Tổ đức bị sứt mẻ mới đáng chết thẹn, chứ tổ nghiệp bị sứt mẻ, há có
thương tổn chi!
* Con em nhà phú quý phần đông chẳng
nên người, nguyên do là [cha mẹ] thương con, nhưng chẳng hiểu đạo, hoặc chỉ chú
trọng tiền tài, hoặc chỉ lo cho con ăn mặc sang trọng. Tiền xài mặc sức, ắt sẽ
đến nỗi ăn bậy thành bệnh. Nếu cho đứa này giữ tiền để sanh lợi thì những đứa
kia chẳng được giữ sẽ oán hờn cha mẹ, sanh lòng đố kỵ với anh, em, chị em nào
được giữ tiền. Đấy đều chẳng phải là cách để dạy con hiếu đễ. Nếu con gái có
tiền, khi xuất giá, ắt sẽ cậy tiền tự kiêu, hoặc khinh thường chồng, hoặc chẳng
hiểu rõ sự việc, đem tiền giúp chồng làm việc quấy.
Muốn cho con cái thành hiền nhân,
hãy nên vun bồi phước, chớ nên tích cóp tiền tài. Của cải là gốc họa. Các vị
từng thấy không ít người tay trắng làm nên, đều là do không có tiền, tự mình
siêng gắng mà đạt được, nhưng nhà đại phú phần nhiều chẳng mấy chốc gia sản
trống rỗng. Vì thế, cổ nhân nói: “Để cho con một rương đầy vàng, chẳng bằng
để cho con một quyển sách”. Học hành được thì học, không thể thì làm nghề
nông, hoặc buôn bán, ai có nghề nấy để làm cái vốn lập thân nuôi gia đình. Con
gái nếu có tiền lại hiểu đạo lý, lẽ cố nhiên, tiền sẽ trở thành cái vốn để trợ
đạo. Nếu chẳng hiểu đạo lý, tiền sẽ hại cô đó, hại luôn chàng rể, hại lây cả
đến cháu trai, cháu gái!
* Sự thành bại trong đời một người
đều do tự tài bồi, tập tành dần dần từ lúc nhỏ mà ra. Ngươi đã trở thành thiếu
niên, phải biết tốt xấu, vạn phần chẳng được học theo thói đời, hãy nên học
hiếu, học đễ, học trung hậu, thành thực. Đang lúc tuổi trẻ mạnh mẽ, cường
tráng, hãy nỗ lực học hành. Phàm đọc qua sách nào, phải nghĩ xem những điều nào
sách dạy là trọng yếu đối với con người thì thực hành theo đó; chứ nếu không,
chỉ là cố ngốn sách cho nhiều.
Nếu những điều dạy trong các sách
nói trên chẳng dễ lãnh hội, thì những điều nói trong các sách như Âm Chất Văn,
Cảm Ứng Thiên v.v... đều là nói trực tiếp, dễ lãnh hội; hãy nên thường đọc,
thường nghiền ngẫm, hòng sửa lỗi hướng thiện. Lúc nhàn hạ, rất nên niệm A Di Đà
Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát, để mong tiêu trừ nghiệp chướng, tăng trưởng phước
huệ, đừng nghĩ là khổ sở. Cổ nhân nói: “Thiếu tráng bất nỗ lực, lão nhân đồ thương
bi” (Trẻ mạnh chẳng nỗ lực,
già cả luống sầu thương). Lúc này bỏ phí quang âm, về sau, dù có nỗ lực,
cũng khó thành tựu! Bởi lẽ, tuổi trẻ đã qua, trí nhớ cùn nhụt quá nửa, học cái
gì cũng phải dùng sức nhiều, nhưng hiệu quả lại ít.
Thứ nhất là phải làm người tốt, thấy
người hiền mong được bằng. Thấy kẻ chẳng hiền, trong lòng tự cảnh tỉnh.
Thứ hai là phải biết nhân quả báo
ứng, nhất cử nhất động đừng mặc tình khoái ý, ắt phải nghĩ việc này có lợi ích
đối với ta, đối với người thân, đối với người ngoài hay chăng. Không chỉ làm
việc gì cũng như thế, mà khi khởi tâm động niệm cũng phải thường như thế. Khởi
tâm lành, ắt có công đức; khởi tâm xấu, ắt mắc tội lỗi. Muốn được báo tốt thì
phải giữ tâm tốt. Nói lời lành, làm việc lành, lợi người lẫn vật, chẳng làm hại
mình lẫn người thì mới nên. Nếu chẳng như vậy, làm sao hưởng được báo tốt? Ví
như đem hình xấu đặt trước gương sáng, quyết định chẳng thể hiện bóng đẹp đẽ
được. Ảnh được hiện so với hình xấu, trọn chẳng khác gì.
Nếu ngươi quả thật hiểu sâu xa nghĩa
này, tương lai nhất định trở thành một bậc chánh nhân quân tử, khiến cho hết
thảy mọi người đều tôn trọng, yêu kính. Mong hãy suy nghĩ cẩn thận, nghĩ ngợi
chín chắn thì thật là may mắn lắm!
9.3. Khuyên nên tại gia hoằng
pháp
* Như Lai thuyết pháp hằng thuận
chúng sanh. Gặp cha nói Từ, gặp con nói Hiếu, ngoài tận hết luân thường, trong
tiêu trừ tình lự. Nếu như khôi phục được chân tâm vốn có thì gọi là đệ tử Phật, há có phải vì đầu tóc mà luận! Huống
hồ, quý hương[6]
ở tuốt trong núi sâu, người biết pháp ít ỏi. Kẻ cao minh vì chẳng thông ngôn
ngữ, nên đều chẳng đến đấy. Hãy cậy vào lòng thành ấy, kiệt lực học đạo, tu
hiếu đễ, ngõ hầu cảm hóa xóm giềng. Trai giới thành lập, giết, trộm, dâm liền
tiêu.
Nghiên cứu kinh luận Tịnh Độ ắt hiểu
yếu đạo xuất thế. Thọ trì An Sĩ Toàn Thư, sẽ hiểu khuôn mẫu tốt lành khiến cho
cuộc đời thuần dịu. Dùng pháp môn Tịnh Độ để khuyên dụ cha mẹ, dùng pháp môn
Tịnh Độ dạy con và người thân bè bạn, chính là vì sanh tử đại sự mà đau đáu lo
cho thân sau. Chẳng cần phải chọn riêng một nơi mà gia đình liền thành đạo
tràng, cha mẹ, anh em, vợ con, bằng hữu, thân thích, người quen biết đều thành
pháp quyến. Tự hành, dạy người, miệng khuyên, thân siêng gắng, khiến cho mọi
người cùng quy hướng Tịnh Độ, đều thoát khổ luân, đáng gọi là bậc cao tăng còn
để tóc, là đệ tử Phật tại gia vậy!
* Lệnh thân của hai vị hiện còn sống, hãy nên
dùng những cảm ứng, sự tích của pháp môn Tịnh Độ để thường giảng nói, khiến cho
họ phát tâm hoan hỷ, tin nhận phụng hành. Nếu chẳng coi đấy là hiếu, dù có tận
sức làm hết những điều thế gian coi là hiếu, rốt cuộc có ích lợi gì cho cha mẹ?
