Chương 7: Tiến Trình Đúng Đắn Tu Học Phật Pháp
NHẬN THỨC PHẬT GIÁO
Nguyên Tác: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Nguyên Tác: Lão Pháp Sư Tịnh Không
I. Tín, giải, hành, chứng
Chúng
ta đã hiểu được nền tảng để y cứ trong khi tu học Phật pháp và cương lĩnh thiết
yếu cho việc hành trì. Tiếp theo sẽ đề cập đến phương pháp hay nhất trong tiến
trình tu học. Chữ thiện xảo là chỉ cho phương pháp tối ưu, nếu chúng ta
không biết rõ điều nầy, thì người chân chính học Phật khó đạt được lợi ích lớn
lao. Đại sư Thanh Lương khi giảng Kinh
Hoa Nghiêm, nói rằng sự tu học Phật pháp có thể phân thành bốn giai đoạn,
đó là: tín, giải, hành, chứng.
Thứ
nhất là tin. Khi chúng ta đã tin có nghĩa là mọi nhân duyên đã chín muồi. Nên
nói: ‘Phật không độ được chúng sinh chưa đủ duyên’.
Duyên
là gì? Là niềm tin. Ngay cả Đức Phật cũng không độ được người chưa thành thục
niềm tin. Tuy nhiên, khi duyên đã chín muồi, thì phát sinh niềm tin, như vậy thì
Đức Phật mới độ được họ. Các tôn giáo khác không giống với Phật giáo ở điểm khi
họ có niềm tin là được cứu rỗi; trong khi đó niềm tin trong Phật giáo có nghĩa
là tin vào sự lợi ích của đạo Phật và chọn một phương pháp để tu học.
Một
khi đã có niềm tin, thì sau đó chúng ta phải thông hiểu (giải). Có nghĩa là
thông hiểu về chân tướng của nhân sinh và vũ trụ. Chỉ sau khi nhận thức thông
suốt về vấn đề nầy rồi ta mới bắt đầu tu tập có hiệu quả. Do vậy, thực hành tu
đạo phải dựa trên nền tảng nhận thức thông đạt. Nếu không hiểu rõ nguyên tắc và
phương pháp, làm sao ta thực hành được? Tu hành đúng đắn là dựa trên nền tảng của
nguyên tắc và phương pháp chân chính. Mục tiêu tối hậu của tu tập là chân thực
giác ngộ, là chân chính thọ dụng. Chứng là gì? Đó là ứng dụng những gì mình đã
tin, đã hiểu, đã tu tập vào trong đời sống hằng ngày. Chẳng hạn, những gì chúng
ta nghe giảng trong Kinh Vô lượng
thọ chính là điều mà chúng ta
chiêm nghiệm và hành trì. Những gì chúng ta chiêm nghiệm và hành trì hằng ngày
chính là Kinh Vô lượng thọ.
Kinh và hành trì hòa nhập thành một. Đó được gọi là chứng, là chân như. Đây là
điều làm cho Phật pháp trở nên quý giá nhất.
Như vậy
chúng ta phải biết tiến trình trong tu tập Phật pháp. Đó là tín, giải, hành, chứng. Khi nói về
niềm tin, trước hết chúng ta phải biết tin vào chính mình. Đây là điểm làm cho
Phật giáo không phải tôn giáo. Trong tôn giáo, điều quan trọng nhất là tin vào
Thượng đế. Trong Phật pháp, tiêu chuẩn quan trọng nhất là tin vào chính mình,
không phải là tin vào những gì bên ngoài mình. Chúng ta phải tin rằng mình có
Phật tánh. Tin rằng mình vốn đã là Phật. Tin rằng thể tánh mình đồng như chư Phật.
Tin rằng tâm tánh của mình đã bị ô nhiễm và khi đã chuyển hóa thành thanh tịnh
rồi thì chân tánh sẽ được khôi phục.
Tuy
nhiên, nếu chúng ta luôn luôn nghĩ rằng mình bị nghiệp chướng nặng nề, sợ rằng
điều ấy sẽ làm cho mình tu tập khó thành tựu, thì chắc chắn chúng ta sẽ khó
thành công. Sao vậy? Nếu chúng ta không tin rằng mình sẽ thành tựu, thì ngay cả
chư Phật và Bồ-tát cũng không giúp được chúng ta. Chư Phật và Bồ-tát chỉ có thể
giúp được những ai có ý thức tự cứu mình. Do vậy, điểm chính yếu là chúng ta phải
tự tin nơi chính mình.
