Chương 6: Năm Khoa Mục (tt)_Lục Độ Ba La Mật
NHẬN THỨC PHẬT GIÁO
Nguyên Tác: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Nguyên Tác: Lão Pháp Sư Tịnh Không
IV. Lục độ ba-la-mật
Chúng
ta đã biết đến Ba loại tịnh nghiệp, Ba môn học (Tam vô lậu học), Sáu nguyên tắc
hòa kính, bây giờ làm sao để ứng dụng vào trong đời sống hằng ngày khi đối xử với
mọi người trong công việc? Để giải quyết điều nầy, Đức Phật dạy cho ta pháp Lục
độ ba-la-mật. Gồm bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, bát-nhã. Nếu
chúng ta thực hành những công hạnh nầy suốt từ sáng khi vừa thức giấc, đánh
răng rửa mặt cho đến khi đi ngủ, thì chúng ta mới là người tu tập chân chính.
1. Bố thí ba-la-mật-đa
a. Bố
thí tài sản (Tài thí)
Thông
thường, người đời chủ yếu truy cầu tài sản như là mục tiêu cao nhất, vì không
có tài sản, cuộc sống sẽ rất khó khăn. Sau đó, họ mưu cầu danh vọng và tri thức,
sức khỏe và sống lâu. Bất luận họ ở phương Đông hay phương Tây, là người sống
thời quá khứ hay hiện nay, đây vẫn là những mục đích truy cầu của con người. Liệu
Phật pháp có đáp ứng trọn vẹn được ước nguyện, mong cầu ấy của con người không?
Chúng ta thường nghe nói rằng, ‘Phật tự trong tâm, có cầu tất được đáp ứng – Phật
thị môn trung, hữu cầu tất ứng’. Thế tại sao có nhiều người không đạt được
những gì họ mong cầu? Vì họ không hiểu được thực tướng của nhân sinh vũ trụ và
không biết được phương pháp đúng đắn để thành tựu ước nguyện của mình. Nếu
chúng ta biết được phương pháp đúng đắn nầy và hiểu được thực tướng của nhân
sinh vũ trụ thì ước nguyện chúng ta sẽ thành tựu.
Đức
Phật dạy rằng tài sản, trí huệ, sức khỏe, sống lâu đều là thuộc về quả báo. Nếu
chúng ta muốn đạt được kết quả nầy, thì trước tiên chúng ta phải gieo trồng và
nuôi dưỡng cái nhân. Nhân tốt sinh ra quả tốt, nhân xấu sẽ có quả xấu. Nơi nào
có nhân thì nơi ấy có quả. Ở đâu có quả thì ở đó có nhân. Đây là luật bất di bất
dịch, và là định luật bao trùm tất cả các luật khác trong vũ trụ tương quan.
Hãy
xem một người nào đó rất giàu. Tại sao có điều ấy? Chẳng phải do người ấy thông
minh khác thường hoặc có ý tưởng rất hay làm ra tiền. Có rất nhiều người thông
minh hơn và có ý tưởng độc đáo hơn, tại sao họ lại không thành công? Đức Phật dạy
rằng tài sản là nghiệp quả được tạo ra do đã gieo nhân trong những kiếp trước.
Nhân nầy như thế nào? Là nhờ bố thí tài sản.
Bố
thí tài sản sẽ được quả báo giàu có, bố thí giáo lý sẽ được quả báo trí huệ, bố
thí sự không sợ hãi (vô úy) sẽ được quả báo khỏe mạnh và sống lâu. Do vậy, nếu
chúng ta muốn có tài sản, trí huệ, sức khỏe, sống lâu thì phải cần gieo trồng
và nuôi dưỡng cái nhân ngay trong đời nầy. Chỉ có một ít người chưa đạt được quả
báo do họ đã gieo nhân trong vài năm trước. Bất luận yếu tố thời gian, chúng ta
phải gieo trồng nhân để có được quả. Đây là Luật nhân quả. Luật nầy không bao
giờ thay đổi.
Bố
thí là điều kiện thiết yếu để tu tập hạnh Bồ-tát. Nếu chúng ta có thể tổng kết
các pháp môn tu tập Phật pháp, chúng ta sẽ thấy pháp môn nào cũng tương ưng với
Lục độ ba-la-mật cả. Còn nếu chúng ta cô đúc Lục độ ba-la-mật lại, chúng ta sẽ
thấy cốt tủy là Bố thí ba-la-mật. Một trong những loại để bố thí là tài sản.