Vua Đại Vũ là đại thánh nhân, vẫn chẳng cứu được hồn [cha là] Cổn hóa thành
Hoàng Nai (黄能, chữ Năng (能) đọc thành
Nai, có nghĩa là con ba ba có
ba chân) sống trong Vũ Uyên. Thấy như vậy, há chẳng nên kinh sợ,
tỉnh ngộ, mong dẫn dắt thần thức cha mẹ cao dự hải hội, thân cận Di Đà, hòng
chứng được vô lượng quang thọ vốn có sẵn trong tâm ư?
Cư sĩ Chí Liên dù giỏi khổ hạnh,
nhưng chỉ e với tông chỉ Tịnh Độ vẫn còn có điều chẳng biết, hoặc có tâm cầu
chuyển nữ thân [thành nam thân], hoặc mong sanh vào chốn an vui trong đường
trời người, nên chẳng thể buông xuống triệt để, đến nỗi vô biên lợi ích bị mất
sạch trong những niềm vui thế gian nhỏ nhặt. Cũng nên thường giảng nói, khiến
cho bà ta có chí hướng quyết định. Khuyên một chúng sanh vãng sanh Tịnh Độ
chính là thành tựu một chúng sanh thành Phật. Thành Phật rồi, ắt độ vô lượng
chúng sanh, công ấy bắt đầu từ ta, công đức lợi ích ấy há có thể nghĩ bàn được
chăng? Tự mình đã tu Tịnh Độ, lại còn phải đem pháp môn này bảo khắp với mọi
người như anh em, thê thiếp, con cái, bảo họ: [Các ngươi] lẽ nào chẳng chịu
phát tâm, đành bỏ mất lợi ích lớn lao này ư? Nếu thiên tánh của họ gần với pháp
môn này thì còn gì tốt hơn! Nếu tánh họ hơi xa, giồi mài mãi cũng sẽ nhiễm từ
từ, dù xa cũng thành gần. Đấy đáng gọi là lòng yêu mến sâu
xa, đáng gọi là
lòng Từ rộng lớn. Từ ái mà bỏ
chuyện này thì chỉ đáng gọi là hữu danh vô thật!
* Thái phu nhân niên kỷ đã tám mươi
ba, hãy nên thường khuyến dụ bà ta tín nguyện niệm Phật. Nếu bảo bà suốt ngày
niệm Phật, chỉ e bà làm không nổi. Trước đây đã toan lập cách trợ niệm ngay khi
còn sống, nhưng nghĩ chưa ra. [Đến khi] Trấn Thủ Sứ Vương Duyệt Sơn đưa mẹ lên
thăm núi, [tôi thấy] quyến thuộc của ông ta rất đông, bèn tìm ra một cách trợ
niệm rất tuyệt diệu, đã trình bày sơ lược với ông ta, nay sẽ thưa cùng các hạ.
Nếu các hạ có thể thực hành, ông ta cũng chẳng đến nỗi coi thường bỏ qua, đó cũng
là đạo tự lợi lợi tha vậy.
Trong quyến thuộc của các hạ, các
ông con trai ai nấy đều có chức nghiệp, cố nhiên khó thể luôn luôn làm được,
nhưng các bà con dâu thì vô sự thanh nhàn, những kẻ hầu gái như các bà vú
v.v... ắt chẳng có việc gì quan trọng, ông nên bảo họ căn theo đồng hồ suốt
ngày ở quanh thái phu nhân lớn tiếng niệm Phật chừng nửa giờ. Hết lượt bèn đổi
phiên, cả ngày chẳng dứt tiếng niệm Phật. Thái phu nhân nếu có thể niệm theo
thì càng tốt. Nếu không, chỉ nhiếp tâm lắng nghe suốt ngày, sẽ thường chẳng lìa
Phật. Các người khác cũng chẳng mất sức, bởi lẽ, cả ngày bất quá chỉ phải niệm
một lượt hay hai lượt, nhưng thời gian cách khoảng giữa hai lượt cũng khá dài.
Bọn họ không có chuyện gì quan trọng, bèn nhờ đấy mà dốc tận lòng hiếu, gieo
thiện căn; ngay đến bọn hầu gái cũng nhờ vào nhân này, gieo duyên xuất ly sanh
tử. Từ nay trở đi, lấy cách này làm lệ thường; dù thái phu nhân thọ hơn trăm
tuổi, cũng chẳng được nửa chừng bỏ dở. Pháp này lợi ích chẳng thể nghĩ bàn.
Phàm những ai có tín tâm, muốn thành tựu đạo nghiệp vãng sanh cho cha mẹ, hãy
nên khuyên họ làm theo cách này.
* Mẹ ông tuổi cao nhưng đối với pháp
môn Tịnh Độ chưa thể nghiêm túc tu trì, hãy thường nói với mẹ về nỗi khổ luân
hồi trong sáu đường, sự vui trong thế giới Cực Lạc. Người sanh trong thế gian
siêu thăng cực khó, đọa lạc cực dễ. Nếu chẳng vãng sanh Tây Phương, đừng nói là
nhân đạo chẳng đáng nương cậy, dù sanh lên trời phước thọ thật lâu, một khi
phước lực đã tận, vẫn phải đọa lạc trong nhân gian như cũ, và phải thọ khổ
trong tam đồ ác đạo. Nếu chẳng biết Phật pháp thì đành chẳng biết làm sao, còn
nay đã hiểu đại lược Phật pháp, há đành nhường mối đại lợi ích này cho người
khác, tự mình cam tâm luân hồi trong lục đạo, thoạt ra thoạt vào, vĩnh viễn
không có ngày giải thoát ư? Cứ nói như vậy, may ra mẹ ông sẽ có thể phát khởi
túc thế thiện căn, tin nhận phụng hành. Bồ Tát độ sanh tùy thuận cơ nghi, trước
hết, dùng dục để nhử, sau đấy mới khiến cho nhập Phật trí. Ông cực lực tu hạnh
hiếu đễ, lại đem pháp môn Tịnh Độ khuyên lơn, hướng dẫn quyến thuộc của chính
mình và hết thảy những ai hữu duyên đều cùng làm người trong hội Liên Trì thì
công đức rất lớn.
* Con hiếu thờ cha mẹ thì phải đặt
cái gốc lên trước, đặt cái ngọn ra sau, nuôi thân cha mẹ, hướng dẫn, khơi mở
tinh thần. Nếu chỉ biết báo đền công lao, phụng dưỡng cho cha mẹ an nhàn, lập
thân hành đạo để cha mẹ được vẻ vang, chẳng biết đem đạo thường trụ vô sanh và
pháp niệm Phật vãng sanh để khuyên dụ cha mẹ tu trì, khiến cho cha mẹ lúc sống
niệm Phật hiệu, chết đi sanh về cõi Phật, giã biệt nỗi khổ sanh tử hư huyễn,
hưởng thường trụ chân lạc, phụng sự Di Đà, chen vai cùng hải chúng nghe viên
âm, Tam Hoặc trừ sạch, thấy diệu cảnh, viên minh tứ trí, chẳng lìa An Dưỡng,
vào khắp mười phương thượng cầu hạ hóa, rộng làm Phật sự, triệt chứng Phật tánh
vốn sẵn có trong tâm, làm thuyền Từ độ khắp mọi người trong biển khổ.