Lại nữa,
chúng ta phải tin vào Phật pháp. Chúng ta đã nghe giảng rất nhiều nguyên tắc và
phương pháp tu hành. Chắc chắn sẽ thành công nếu chúng ta áp dụng đúng vào tu
hành. Sau tự tin vào chính mình là niềm tin vào Phật pháp. Đại sư Ngẫu Ích giảng
rộng là tin vào lý và sự. Sự do
đâu mà có? Do lý mà có, là chân tâm thanh tịnh, là chân như
bổn tánh. Tất cả các hiện tượng trong vũ trụ nầy đều sinh khởi từ chân tâm. Nó
được liên hệ nhau bởi vòng nhân quả tuần hoàn vô tận. Nhân làm nên quả và rồi
chính quả ấy lại trở thành nhân để sinh ra quả tiếp theo. Tiến trình nầy chu
chuyển không ngừng. Phát triển niềm tin và hiểu biết về thực tại sẽ giúp cho sự
tự tin của mình kiên định và sẽ giúp cho chúng ta thông đạt mọi điều trong pháp
giới. Chỉ có cách nầy chúng ta mới thoát khỏi mê lầm chướng ngại trong bước đường
tu tập và đạt được niềm vui và tiến bộ không ngừng.
Trong
tiến trình tu học Phật pháp, điều quan trọng nhất là cần phải thân cận một vị
minh sư, phải nhất nhất tuân thủ lời dạy và phương pháp hành trì do thầy đưa
ra. Đây là con đường đúng đắn nhất để tu học Phật pháp từ xưa đến nay. Ban đầu
cần phải học giới, tức là các oai nghi tế hạnh, quy cũ do thầy chế định trong
năm năm, chứ chưa phải là Luật tạng trong Tam tạng kinh điển. Như vậy thì thầy
mới biết được tường tận đệ tử mình sẽ thành tựu hoặc thất bại chỗ nào. Đây là đạo
lý tôn sư trọng đạo. Tuy nhiên, đạo lý nầy ngày nay ít được tuân thủ vì thầy
thì thiếu trách nhiệm và trò thì thiếu nhiệt tâm. Đạo lý giáo dục bị xuống cấp
và đây là bi kịch của thời đại. Học trò ít tôn kính thầy, và thầy không còn thiết
tha giúp cho học trò thành tựu.
Việc
học giới 5 năm sẽ đạt kết quả mỹ mãn nếu đệ tử chỉ tuân theo lời chỉ dạy của một
vị thầy. Điều đó sẽ đặt nền tảng vững chắc cho Ba môn học vô lậu giới, định, huệ.
Hãy xem trong Thiền tông. Trong năm năm đầu, các thiền sư yêu cầu môn sinh phải
làm những việc gì? Họ được giao cho một công việc làm đơn giản và yêu cầu phải
nhiệt tâm với công việc hằng ngày ấy, tuyệt đối không thay đổi, không lơ là biếng
trễ. Họ cũng được học kinh, đọc sách sau khi làm việc xong và không được phan
duyên với những việc gì khác.
Sau một
thời gian, có người cảm thấy chán nản, nghĩ rằng mình phải làm lụng vất vả
trong 5 năm mà chẳng thành tựu được gì cả. Thực ra họ đã đạt được nhiều điều mà
họ không nhận ra. Điều gì? Phiền não giảm trừ rất nhiều, định lực gia tăng vì hạn
chế không nghe và không thấy nhiều thứ. Nếu những hạn chế được tuân thủ nghiêm
ngặt, thì môn sinh sẽ đạt được cả phước lẫn huệ. Phước là gì? Là do hằng ngày
làm công quả trong chùa nên đã tu tập hạnh bố thí. Vì chư tăng ni không có tiền
để bố thí, nên các vị phải làm lụng để tu tập hạnh bố thí ba-la-mật. Nhờ sự hạn
chế việc thấy nghe nên sáu giác quan được thu nhiếp, tâm thanh tịnh và có được
định. Đó gọi là huệ. Thế nên qua đó vị thầy đã dạy đệ tử tu tập công đức
và lập nền tảng tu học giới, định, huệ. Phương pháp có vẻ đơn giản nhưng rất hiệu
quả. Sau 5 năm học giới, học các oai nghi tế hạnh, quy cũ do thầy chế định, sau
đó nghe giảng kinh, thuyết pháp chừng một hai năm nữa thì môn sinh sẽ có được
nhận thức tương đối vững chãi.