Khi nhiều người nghe vậy, họ cứ nghĩ là đem tiền đi cúng dường các chùa viện,
hoặc đạo tràng. Thật là sai lầm vì suy nghĩ như thế thì quá cạn và quá xa với
tinh thần của Bồ-tát đạo.
Luôn
luôn nghĩ đến sự lợi lạc của người khác là một cách bố thí tài sản. Như thế nên
mọi người đều có thể thực hành bố thí theo cách nầy, và chúng ta đang là những
vị Bồ-tát. Chúng ta không để ý đến đó thôi! Chẳng hạn, khi thức dậy vào buổi
sáng và chuẩn bị bữa điểm tâm cho mọi người, là chúng ta đang thực hành tâm từ
và chính mình là Bồ-tát Phổ Hiền. Khi làm việc nầy chúng ta thấy mình được vui.
Theo cách nầy chúng ta không bận tâm; ‘Thât khổ cho tôi!’ Gia đình xem tôi như
đầy tớ, tôi phải hầu hạ họ suốt ngày!’ Nếu chúng ta cứ than van như vậy mãi, mọi
duyên lành đáng ra được hưởng sẽ tiêu tan mất. Nhưng khi không than van nữa mà
chuyển sang tinh thần bố thí ba-la-mật thì ngay đó chúng ta sẽ hưởng được niềm
vui của lợi lạc hiểu biết.
Như
người làm thuê lao nhọc suốt ngày để kiếm càng nhiều tiền càng tốt hoặc mong được
thăng chức thì đó không phải là thực hành bố thí. Tuy nhiên, nếu người ấy làm
việc tận tâm vì mong đem lợi ích đến cho mọi người trong công ty và xã hội,
không vì mong kiếm được tiền hay khen thưởng, thì người ấy đang thực hành bố
thí và sẽ không bao giờ thấy mệt. Chính tôi cũng vậy, vui vẻ đi khắp nơi để
giúp cho mọi người ai có duyên thì hiểu được Phật pháp, theo cách đó, tôi cũng
đang thực hành bố thí pháp. Tôi giúp cho mọi người biết cách tốt hơn để thay đổi
cuộc sống mình được tốt đẹp hơn theo hướng chuyển hóa dần những phiền não, đạt
được trí huệ và an lạc để dẫn đến cuộc đời tươi sáng hơn.
Năm
1984, tôi có chuyến đi đến Los Angeles để giảng pháp. Tôi đi một mạch từ phi
trường đến hội trường và giảng suốt trong vòng 9 tiếng đồng hồ. Tôi đứng giảng
trong khi thính chúng ngồi nghe. Nhưng cuối cùng, người nghe mệt chớ không phải
tôi. Càng giảng, tôi càng cảm thấy mình như được tiếp truyền sinh lực và nói
càng mạnh hơn, Sao vậy? Vì tôi rất nhiệt tâm muốn truyền dạy đạo lý sâu mầu của
Đức Phật đến cho mọi người. Đây là niềm vui khi giảng giải Phật pháp, và nói thật,
đó là dưỡng chất. Ngày nay, người ta nói nhiều về thực phẩm có lợi có sức khỏe.
Nhưng đó là thứ dưỡng chất hư vọng. Phật pháp dạy cách giữ cho thân tâm thanh tịnh.
Được như vậy, sẽ có được niềm vui khiến mình an lạc khỏe mạnh và trẻ trung. Phiền
muộn sẽ làm cho chúng ta già nua và bệnh hoạn.
Ở Hoa Kỳ, có một số hội đoàn thực hành từ thiện. Một số
người lại mua bảo hiểm y tế đề phòng tai họa hay bệnh tật. Thật ra, làm như thế
là chuẩn bị cho một khả năng bệnh duyên sẽ đến, khi mỗi tháng ta phải đóng trước
tiền bảo hiểm, thế là chúng ta bị ràng buộc (về mặt tâm lý) là sẽ trở nên bệnh.
Nếu không làm chuyện đó thì cũng tiêu phí tiền vào việc khác. Nhưng nếu ta thay
đổi cách nghĩ, tiền ấy sẽ giúp cho những người đang bệnh, thì chúng ta
đang thực hành bố thí và chúng ta sẽ không bao giờ bị bệnh. Sao vậy? Vì chúng
ta phát khởi tâm không bệnh. Nếu chúng ta giúp đỡ và chăm sóc người già cả, thì
chúng ta sẽ có quả báo tốt đẹp trong tương lai. Khi chúng ta già, sẽ có người
chăm sóc chúng ta lại.