Nếu như vậy, đúng là thấy nhỏ quên
lớn, được gần bỏ xa, chính là kiến giải hạn hẹp của kẻ hèn, chẳng phải là tầm
nhìn rộng lớn của bậc thông đạt. Nếu ông có thể làm cho mẹ cũng hiền giống như
mình, cũng như khiến cho quyến thuộc cùng thoát Sa Bà, đồng sanh An Dưỡng, đồng
chứng vô lượng quang thọ, đồng hưởng pháp lạc tịch quang, đồng làm pháp vương
tử của A Di Đà Phật, đồng làm đại đạo sư của trời người, thì mới là trọn hết
tấm lòng hiếu tử, mới xứng với công cha mẹ nuôi dạy. Đấy mới đúng là “con hiếu
phụng dưỡng, dìu dắt cha mẹ” [chân thật], chẳng phải kiểu “hiếu thảo, dìu dắt
cha mẹ” như thế gian đã nói.
* Hành đạo hiếu thì không còn gì lớn
hơn được nữa, hết thảy các điều lành không gì chẳng thâu tóm, nhưng đạo hiếu có
thế gian, xuất thế gian, lớn, nhỏ, bổn, tích sai khác.
Đạo hiếu thế gian là chăm nom, phụng
dưỡng cho cha mẹ được yên ổn, đoán trước ý khiến cho cha mẹ vui vẻ, cho đến lập
thân hành đạo để vang danh cùng hậu thế. Dù lớn nhỏ khác nhau, nhưng đều là
những chuyện thuộc về mặt sắc thân! Dẫu cho đại hiếu ngút trời, rốt cuộc chẳng
có ích lợi gì đối với tâm tánh và sự sanh tử của cha mẹ! Đúng là chỉ uổng công
đuổi theo cái ngọn, chẳng xét đến cái gốc. Huống hồ, sát sanh để dâng lên cha
mẹ, hay để cúng tế, khiến cho cha mẹ càng bị oán thù kết chặt, mãi mãi phải đền
trả chẳng ngơi ư?
Đạo hiếu xuất thế gian, xét về mặt
Tích cũng giống như thế gian, chăm nom, phụng dưỡng... cho đến lập thân vang
danh, nhưng cái gốc là khiến cho cha mẹ huân tu đại pháp của Như Lai. Cha mẹ
còn sống bèn khéo léo khuyên dụ sao cho cha mẹ ăn chay, niệm Phật, cầu sanh Tây
Phương. Ăn chay ắt chẳng tạo sát nghiệp, vừa diệt được túc ương. Niệm Phật sẽ
ngầm thông Phật trí, thầm hợp diệu đạo. Nếu quả thật tin sâu, nguyện thiết, cầu
sanh Tây Phương, ắt đến lúc lâm chung được Phật tiếp dẫn, gởi thân nơi chín
phẩm sen. Từ đấy, siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử, mãi mãi xa lìa các
khổ trong chốn Sa Bà, thường hưởng các sự vui trong chốn Cực Lạc.
Cha mẹ đã khuất, bèn thay cha mẹ dốc
sức tu Tịnh nghiệp, chí thành hồi hướng cho cha mẹ. Nếu tâm thật sự chân thật,
thiết tha, cha mẹ sẽ được lợi ích; nếu chưa vãng sanh, liền được vãng sanh. Nếu
đã vãng sanh, phẩm sen sẽ cao thêm. Đã có thể phát tâm như thế, ắt sẽ tương ứng
với Tứ Hoằng Thệ Nguyện, khế hợp Bồ Đề giác đạo; há có phải chỉ riêng cha mẹ
được lợi ích, mà công đức thiện căn cũng như phẩm vị đài sen của chính mình
cũng sẽ cao siêu thù thắng!
Huống hồ, lại dùng chính thân mình
để thuyết pháp, khiến cho khắp mọi đồng luân (những người có cùng hàng với ta) cùng phát lòng hiếu thuận. Đạo
hiếu ấy mới là thật nghĩa rốt ráo, chẳng giống như thế gian chỉ mong lợi lạc
cho sắc thân và đời này, bỏ qua tâm tánh và đời sau, chẳng buồn bàn tới! Vì thế
biết rằng: Đạo Phật lấy hiếu làm gốc. Do đó, kinh Phạm Võng dạy: “Hiếu thuận
với cha mẹ, sư tăng, Tam Bảo. Hiếu thuận là pháp chí đạo. Hiếu gọi là Giới”.
Lại như trong các giới Giết, Trộm,
Dâm, Dối, kinh đều nói phải sanh tâm từ bi và tâm hiếu thuận. Trong giới “chẳng
thực hành phóng sanh, cứu mạng”, kinh Phạm Võng dạy: “Hết thảy người nam là
cha ta, hết thảy người nữ là mẹ ta, đời đời chẳng lúc nào ta chẳng sanh ra từ
họ. Vì thế, lục đạo chúng sanh đều là cha mẹ ta, giết chúng sanh để ăn thịt
chính là giết cha mẹ mình”. Bởi thế mới nói đạo Hiếu của Phật giáo bao gồm
trọn khắp tứ sanh lục đạo từ vô thỉ trước đến tận vị lai sau, chẳng thể đem
chuyện chỉ biết một đời một thân ra so sánh được! Đã biết như vậy mà chẳng
kiêng giết, phóng sanh, ăn chay niệm Phật, thì làm sao trọn hết được đạo hiếu
chí cực không chi hơn được nữa đây?
* Tự mình đã tu trì Tịnh nghiệp, thì
cũng phải nên dạy hết mọi người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp. Hãy nên dựa theo
phần Phổ Khuyến Môn trong sách Long Thư Tịnh Độ để làm cho ai nấy tùy phần tùy
sức gieo thiện căn chẳng thể nghĩ bàn này. Đã muốn đem pháp này dạy người khác,
hãy nên dạy từ thân đến sơ, nỡ nào để thê thiếp, con cái chẳng được hưởng lợi
ích này ư? Văn Vương nêu gương từ vợ của chính mình, cho đến anh em, khiến cho
gia đình lẫn đất nước đều yên vui. Đạo tự hành, dạy người trong thế gian và
xuất thế gian, không pháp nào chẳng phải là như vậy!
* Tự mình cải ác tu thiện, nhất tâm
niệm Phật; phàm hết thảy người thân đều là kẻ hữu duyên, cũng nên dạy họ pháp
này. Đối với những người phản đối, hãy khởi tâm thương xót, đừng bắt buộc họ
phải làm. Cứ đè đầu bò bắt gặm cỏ thì vạn vạn phần chẳng thể làm được! Nếu bảo:
“Tôi nhất tâm niệm Phật, mọi chuyện chẳng bận tâm đến nữa” thì không chỉ là bị
trở ngại nơi pháp thế gian, mà cũng chẳng phù hợp Phật pháp. Làm đúng với địa
vị thì mới nên. Khuyên người niệm Phật tu hành, dĩ nhiên là công đức bậc nhất,
nhưng dưới đến vợ con, trên là cha mẹ, ông bà, đều phải nên khuyên nhủ. Nếu
chẳng thể khéo léo dùng phương tiện khuyên nhủ gia đình, khiến cho quyến thuộc
của ta cùng được hưởng lợi ích chẳng thể nghĩ bàn, liễu thoát sanh tử ngay
trong đời này thì chính là bỏ gốc theo ngọn, chỉ biết lợi người ngoài mà chẳng
biết làm lợi cho người thân, có nên hay chăng?