Trong
tiểu sử của nhiều bậc cao tăng chứng ngộ, chúng ta thấy nhờ phương pháp nầy mà
có ngài ngộ đạo chỉ sau từ ba đến năm năm. Ngày nay có người đã sống trong chùa
từ ba mươi đến năm mươi năm, hoặc hết cả đời người mà vẫn chưa ngộ đạo. Họ đã đọc
vô số kinh điển mà cũng vẫn chưa thấy đạo. Cùng lắm là họ nhớ được nhiều kiến
thức Phật pháp nhưng không chuyển hóa được phiền não của chính mình và đạt được
giác ngộ. Thế nên, chúng ta phải tìm cầu cho được minh sư và thiện tri thức để
được hướng dẫn. Lời khuyên nầy ban đầu có thể sẽ làm nản chí. Nhưng sau giai đoạn
sơ tâm, chúng ta sẽ có niềm tin và an lạc trên đường giải thoát.
Nhiều
người trong chúng ta mắc phải sai lầm lớn lúc mới tu học là muốn học qua cho biết
rất nhiều phương pháp. Các bậc cổ đức thường bắt đầu với lời nguyện thứ nhì
trong Bốn lời nguyện lớn, ‘Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn’. Để đoạn trừ phiền
não, chúng ta phải có được định lực và trí huệ. Lúc đó mới có thể ‘Pháp môn vô
lượng thệ nguyện học’. Đây là tiến trình đúng đắn nhất cho mọi người tu. Sai lầm
nhiều người mắc phải nhất là thích học rất nhiều nhưng không chuyển hóa được
phiền não. Đại sư Thanh Lương gọi là ‘Có học mà không tu’.[1] Những người nầy tập trung vào sự hiểu biết mà
không chịu tu tập. Họ không chịu đoạn trừ phiền não và làm cho thân tâm thanh tịnh.
Kết quả là họ mắc phải tà tri tà kiến chứ không đạt được chánh tri chánh kiến.
II. Cùng lúc tu học giới, định, huệ
Bước
đầu tiên học Phật là gì? Là tụng đọc một bộ kinh. Có cần hiểu ý nghĩa trong
kinh ấy không? Không cần thiết lắm. Vì phiền não chưa chuyển hóa được, trí huệ
chưa được đầy đủ, nên sẽ hiểu lệch lạc ý kinh, dẫn đến sai lầm. Thế sao chúng
ta chỉ nên tụng đọc một bộ kinh? Vì nhờ đó mà Ba môn học vô lậu giới, định, huệ
sẽ đồng thời thành tựu.
Tu tập
giới luật thì cần phải “Không làm các việc ác, siêng làm các việc lành”.
Tụng kinh giúp cho tâm ý chúng ta không bị vọng tưởng nên ngăn ngừa được những
việc ác. Kinh điển là những lời lưu xuất từ chân như bổn tánh của chư Phật.
Không có gì vượt qua được chỗ chí thiện trong các lời kinh nầy. Do vậy, tụng
kinh chính là làm điều thiện và trong khi tụng kinh thì giới luật cũng được
viên mãn.
Khi tụng
kinh phải tập trung tâm ý. Nhờ tập trung mà ta có được định lực. Tụng từng chữ
rõ ràng không bỏ sót đó là tu huệ. Do vậy tụng kinh chính là cùng một lúc tu tập
Ba môn học vô lậu giới, định, huệ. Mọi cố gắng để hiểu ý kinh lúc đang tụng là
xem kinh như sách vở thế gian. Điều ấy sẽ khiến cho việc tu tập Ba môn học vô lậu
giới, định, huệ không có kết quả và đó không phải là chân thật tu hành. Đừng
bao giờ xem thường việc tụng kinh, vì đó là nền tảng của tu tập. Tụng kinh một
giờ là thành tựu một giờ, tụng kinh hai giờ là thành tựu hai giờ. Khỏi cần phải
nói, tụng càng nhiều càng tốt.
Nhiều
Phật tử cùng tu tập với tôi ở Đài Loan và Dallas, Hoa Kỳ đang tụng Kinh Vô lượng thọ 10 lần một ngày. Đến mức có người đã tụng
kinh nầy hơn cả ngàn biến, nên họ đã thuộc lòng kinh, chỉ cần 30 đến 45 phút là
tụng xong bộ kinh. Tụng 10 lần như vậy chỉ từ 5 đến 6 giờ để cùng lúc tu tập được
cả giới, định, huệ. Khi dành nhiều thời gian để hành trì, không lâu tự nhiên
chúng ta sẽ có được tâm an tịnh.
