Chương 6: Năm Khoa Mục (tt)_Ba Môn Học
NHẬN THỨC PHẬT GIÁO
Nguyên Tác: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Nguyên Tác: Lão Pháp Sư Tịnh Không
III. Ba môn học (Tam vô lậu học)
Từ
trước, chúng ta đã rõ Phật pháp từ bản chất là giáo dục chứ không phải là tôn
giáo. Khóa trình rất nhiều, nội dung cơ hồ như chẳng điều gì là không bao quát,
từ nhân sinh cho đến vũ trụ. Sách ghi lại nội dung khóa trình nầy được gọi là
kinh. Tuy nhiên, không phải toàn bộ kinh điển từ Ấn Độ đều được đưa sang Trung
Hoa. Vì những khó khăn trở ngại do đường sá từ Trung Hoa sang Ấn Độ thời xưa
nên chư tăng người Trung Hoa sau khi sang Ấn Độ trở về và chư tăng Ấn Độ sang
Trung Hoa đều mang rất ít kinh sách. Họ chỉ chọn những tác phẩm quan trọng nhất
và để lại những cuốn khác. Thế nên tất cả kinh sách được giới thiệu ở Trung Hoa
đều được xem là cốt tủy của đạo Phật.
Tuy
nhiên, sau khi kinh điển được đưa vào Trung Hoa, không phải tất cả mọi bộ kinh
đều được phiên dịch, chỉ những bộ kinh quan trọng và cốt yếu nhất mới được chọn
dịch vì công trình phiên dịch rất khó khăn. Chương trình phiên dịch phải được bảo
trợ bởi triều đình. Các dịch giả gồm cả chư tăng và cư sĩ khắp Trung Hoa cũng
như người nước ngoài đều được mời tham gia công trình dịch thuật đồ sộ nầy.
Theo lịch sử ghi lại, đạo tràng phiên dịch của ngài Cưu-ma-la-thập có trên 400
người, đạo tràng của ngài Huyền Trang có trên 600 người.
Tên của
dịch giả mà ngày nay thấy ghi ở đầu bộ kinh chính là vị chủ trì đạo tràng dịch
kinh, đại biểu cho toàn thể những người tham gia trong đạo tràng phiên dịch ấy.
Kinh điển tiếng Hán mà ta thấy ngày nay tương đối hoàn chỉnh. Tuy nhiên, bản tiếng
Sanskrit thất lạc rất nhiều, nay còn lại rất ít. Sau tạng kinh tiếng Hán, tạng
kinh đồ sộ thứ nhì là tiếng Tây Tạng. Một phần tạng kinh nầy được dịch trực tiếp
từ tiếng Sanskrit, một phần chuyển ngữ từ bản tiếng Hán.
Công
chúa Văn Thành đời Đường đã mang kinh Phật sang Tây Tạng sau khi kết hôn cùng
vua Tây Tạng. Đây là lý do Phật giáo được truyền sang Tây Tạng chậm hơn Trung
Hoa 600 năm. Khi quốc vương Tây Tạng có niềm tin Phật pháp, liền có một tông
phái Phật giáo mới từ Ấn Độ tìm cách truyền bá vào Tây Tạng.
Phần
quan trọng của giáo lý Phật pháp là Ba môn học (Tam vô lậu học) gồm giới, định,
huệ. Nếu thành tựu được ba môn học nầy thì chúng ta có thể thoát khỏi nỗi khổ ở
thế gian. Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni đã nói rõ các thời kỳ Phật pháp tồn tại ở thế
gian: thời kỳ chánh pháp tồn tại 500 năm, thời kỳ tượng pháp tồn tại 1000 năm,
thời kỳ mạt pháp là giai đoạn hiện thời sẽ tồn tại 1000 năm.
Điều
gì là nỗi thống khổ của chúng sinh trong thời nay? Trước hết là tạo 10 nghiệp
ác. Đức Phật dùng môn học vô lậu đầu tiên là ‘giới’ để chuyển hóa. Nỗi khổ thứ
hai là tâm ý tán loạn, Đức Phật dùng môn học vô lậu thứ hai là ‘định ’ để đối
trị. Nỗi khổ thứ ba là si mê, Đức Phật dùng môn học vô lậu thứ ba là ‘huệ’ để đối
trị.
Tạo
các ác nghiệp, tâm ý tán loạn, và si mê là ba căn bệnh lớn của chúng sinh thời
nay. Đức Phật thuyết pháp là do chúng sinh bị bịnh thống khổ nên mới chỉ bày
cho cách thoát khổ, như cách là dùng thuốc cứu người. Còn nếu chúng sinh không
bệnh khổ thì Đức Phật không cần phải giảng nói. Như trong Kinh Kim Cương có nói: ‘Pháp còn phải xả, huống gì không
phải pháp’.[1] Khi
chúng sinh không còn bệnh khổ, thì giáo lý không cần thiết cho họ nữa. Cũng như
người khỏe mạnh, nếu ngày nào cũng uống thuốc thì rốt cuộc sẽ thành người bệnh.
Giới
để chữa trị cho thân, định chữa trị cho tâm và huệ để điều phục tập khí si mê.
Kinh Phật phân ra ba tạng. Tạng kinh để phát triển định học, Tạng luật phát triển
giới học, Tạng luận phát triển huệ học. Về sau, vào khoảng giữa thời vua Càn
Long nhà Thanh, người Trung Hoa gom toàn bộ thư tịch của mình vào Tam tạng kinh
điển rồi gọi là Tứ khố,[2] gồm kinh, sử, tử, tập.
Tam tạng
kinh điển còn phân thành kinh Đại thừa, kinh điển Tiểu thừa. Kinh điển Tiểu thừa
gồm có Thanh văn tạng, Bích chi tạng. Kinh điển Đại thừa có Bồ-tát tạng. Nói
tóm lại, giới để chữa trị cho thân, định chữa trị cho tâm và huệ điều phục tập
khí si mê. Do vậy, người tu học Phật pháp mỗi khi khởi tâm động niệm, lời nói,
hành vi mỗi mỗi đều xuất phát từ trí huệ.
Nhận xét
Đăng nhận xét