* Đối với những người trong nhà, vào
những lúc nhàn hạ vô sự, hãy dùng lời lẽ khúc chiết, uyển chuyển trình bày lý
tột cùng, khiến cho tâm người nghe biết lẽ phải trái, nên, không nên; vô hình trung,
ắt sẽ khiến cho tâm thức người nghe được mài giũa dần dần, nhiễm dần dần mà
chuyển biến. Còn như khi tánh ngu bướng, ngạo nghễ của người ấy trỗi dậy, nếu
thấy có thể đối trị thì hãy dùng những câu danh ngôn hoặc lý lẽ tột cùng để ôn
hòa, bình tĩnh đối trị. Nếu không được thì cứ mặc kệ, đừng động đến kẻ ấy nữa,
đợi khi kẻ ấy hết nóng, lại ôn hòa, bình tĩnh cùng kẻ ấy bàn luận khúc nhôi,
lâu dần, kẻ ấy cũng bị cảm hóa. Trọn chẳng nên dùng đến những phương cách bắt
buộc, mạnh mẽ, dữ dội, bởi kẻ ấy có chỗ dựa dẫm (chỗ dựa dẫm là con cái), cũng như đánh mất phép tắc giáo huấn con
cái.
* Nay là lúc pháp yếu, ma mạnh, muốn
hộ trì Phật pháp thì ở ngoài đời dễ hơn, làm Tăng sẽ khó khăn. Nếu các hạ
nghiêm trì Ngũ Giới, chuyên niệm Di Đà, khắc kỷ, giữ lễ, lời nói tương xứng
hành vi, sau đấy, lại rộng khuyến hóa, chỉ dạy, nhằm lợi khắp quần sanh, đừng
cậy mình làm thầy mà tự cao, chẳng được nhận tiền tài để tự được lợi ích. Ở nhà
thì diễn nói cho cả nhà, đối với đại chúng bèn trình bày rõ rệt khiến cho ai
nấy đều ngưỡng mộ đức mà tin theo lời mình. Đấy gọi là thân đã chánh thì chẳng
ra lệnh mà người khác hành theo, lấy thân làm gương, [người khác sẽ nghe theo,
giống như] hễ gió thổi qua là cỏ phải rạp xuống.
* Tôi hay viết câu liễn như sau:
Xả Tây Phương tiệp kính, cửu giới
chúng sanh thượng hà dĩ viên thành Phật đạo?
Ly Tịnh Độ pháp môn, thập phương chư
Phật bất năng phổ lợi quần manh.
(Bỏ đường tắt Tây Phương, cửu giới
chúng sanh dùng chi viên thành Phật đạo?
Rời pháp môn Tịnh Độ, mười phương
chẳng thể lợi khắp quần manh)
Các hạ hãy khởi phát đại dũng mãnh,
phát đại tinh tấn, gánh vác pháp này. Dùng những ngôn luận hoằng dương Tịnh Độ
xứng với căn cơ của cổ nhân để bảo ban làng xóm, sống trong trần lao chẳng
nhiễm, tu Chân ngay trong cõi Tục, thì mới hợp với ý nghĩa của cái tên Dung
Thoát [đã được cha mẹ] đặt cho vậy!
9.4. Khuyên nên sống trong
cõi trần học đạo
* Niệm Phật dĩ nhiên quý tại chuyên
nhất; nhưng cư sĩ trên có cha mẹ, dưới có vợ con, ngoài lo toan tính, lầm lạc
mong cầu giàu sang, sung sướng, thật chẳng thích hợp [để xuất gia]. Đối với
những việc phải làm thuộc về bổn phận thì hãy nên làm, và cũng phải gắng sức
làm, bất tất phải bỏ sạch hết thảy mới là tu hành. Nếu bỏ sạch hết thảy, nhưng
vẫn nuôi dưỡng cha mẹ, vợ con chẳng thiếu sót thì cũng được. Nếu không, tức là
trái với đạo hiếu, tuy bảo là tu hành, nhưng lại trái nghịch Phật pháp. Chớ nên
không biết điều này!
Lại phải nên dùng những lợi ích của
pháp môn Tịnh Độ để khuyên lơn cha mẹ, khiến cho họ niệm Phật cầu sanh Tây
Phương. Nếu họ tin nhận phụng hành, lúc lâm chung, nhất định được vãng sanh.
Một phen được vãng sanh, bèn siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử, cao dự
hải hội, thân cận Di Đà mãi cho đến khi thành Phật mới thôi. Đạo hiếu thế gian
làm sao sánh bằng được! Nếu lại còn có thể đem điều ấy bảo ban cho khắp các
đồng nhân, biết khiến cho cha mẹ của mọi người cũng đều được vãng sanh thì công
đức giáo hóa quy về mình, khiến cho phẩm vị liên đài của cha mẹ và của chính
mình đều được tăng cao. Kinh Thi chép: “Hiếu tử bất quỹ, vĩnh tứ nhĩ loại”
(con hiếu chẳng thiếu thốn, [trời] luôn
ban thưởng cho các ngươi). Muốn hiếu thảo với cha mẹ, hãy nên suy nghĩ sâu
xa rồi tận lực thực hành.
* Hoàn cảnh của mỗi người vạn phần
chẳng giống nhau. Xét đến hoàn cảnh của ông, thật sự là ở tại gia có lợi ích
lớn hơn, nếu xuất gia chỉ được lợi ích nhỏ nhoi. Ông nhờ tổ nghiệp, tạm sống
được, trên còn có mẹ già để thờ, giữa có anh em để nhờ cậy, trong nhà có vợ
hiền, dưới gối chưa có con cái gì. Bác cả nhà ông hơi tin Phật pháp, chú ba,
chú tư cũng đều chẳng chống đối đạo pháp chi lắm. Ông ở nhà dốc sức tu Tịnh
nghiệp cũng có thể hướng dẫn bà cụ sanh lòng tin niệm Phật, cầu được liễu
thoát, lại cũng có thể giúp anh em ở ngoài lo liệu việc nhà, cũng như xướng
suất vợ con, em dâu v.v... cùng tu Tịnh nghiệp để làm kế sách cùng thoát luân
hồi.
Ngoài ra còn tùy duyên khai thị,
hướng dẫn xóm giềng, thân thích. Vậy thì nhà mình biến thành đạo tràng, mọi
người như thân mẫu, anh, em, vợ, con, cháu, xóm giềng, bè bạn đều trở thành
pháp quyến; tùy sức, tùy phần, thân suất lãnh, miệng khuyên răn, khiến cho cả
miền Vĩnh Gia, những kẻ lạc đường, những người thuộc tà kiến chủng tánh đều
được nạp vào lò luyện pháp môn Tịnh Độ viên đốn chí cực lớn lao, luyện thành
pháp khí, cùng tu Tịnh nghiệp, tương lai cùng ngự Liên Bang, cùng chứng Bồ Đề.
[Lợi ích như thế] há vẫn chẳng bằng việc ông xuất gia làm tăng, bỏ mẹ đi xa,
khiến cho người nhà hờn oán thiếu người nương dựa, mẹ ôm lòng phiền con hay
sao?