Kinh
điển là lưu xuất từ bổn tánh chân như của chư Phật. Khi chúng ta đã phát huy được
tâm thanh tịnh, thì sẽ hiểu được rõ ràng những gì ta đọc trong kinh. Đây là
nguyên nhân vì sao nhiều người nói kinh khó hiểu. Khi tâm chúng ta chứa đầy vọng
tưởng, làm sao tâm ấy tương ưng được với bản tâm thanh tịnh của chư Phật? Đây
là lý do tại sao ta khó thâm nhập kinh Phật. Thế nên muốn tu học với một bậc thầy,
thì chúng ta phải tin chắc rằng phương pháp thầy đưa ra là hoàn toàn chân thực
và đúng đắn.
Chỉ
nên chọn một bộ kinh để hành trì chứ đừng bị xao nhãng bởi những kinh khác. Nếu
chọn Tịnh độ tông để tu thì nên tụng đọc và nghiên cứu Kinh Vô lượng thọ. Nếu tu theo Tông
Thiên Thai thì nên tụng đọc và nghiên cứu Kinh
Pháp Hoa. Nếu chọn tông Hoa Nghiêm để tu thì nên tụng đọc và nghiên cứu Kinh Hoa Nghiêm. Khi đã chọn một
tông phái để tu rồi thì phải thực hành theo những nguyên tắc và thâm nhập vào
kinh điển của tông ấy suốt năm năm. Nói cách khác là để đoạn trừ sạch mọi phiền
não và thanh tịnh tâm ý. Đây là bước đầu tiên học Phật.
Thực
tình mà nói, thời gian 5 năm tu học là đủ cho người thời xưa đạt được thanh tịnh
tâm ý, vì tâm họ thời ấy ít bị ô nhiễm như chúng ta ngày nay. Trẻ em thời xưa
còn giữ được tâm trong trắng thơ ngây cho đến khi lên 10 tuổi. Sau đó chúng
mới biết sự khác nhau giữa đúng sai, giữa mình và người khác, nên bắt đầu có những
tính tham lam, sân hận, tự cao. Còn trẻ em bây giờ tính tham lam, sân hận biểu
lộ từ khi mới vài ba tuổi. Nó học những tính nầy từ đâu? Từ truyền hình. Những
điều nầy xuất hiện trên truyền hình hằng ngày. Nên bản tánh tự nhiên của chúng
bị ô nhiễm, không còn được niềm hạnh phúc trong trắng của tuổi thơ như thời của
cha mẹ chúng. Thật bất hạnh biết bao!
Tôi
sinh trưởng trong một vùng quê, chẳng hay biết gì về thế giới bên ngoài mãi cho
đến năm 13 tuổi. Hạnh phúc chân thật là được sống mãi trong tuổi thơ ngây không
biết gì về khổ đau từ thế giới bên ngoài. Tôi chỉ biết có chơi. Khi không còn
tuổi thơ ngây, chúng ta sẽ không còn hạnh phúc nữa. Từ đó, chúng ta phải thường
nghĩ đến mọi người. Thế nên tôi cho rằng người thời nay ít may mắn hơi người thời
xưa nhiều.
Khi
chúng ta đã phát được tâm thanh tịnh và khôi phục được trí huệ thì chúng ta bắt
đầu mở rộng được tri thức hiểu biết. Chúng ta có thể thấy, nghe, học mọi điều
mình thích. Vì bây giờ chúng ta đã có được trí huệ và không bị ảnh hưởng bởi
chung quanh. Vì đã có được sự tự chủ, nên càng thấy càng nghe chúng ta càng trở
nên thông thái và định lực càng sâu. Tại sao phước càng rộng và định lực càng
sâu? Vì không dao động bởi môi trường chung quanh nên khiến cho tăng trưởng định
lực. Nhận thức sáng suốt rõ ràng khiến cho trí huệ càng sâu rộng. Lúc ấy chúng
ta có thể tu học các pháp môn và các tông phái khác để phát triển sâu hơn trí
huệ và định lực. Ban đầu chúng ta phải tu tập giới, định, huệ để đạt được Căn bản
trí. Rồi tham học nghiên cứu thêm để viên mãn Hậu đắc trí. Đây là tiến trình tu
học của các bậc cổ đức ngày trước.
Đức
Phật dạy trong Kinh Đại Bát-nhã: ‘Bát-nhã vô tri, vô sở bất vi’ thế nên trước tiên chúng ta phải tu tập tâm
‘vô tri’. Năm năm tu tập giới, định, huệ là để duy trì tâm thơ ngây
trong trắng của chúng ta đối với thế giới bên ngoài. Khi chúng ta hòa nhập trở
lại, chúng ta sẽ biết tất cả, là ‘vô sở bất vi’. Đây là tiến trình và
phương pháp đúng đắn để tu học Phật pháp.