Vả nữa, tất cả những kẻ chẳng hiểu
đạo lý đến nơi đến chốn, ắt sẽ trở mặt chê Phật pháp trái nghịch thế đạo, lầm
lạc hủy báng, khiến cho bọn họ tạo khẩu nghiệp phải đọa ác đạo, chưa thấy ích
gì, mà trước hết đã tạo nên sự tổn hại lớn lao hơn! Huống chi mẹ ông đã chẳng
bằng lòng, há chẳng nên tuân theo ý mẹ, vẫn cứ ôm ấp tấm lòng đó ư? Nếu mẹ ông
chẳng chấp thuận cho ông tu hành thì xuất gia còn chấp nhận được, nay mẹ ông
hoan hỷ cho ông tu hành, sao lại muốn bỏ mẹ để tu hành? Trong Phật pháp, lục độ
vạn hạnh, các thứ công nghiệp đều vì lợi ích chúng sanh. Ông không xuất gia, ắt
sẽ có lợi ích rất lớn cho mẹ. Chỉ riêng một lẽ đó, đã rất nên thuận theo lòng
mẹ, cứ ở nhà học đạo khiến mẹ hằng ngày quen thấy, chẳng mong mẹ tin tưởng mà
tự nhiên mẹ tin tưởng, không có công đức nào lớn hơn! Huống hồ, há có phải là
chỉ lợi ích riêng cho một mình mẹ ông thôi đâu!
Hơn nữa, mẹ không bằng lòng cho xuất
gia thì đừng nghĩ tới chuyện ấy nữa. Bởi lẽ, trong giới luật nhà Phật, cha mẹ
chẳng cho phép xuất gia, cứ tự ý mình đi xuất gia, nhà chùa sẽ chẳng cho phép
xuống tóc và thọ giới v.v... Nếu không, cả thầy lẫn trò đều mắc tội!
* Hiện tại mọi ngăn cấm đều rỡ bỏ
cả, người tại gia nghiên cứu, tu tập nhiều như rừng, người đạt được lợi ích
sanh về Tây Phương cũng thường thấy, cần gì phải xuất gia, bỏ cha mẹ? Chuyện ấy
Quang tuyệt đối chẳng tán thành. Căn cứ trên thực tế để nói, trong hiện tại, tu
tại gia tốt hơn. Vì sao vậy? Vì đối với hết thảy đều vô ngại. So với người tại
gia, người xuất gia bị chướng ngại nhiều hơn; bởi thế, nếu không phải là người
phát tâm chân thật, ắt sẽ trở thành phường hạ lưu, vô ích đối với Phật pháp,
nhục lây đến Phật.
* Nếu muốn xuất thế thì chẳng cần gì
phải tách ra ở riêng, chỉ y theo ngôn giáo của Phật, đối trị phiền não tập khí
sao cho hết sạch mới thôi. Tuy thân trong cảnh tục, chẳng ngại gì đoạn Hoặc,
chứng Chân, liễu sanh thoát tử, tiến đến Phật Quả. Như cư sĩ Duy Ma bên Tây
Thiên và các vị Phó Đại Sĩ, Lý Trưởng Giả, Bàng Cư Sĩ v.v... trong cõi này. Nếu
tự lực chẳng đủ, đã có pháp cậy nhờ Phật từ lực vãng sanh Tây Phương để nương
tựa. Há có phải đều phải bỏ tục xuất gia thì mới đúng là đệ tử Phật ư?
* Sống trong cõi trần học đạo, tu
Chân ngay trong cõi tục thì bậc đạt nhân danh sĩ hay kẻ ngu phu, ngu phụ đều có
thể làm được. Gắng sức tu trì, đối với những thứ hệ lụy của đời tại gia hãy
tưởng như bóng gậy, tiếng hét[7]
phải đương đầu, hằng sanh tâm nhàm lìa [Sa Bà], ngõ hầu luôn sanh chí vui thích
[Cực Lạc], lấy bệnh làm thuốc, biến tắc thành thông, trên chẳng khiến cao đường[8]
buồn bã, dưới là vợ con chẳng mất nơi nhờ cậy, lại còn khiến cho hết thảy những
ai thấy biết nhờ đó sẽ tăng trưởng lòng tin trong sạch, còn gì vui hơn!
* Người sống trong thế gian chẳng
thể không làm gì cả, chỉ nên trọn hết bổn phận, quyết chẳng dòm dõi chuyện
ngoài bổn phận. Sĩ, nông, công, thương, ai nấy chăm lo nghề mình để làm cái gốc
hòng nuôi thân, nuôi gia đình, tùy phận, tùy lực, quyết chí cầu sanh Tây
Phương. Nếu có sức thì với việc lành sẽ bỏ ra tiền của, hoặc giúp lời nói để
tán trợ. Nếu không, phát tâm tùy hỷ cũng trở thành công đức, dùng điều ấy để
vun bồi ruộng phước làm trợ hạnh vãng sanh. Như thuận nước căng buồm, lại thêm
chèo lái bèn đến được bến bờ, chẳng sướng lắm ư?
* Nếu là bậc đại thông gia thì Thiền
Tịnh song tu, nhưng phải lấy Tịnh Độ làm chủ. Nếu là người căn cơ trung bình,
cũng chẳng cần phải xem khắp kinh sâu luận rộng, chỉ cốt sao chẳng làm các điều
ác, vâng làm các điều thiện, nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương là được
rồi. Người ấy chẳng buông bỏ gia nghiệp mà vẫn kiêm tu pháp xuất thế. Tuy dường
như là cách tu tầm thường không có gì lạ lùng cả, nhưng lợi ích chẳng thể nghĩ
bàn. Bởi lẽ, ngu phu, ngu phụ cắm cúi niệm Phật là đã ngầm thông Phật trí, thầm
hợp diệu đạo. So ra, lợi ích nhiều hơn hẳn bậc đại thông gia suy lường, phỏng
đoán, cứ suốt ngày vắt óc phân biệt. Bởi thế, ngu phu, ngu phụ niệm Phật dễ
được lợi ích, bậc đại thông gia nếu toàn thân buông xuống hết, sẽ dễ được lợi
ích, chứ nếu cứ suy dò nghĩa lý thì sẽ chẳng được lợi ích; trái lại, còn trở
thành bệnh, chưa đắc bảo là đắc, có kẻ trở thành cuồng dại nữa.
Người hiện thời chớ nên học pháp
tham Thiền, dẫu học, cũng chỉ trở thành văn tự tri kiến[9],
quyết chẳng thể đốn minh tự tâm, tự thấy tự tánh. Vì sao vậy? Một là thiếu
thiện tri thức chỉ dạy và quyết trạch; hai là người học chẳng hiểu căn cội của
Thiền. Mang tiếng tham Thiền, nhưng thật ra là hiểu lầm.
* Đối với việc thọ giới, nếu thiện
nam tử
xuất gia làm
Tăng thì phải vào chùa tập tành
oai nghi mới biết quy củ chốn tùng lâm. Giữ đúng oai nghi của Tăng thì du
phương hành cước[10],
trọn chẳng trở ngại gì. Nếu không, mười phương tùng lâm không thể trụ nơi nào!
Nếu người nữ tại gia, nhà cửa khá
giả, thân có thể tự làm chủ, đến chùa thọ giới cũng chẳng phải là không được.
Còn nếu như gia cảnh cùng quẫn, cần gì phải làm như vậy. Chỉ cần đối trước
Phật, khẩn thiết chí thành sám hối tội nghiệp trong vòng bảy ngày, tự thệ thọ
giới. Đến ngày thứ bảy, đối trước Phật xướng rằng: “Đệ tử con tên là... thề thọ năm giới, làm mãn phần ưu-bà-di (Ưu-bà-di
Hán dịch là Cận Sự Nữ, hàm nghĩa đã thọ năm giới, kham phụng sự Phật. Mãn Phần
nghĩa là thọ trì trọn vẹn năm giới). Đến
hết đời chẳng sát sanh, đến hết đời chẳng trộm cắp, đến hết đời chẳng dâm dục
(nếu là gái có chồng thì nói “chẳng tà dâm”), đến hết đời chẳng nói dối, đến hết đời chẳng uống rượu”. Nói như
vậy ba lần, liền đắc giới. Nếu chí tâm thọ trì thì công đức trọn chẳng hơn kém,
đừng bảo tự thệ thọ trì là chẳng đúng pháp. Đấy là thánh huấn của đức Như Lai
đã dạy trong kinh Phạm Võng.
* Tam Quy, Ngũ Giới là cửa ngõ ban
đầu để vào Phật pháp; tu các pháp môn khác đều nương theo đây để vào, huống hồ
là pháp môn Tịnh Độ liễu sanh thoát tử đơn giản, dễ dàng nhất, chí viên, chí
đốn chẳng thể nghĩ bàn ư? Chẳng phản tỉnh tam nghiệp, chẳng trì ngũ giới, sẽ
chẳng có phần lại được làm thân người, huống chi là muốn được liên hoa hóa
sanh, thân trọn đủ quang minh tướng hảo ư?
* Vì hàng tại gia
đệ tử, lược giảng ý nghĩa của Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện
Thương thay! Từ vô thỉ đến nay,
chúng sanh luân hồi sáu nẻo, không được cứu, không chỗ về nương, không nơi gởi
gắm, như con côi mất cha, dường như kẻ cùng quẫn nhà tan cửa nát, toàn là do
phiền não ác nghiệp cảm thành quả khổ sanh tử ấy, mù lòa chẳng có mặt trời trí
huệ, chẳng thể tự thoát khỏi. Đại Giác Thế Tôn thương xót, thị hiện sanh trong
thế gian, vì chúng sanh thuyết pháp, dạy họ thọ Tam Quy để làm cái gốc bỏ tà về
chánh, dạy họ trì Ngũ Giới hòng làm cái gốc đoạn ác tu thiện, dạy họ hành Thập
Thiện để làm gốc rễ thanh tịnh ba nghiệp thân, khẩu, ý.
Từ đấy, chẳng làm các điều ác, vâng
làm các điều thiện. Tam nghiệp đã được tịnh thì mới hòng tuân tu đạo phẩm, ngõ
hầu trái giác, hợp trần, chuyển phàm thành thánh, đoạn gốc tham, sân, si, thành
đại đạo Bồ Đề Giới, Định, Huệ. Bởi thế, đức Phật giảng Tứ Đế, Thập Nhị Nhân
Duyên, Lục Độ, ba mươi bảy phẩm trợ đạo v.v... vô lượng pháp môn. Lại muốn cho
chúng sanh mau thoát sanh tử, chóng thành Phật đạo, đức Phật bèn dạy pháp môn
Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, khiến họ chẳng tốn nhiều sức, mà hoàn tất ngay
trong đời này. Ôi! Ân đức của Thế Tôn có thể nói là tột bậc, dẫu cha mẹ hay
trời đất cũng chẳng thể sánh ví được.
Bất Huệ (Tổ Ấn Quang tự xưng) thọ ân thật sâu, nhưng không cách nào báo
được ân sâu. Nay các vị lầm nghe lời người khác, chẳng ngại xa xôi ngàn dặm đến
đây, toan bái tôi làm thầy, nhưng tôi tự xét mình vô đức, ba bốn lượt khước từ,
quý vị vẫn chẳng chịu nghe. Nay bất đắc dĩ, đem ý xuất thế thuyết pháp độ sanh
của đức Như Lai bàn đại khái cùng quý vị, cũng như giải thích sơ lược về ý
nghĩa của Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện và pháp môn Tịnh Độ, ngõ hầu quý vị có
cái để noi theo, có cái để tuân thủ; còn như từ Tứ Đế cho đến Ba Mươi Bảy Phẩm
Trợ Đạo v.v... chẳng phải là những điều quý vị có thể thấu hiểu, nên tôi lược
đi không nhắc đến. Nếu quý vị y giáo phụng hành, chính là thờ Phật làm thầy, sá
gì Bất Huệ! Nếu chẳng y giáo phụng hành, tức là đã phụ ân Bất Huệ, huống hồ
Phật ân!
Tam Quy
là:
- Một là
quy y Phật.
- Hai là
quy y Pháp.
- Ba là
quy y Tăng.
Quy là
quay về, Y là nương tựa. Như người rớt xuống biển, chợt có thuyền đi đến, liền
hướng về đó. Đấy là ý nghĩa “quay về”; ngồi yên ổn trên thuyền là ý nghĩa
“nương tựa”. Sanh tử là biển, Tam Bảo là thuyền; chúng sanh quy y liền lên bờ
kia.
Đã quy y
Phật, bèn thờ Phật làm thầy. Từ nay trở đi cho đến khi mạng chung, chẳng được
quy y thiên ma, ngoại đạo, tà quỷ, tà thần. Đã quy Pháp, bèn thờ Pháp làm thầy,
từ nay trở đi cho đến khi mạng chung, chẳng được quy y kinh sách ngoại đạo. Đã
quy y Tăng, bèn thờ Tăng làm thầy, từ nay trở đi cho đến khi mạng chung, chẳng
được quy y đồ chúng ngoại đạo.
Ngũ
Giới:
- Một là
chẳng sát sanh.
- Hai là
chẳng trộm cắp.
- Ba là
chẳng tà dâm.
- Bốn là
chẳng nói dối.
- Năm là
chẳng uống rượu.
1) Chẳng sát sanh:
Loài vật
cũng giống như ta, ham sống sợ chết. Ta đã ưa sống, há vật lại muốn chết? Do đó
hãy nghĩ: Có nên giết hại loài vật hay chăng? Hết thảy chúng sanh luân hồi sáu
nẻo, tùy theo nghiệp thiện, ác, mà thăng, giáng, siêu, trầm, ta cùng bọn chúng
trong nhiều kiếp lần lượt làm cha mẹ nhau, lần lượt làm con cái nhau, phải nghĩ
cách cứu vớt, nỡ nào giết hại? Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, trong đời
tương lai sẽ đều thành Phật. Nếu ta đọa lạc, còn mong được họ cứu vớt.
Hơn nữa,
ta đã tạo sát nghiệp, ắt phải đọa trong ác đạo đền bồi nợ cũ, xoay vần giết hại
lẫn nhau chẳng khi nào xong. Suy nghĩ như thế, há còn dám giết? Nhưng nguyên
nhân sát sanh bắt nguồn từ ăn thịt. Nếu biết những nhân duyên như vừa nói trên
đây, sẽ tự chẳng dám ăn thịt nữa. Kẻ ngu lại cho thịt là ngon, chẳng biết thịt
vốn do tinh huyết tạo thành; trong chứa phân tiểu, ngoài xen tạp bẩn thỉu, tanh
tưởi, hôi thối, ngon lành ở chỗ nào? Thường quán bất tịnh, ắt ăn vào sẽ ói ra.
Lại nữa,
sanh vật là người, cầm thú, giòi, bọ, cá, tép, muỗi, mòng, rận, rệp, tất cả
những loài có sanh mạng; đừng bảo con vật lớn chẳng được giết, con vật nhỏ thì
giết được! Trong kinh Phật có rộng nói công đức kiêng giết, phóng sanh. Tục
nhân chẳng thể đọc đến thì hãy xem sách Vạn Thiện Tiên Tư của An Sĩ tiên sinh,
ắt sẽ biết đại khái!