Các bậc
cổ đức ngày trước không những tuân theo giới luật do Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni
chế định mà còn xem Nho gia như là cơ sở cho việc tu học của mình. Phật giáo
Trung Hoa từ khước Phật giáo nguyên thuỷ và thay vào đó bằng học thuật của Nho
gia. Nền tảng Phật giáo Trung Hoa thừa nhận Ngũ đức của Nho gia. Đó là, ôn
(ôn hậu), lương (lương thiện), cung (cung
kính), kiệm (tiết kiệm), nhượng (khiêm tốn). Từ cơ sở nầy nên dễ thành tựu
Ba loại tịnh nghiệp, Sáu nguyên tắc hòa kính, Sáu pháp ba-la-mật-đa, Ba môn học
vô lậu và Mười hạnh nguyện lớn. Tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừa đều
không rời nền tảng tu học nầy. Nói cách khác, chúng ta có thể thành tựu trong bất
kỳ pháp môn, tông phái nào miễn là tuân theo đúng những nguyên tắc và phương
pháp. Thế nên có thể nói rằng Ngũ đức và Lục hòa là điểm đặc sắc của nền tảng
Phật pháp Đại thừa Trung Hoa.
Còn
có một phương pháp giáo dục Phật pháp khác rất tiến bộ. Đó là tiến tu giáo dục.
Không phải đến bây giờ mới có phương pháp nầy. Thời Đức Phật tại thế, có rất
nhiều đệ tử Thanh văn. Một số thân cận bên ngài vì họ chưa thành tựu công phu
tu tập và có một số đã thành tựu. Các vị đệ tử trong hàng Bồ-tát đều có trách
nhiệm hoằng dương Phật pháp, họ đi khắp các nơi để kiến lập đạo tràng và thay
Phật giáo hóa chúng sinh. Rồi hằng năm họ phải trở về trụ xứ vào mùa an cư kiết
hạ để tiếp tục tu học. Cũng như ngày nay vào mùa hè khi học sinh được nghỉ
nhưng thầy giáo thì phải tập huấn thêm. Các vị Bồ-tát đều phải trở về trụ xứ
vào mùa an cư để được Đức Phật chỉ dạy thêm. Họ nghe Đức Phật giảng pháp và
tăng cường tu tập định lực, trí huệ và giới hạnh. Họ cũng trình bày những khó
khăn gặp phải trong việc giáo hóa và thỉnh thị cách giải quyết. Họ học lẫn nhau
trong nỗ lực riêng của mỗi người để cùng nhau tiến bộ. Phương pháp tiến tu giáo
dục nầy ít thấy trong lịch sử Phật giáo Trung Hoa.
Rất
hay khi các đạo tràng Phật giáo hoặc các đoàn thể tu tập của cư sĩ tổ chức các
khóa đả thất niệm Phật vào kỳ an cư mùa đông hay an cư mùa hạ, hoặc các khóa
thiền thất... Các hình thức tu tập ấy cũng giống như phương pháp tiến tu giáo dục.
Phương pháp nầy rất có hiệu quả và rất được nhiều người đề xướng và hưởng ứng.
Nếu chúng ta nói rõ cho họ biết rằng tu tập cách đó là để chuyển hóa phiền não,
thực hành giới, định, huệ để vượt thoát luân hồi sinh tử, thì chắc sẽ còn rất
ít người thờ ơ hoặc phê phán phương pháp tu tập nầy. Ngày nay, người ta có cái
nhìn khác với nền giáo dục thời xưa. Họ muốn học thật nhiều lúc mới nhập môn tu
tập, không biết rằng lối học đó sẽ hạn chế sự thành tựu của mình, trong khi
tuân thủ phương pháp giáo dục truyền thống thì có thể đạt đến lợi ích vô cùng lớn
lao. Thời trước nhiều người hưởng được lợi lạc khi tu tập theo phương pháp giáo
dục truyền thống nầy và đã thành tựu giác ngộ. Còn phương pháp giáo dục hiện
nay, nói cho cùng, chỉ giúp người ta lấy được bằng cấp Tiến sĩ Phật học. Thành
thật mà nói, không phải dễ dàng gì để chuyển hóa phiền não và vượt thoát luân hồi
sinh tử. Chúng ta phải quan tâm rất nhiều đến việc nầy.
Nhận xét
Đăng nhận xét