2) Chẳng trộm cắp:
Chẳng
trộm cắp là hễ có được thứ gì, bèn xét xem có hợp đạo nghĩa hay không, hễ
[người khác] không cho bèn chẳng lấy. Người biết liêm sỉ chẳng phạm lỗi này,
nhưng nếu luận tỉ mỉ thì chẳng phải là bậc đại thánh đại hiền, sẽ rất khó chẳng
phạm. Vì sao? Lấy công giúp tư, tổn người lợi mình, cậy thế đoạt của, dùng mưu
kế đoạt vật, ghen ghét vì người khác phú quý, mong họ bần tiện; làm lành nhằm
mục đích cầu danh, đối với các việc lành tâm chẳng nghiêm túc, chẳng hạn như
lập trường miễn phí, bèn chẳng chọn thầy nghiêm, khiến cho con em người khác bị
lỡ làng; thí thuốc chữa bệnh mà chẳng phân biệt thật giả khiến người dùng bị
nguy hiểm tánh mạng; thấy người bị tai nạn cấp bách, vẫn xem thường chẳng cứu,
lề mề, hờ hững đến nỗi lỡ việc; hoặc làm tắc trách cho xong việc, mặc kệ tiền
tài người khác bị lãng phí, trong lòng không coi đó là chuyện khẩn yếu. Những
điều như thế đều gọi là trộm cắp. Vì các vị đều sống trong các thiện đường[11], nên tôi chỉ chọn ra những điều tệ hại nhất để nói đại
lược mà thôi!
3) Chẳng
tà dâm:
Tục nhân
nam nữ lập gia đình, sanh con đẻ cái, trên là liên quan đến phong hóa, dưới là
liên quan đến việc cúng giỗ. Dù vợ chồng ăn nằm với nhau chẳng bị cấm đoán, nhưng
phải kính trọng nhau như khách, cốt để [có con cháu] giỗ quải tổ tiên, chớ nên
coi đó là chuyện khoái lạc, ham dục đến nỗi mất mạng. Dù là vợ mình, tham vui
quá cũng là phạm tội, nhưng tội ấy còn nhỏ nhặt. Nếu chẳng phải là vợ mình mà
cứ ăn nằm bừa bãi thì gọi là “tà dâm”, tội ấy cực nặng!
Hành tà
dâm tức là đem thân người làm chuyện súc sanh, khi báo hết, mạng tận, trước là
đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, sau là đọa trong đường súc sanh ngàn vạn ức kiếp
chẳng thể thoát khỏi. Hết thảy chúng sanh từ dâm dục sanh, nên giới này khó
giữ, dễ phạm. Dẫu là bậc hiền đạt, cũng có lúc còn vi phạm, huống chi kẻ ngu?
Nếu lập chí tu trì, trước hết phải biết rõ lợi, hại (lợi là chẳng phạm giới này sẽ được lợi lạc gì; hại là những họa hại do
phạm giới này), cũng như phương pháp đối trị, ắt sẽ như thấy rắn độc, như
gặp oán tặc, kinh sợ, hoảng hốt, dục tâm sẽ tự dứt. Cách đối trị được chép rộng
rãi trong kinh Phật. Tục nhân không có duyên xem đến, hãy đọc sách Dục Hải Hồi
Cuồng của An Sĩ tiên sinh thì sẽ biết đại khái.
4) Chẳng vọng ngữ:
Lời nói
đáng tin, chẳng thốt lời hư dối. Nếu thấy nói chẳng thấy, chẳng thấy nói thấy,
lấy hư làm thật, biến có thành không, phàm điều gì tâm chẳng xứng với miệng,
toan khinh dối người khác, đều là vọng ngữ cả. Lại nếu như chưa đoạn Hoặc, bảo
là đã đoạn Hoặc, chưa đắc đạo, bảo là đắc đạo, thì gọi là đại vọng ngữ. Tội ấy
rất nặng, sau khi mạng chung, nhất định đọa thẳng vào A Tỳ địa ngục, vĩnh viễn
không có lúc thoát ra. Nay người tu hành chẳng biết giáo lý Phật pháp, phần
đông là như thế, nên phải đau đáu răn đe. Điều này thật thiết yếu.
Bốn điều
trên đây bất luận xuất gia hay tại gia, thọ giới hay không thọ giới, hễ phạm
liền vướng tội lỗi, bởi thể tánh của chúng là ác. Nhưng người chưa thọ giới thì
mắc tội một tầng; người đã thọ giới mắc tội gấp đôi, bởi ngoài chuyện làm ác
ra, còn thêm cái tội phạm giới. Nếu giữ được chẳng phạm thì công đức vô biên;
hãy nên gắng sức!
5) Chẳng uống rượu:
Rượu làm
cho tâm con người mê loạn, hư hoại hạt giống trí huệ. Uống vào sẽ bị điên đảo,
hôn mê, điên cuồng, làm chuyện càn quấy, nên Phật chế định người tu hành trọn
chẳng được uống rượu. Lại như hành, hẹ, kiệu, tỏi, nén, năm thứ thực vật nồng
gắt (Ngũ Huân ở Tây Vực có đủ năm thứ, ở
đây chỉ có bốn thứ), mùi vị hôi hám, bản chất chẳng thanh khiết, ăn chín
sanh dâm, ăn sống tăng lòng nóng giận, người tu hành đều chẳng được ăn. Đối với
giới này, người chưa thọ giới ăn uống chúng chẳng bị tội gì; người thọ giới mà
dùng hay ăn chúng, liền phạm một tầng giới của Phật. Phật đã cấm chế, các vị
vẫn phạm, nên mắc tội vậy.
Thập Thiện
là:
- Một là
chẳng sát sanh,
- Hai là
chẳng trộm cắp.
- Ba là
chẳng tà dâm.
- Bốn là
chẳng nói dối.
- Năm là
chẳng nói thêu dệt.
- Sáu là
chẳng nói đôi chiều.
- Bảy là
chẳng ác khẩu.
- Tám là
chẳng tham.
- Chín
là chẳng sân.
- Mười
là chẳng si.
Ba điều
đầu gọi là Thân Nghiệp, bốn điều giữa là Khẩu Nghiệp, ba điều cuối là Ý Nghiệp.
Nghiệp nghĩa là “sự”. Nếu trì chẳng phạm thì gọi là Thập Thiện, nếu phạm chẳng
trì thì gọi là Thập Ác. Thập Ác chia làm thượng, trung, hạ, cảm ba đường ác địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Thập Thiện chia thành thượng, trung, hạ cảm ba thiện
đạo trời, người, A-tu-la. Nhân lành cảm quả lành, nhân ác cảm quả ác, quyết
định chẳng nghi, chẳng sai mảy may. Trong phần nói về Ngũ Giới đã giảng về
giết, trộm, dâm, dối rồi.
Ỷ ngữ (nói thêu dệt) là những lời lẽ phù
phiếm, vô ích, chải chuốt, bóng bảy, bàn nói chuyện dâm dục khiến cho người
khác nghĩ bậy.
Lưỡng
thiệt (nói đôi chiều) là đến chỗ
người này nói chuyện người kia, đến chỗ người kia nói chuyện người này, đâm
thọc thị phi, đòn xóc hai đầu v.v...
Ác khẩu
là ngôn ngữ thô ác như dao, như kiếm, vạch trần lỗi kín của người ta chẳng
kiêng dè. Nếu lại còn khiến cho cha mẹ người ta bị xấu lây, thì gọi là “đại ác
khẩu”, tương lai mắc phải quả báo súc sanh. Đã thọ giới nhà Phật, chớ nên phạm
giới này.
Tham keo
là đối với tiền tài của chính mình, chẳng chịu thí cho người khác thì gọi là
“keo”, chỉ mong vơ vét của cải người khác về mình thì gọi là “tham”.
Sân khuể
là giận dữ, thấy người ta được gì bèn sầu lo, phẫn nộ, thấy người ta bị mất gì bèn
mừng rỡ, sung sướng, lại còn cậy thế, cậy oai, khinh người rẻ vật.
Tà kiến
là chẳng tin làm lành được phước, làm ác mắc tội, nói là không có nhân quả,
chẳng có đời sau, khinh chê thánh ngôn, hủy báng kinh giáo của Phật...
Mười
điều thiện này bao hàm hết thảy. Nếu có thể tuân hành, thì không điều ác nào
chẳng đoạn, không điều thiện nào chẳng tu. Chỉ sợ quý vị chẳng thể lãnh hội,
nên tôi nay chỉ nêu đại lược một hai việc: Hiếu thuận cha mẹ, chẳng trái, chẳng
nghịch, khúc nhôi uyển chuyển khuyên cha mẹ nhập đạo, dứt mặn, ăn chay, trì
giới niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử. Nếu cha mẹ tin theo
thì chẳng còn gì tốt hơn. Nếu cha mẹ quyết chẳng nghe theo, cũng đừng cưỡng ép,
vì mất đạo hiếu. Chỉ nên đối trước Phật, sám hối tội lỗi thay cho cha mẹ thì
mới nên.
Đối với
anh em liền tận lực nhường nhịn, đối với vợ chồng bèn hết sức kính trọng, đối
với con cái bèn tận lực giáo huấn, khiến cho chúng trở thành người tốt, người
hiền, chớ để chúng mặc tình quen thói kiêu căng, đến nỗi trở thành hạng người
chẳng ra gì. Đối với xóm giềng, làng nước, phải hòa thuận, nhường nhịn, giảng
cho họ nghe nhân quả thiện ác, khiến họ sửa lỗi hướng thiện. Đối với bằng hữu
bèn tận lực giữ chữ tín. Đối với tôi tớ phải từ ái. Đối với việc công, bèn tận
tâm kiệt lực như khi làm chuyện tư.
Hễ gặp
người quen biết, họ hàng, gặp cha nói Từ, gặp con nói Hiếu. Còn như kinh doanh,
cố nhiên vốn là để kiếm lời, nhưng chẳng được bán hàng giả, lừa dối người khác.
Nếu như đem phong tục này giáo hóa cho cả một ấp, một làng, sẽ khiến cho họa
loạn chưa nẩy mầm đã tiêu mất, các hình phạt trở thành vô dụng; có thể nói là
“ra ngoài tận trung, trong nhà tận chánh” vậy!
[1]
Danh giáo: Tên gọi khác của lễ giáo theo quan điểm văn hóa truyền thống của
Trung Hoa. Do lễ giáo Trung Hoa coi trọng danh phận, nên còn gọi là Danh giáo.
[2]
Ô Khoa (烏窠),
nghĩa đen là cái ổ quạ. Do đó, đôi khi có sách còn chép là Ô Sào (烏巢), có lẽ
do đồng nghĩa và tự dạng khá giống nhau.
[3]
“Học phú ngũ xa” là một thành ngữ
xuất phát từ sách Mạnh Tử: “Huệ Thị đa
phương, kỳ thư ngũ xa, kỳ đạo suyễn bác, kỳ ngôn dã bất trúng” (Huệ Thi
thông hiểu nhiều điều, sách chứa đầy cả năm xe, nhưng các đạo lý do ông ta nói
ra sai lầm, tạp loạn, ngôn từ cũng chẳng thích đáng). Cổ nhân dùng từ ngữ “học phú ngũ xa” để chỉ người học rộng,
thông hiểu mọi sách vở.
[4]
Ba bà Thái (Châu triều tam thái) là
Thái Khương (vợ của Châu Thái Vương, bà
nội của Châu Văn Vương), Thái Nhậm (vợ
của Châu Vương Quý, tức là mẹ của Châu Văn Vương) và Thái Tự (vợ của Châu Văn Vương, mẹ của Cơ Phát, tức
là mẹ của Châu Vũ Vương và Cơ Đán, tức Châu Công).
[5]
Tư Tề là một bài thơ trong kinh Thi, thuộc phần Đại Nhã: “Tư tề Thái Nhậm, Văn Vương chi mẫu, tư mỵ Châu Khương, kinh thất chi
phụ, Thái Tự tự huy âm, tắc bách tư nam. Huệ vu tông công, thần võng thời oán,
thần võng thời đỗng, hình ư quả thê, chí ư huynh đệ, dĩ ngự ư gia bang, ung ung
tại cung, túc túc tại miếu, bất hiển diệc lâm, vô tạ diệc bảo” (bà Thái
Nhậm dung mạo đoan trang, là mẹ vua Văn Vương. Bà Thái Khương hiền thục, xinh
đẹp, là bậc chủ phụ trong cung vua. Bà Thái Tự tiếp nối danh tiếng tốt đẹp,
đông con, lắm cháu. Văn Vương kính thuận tổ tông, thần tiên lẫn tổ tông chẳng
oán hờn, chẳng đau lòng. Vua nêu gương mẫu tốt đẹp cho vợ, gương tốt đẹp ấy lan
đến anh em, khiến cho gia đình lẫn đất nước đều yên vui. Trong gia đình thì
thật sự hòa mục, tại tông miếu thật sự cung kính. Nơi tối tăm cũng có thần minh
soi tỏ, luôn tu thân chẳng mệt mỏi).
[6]
Quý hương: Tiếng gọi tỏ vẻ tôn trọng làng của người khác.
[7]
Tông Lâm Tế dùng gậy (bổng) và tiếng
hét (hát) để khai ngộ thiền cơ, nên
chữ “đương đầu bổng hát” thường dùng
để chỉ những điều sách tấn, cảnh tỉnh.
[8]
Cao đường: Danh xưng dùng để tỏ vẻ tôn kính mẹ người khác.
[9]
Văn tự tri kiến: Sự thấy hiểu dựa theo phân biệt, nhận định ý nghĩa của kinh
văn bằng suy lường, chứ không phải là lãnh hội, trực nhập huyền nghĩa, yếu chỉ.
[10] Tăng
sĩ đi tham học các nơi gọi là du phương hành cước.
[11] Thiện
đường: Các hội quán từ thiện. Về sau, danh xưng này cũng chỉ chung các nhóm,
các hội lập đền thờ, thờ Phật, thần, tiên, thánh chung một chỗ, pha trộn lung
tung Phật giáo và Đạo giáo, cũng như các tín ngưỡng dân gian. Họ thường cầu cơ,
khuyến thiện, phát thuốc, làm các việc từ thiện, in kinh sách (phần nhiều là các kinh văn từ các buổi cầu
cơ, lên đồng) v.v…
Nhận xét
Đăng nhận xét