Ngày nay, ai cũng mua bảo hiểm xe hơi. Nếu chúng ta nghĩ
rằng thay vì mua bảo hiểm, ta dùng tiền ấy để giúp cho những người bị tai nạn
xe hơi thì chúng ta sẽ không bao giờ gặp phải bất hạnh ấy. Vì sao? Vì chúng ta
đã bố thí tài sản và lòng từ bi. Thế nên, chúng ta là một vị Bồ-tát hay là kẻ
phàm phu là do suy nghĩ của chúng ta. Khác nhau điều gì? Bồ-tát đã giác ngộ và
luôn luôn làm mọi điều vì lợi ích cho mọi người, trong khi người phàm phu thì
luôn luôn làm những gì có lợi cho chính mình. Khi chúng ta làm điều gì vì lợi lạc
cho người, chúng ta sẽ được những lợi ích khó tưởng tượng được. Cách bố thí nầy
nhiều vô cùng và ta có thể thực hành bất cứ lúc nào, và bất cứ cách nào.
Theo Phật pháp, bố thí tài sản gồm bố thí nội tài và bố
thí ngoại tài. Ngoại tài là những tài sản thuộc sở hữu của mình, còn nội tài là
thân thể mình. Chẳng hạn, hiến tặng các cơ quan nội tạng hay từng phần thân thể
mình cho người bệnh. Nếu chúng ta có ý nguyện giúp cho người khác mà không mong
cầu tiền bạc hoặc sự đền đáp thì đó là bố thí nội tài. Chúng ta đều có thể thực
hành bố thí nội tài trong bất kỳ lúc nào.
Chúng ta đã thấy rõ tiêu chuẩn thiện ác trong Phật pháp,
mọi việc làm xuất phát từ tâm nguyện lợi lạc cho mọi người là thiện và mọi việc
làm xuất phát từ lòng ích kỷ là xấu. Điều nầy có thể người mới phát tâm khó thực
hành. Tại sao chúng ta lại không nên làm chỉ vì lợi lạc cho riêng mình? Vì hàng
phàm phu khó thành Phật là do hai thứ chướng ngại chấp trước là ngã
chấp và pháp chấp. Khi
không còn ngã chấp, ta chứng được quả vị A-la-hán. Khi không còn pháp chấp, ta
chứng được quả vị Phật. Nếu trong mỗi niệm, chúng ta đều mong làm lợi ích cho
mình, thì ngã chấp càng ngày sẽ lớn mạnh. Với sự ích kỷ, ngay cả khi ta trồng
được vài căn lành, thì chỉ làm lớn mạnh thêm chấp trước mà thôi; còn nếu làm được
ít việc lành, thì sẽ giảm được dần sự chấp trước. Đức Phật dạy rằng nếu muốn vượt
thoát luân hồi sinh tử thì nhất thiết phải trừ sạch ngã chấp và pháp chấp. Ngã
chấp là phiền não làm cho tâm không được thanh tịnh. Pháp chấp là phiền não
ngăn che không phát khởi được trí huệ chân thật.
b. Bố
thí sự hiểu biết (Pháp thí)
Dạng
bố thí nầy sẽ đưa đến quả báo trí huệ và thông minh. Nói chung, bố thí nầy có
hai trường hợp: Phật pháp và pháp thế gian. Nhiệt tâm chia xẻ tri thức hiểu biết
cho mọi người, những người hiếu học, đó là Bố thí sự hiểu biết (Pháp thí).
Không chỉ giới hạn trong giáo lý Phật pháp, chẳng hạn như dạy cho người khác kỹ
thuật, cách nấu ăn...Đều là cách chia xẻ không điều kiện những kiến thức hiểu
biết trong mọi lĩnh vực. Vị thầy dạy học với nhiệt tâm giúp đỡ mọi người chính
là đang thực hành pháp thí. Còn người dạy chỉ mong kiếm tiền và uy tín thì
không phải. Người chân chính thực hành pháp thí thì rất nhiệt tâm và không bao
giờ thấy mỏi mệt với việc nầy. Khi chúng ta làm việc gì vì lợi ích cho riêng
mình, chúng ta sẽ bị thất vọng khi không có ai khen tặng hoặc không thấy được lợi
lạc thêm điều gì, như vậy nên chúng ta thường đánh mất nhiệt tình. Ngược lại, Bồ-tát
luôn luôn làm vì lợi ích cho chúng sinh và không bao giờ vướng bận vào bất kỳ
điều kiện nào khi bố thí.
Trong Kinh Vô lượng thọ, Đức Phật dạy rằng
trong tất cả các loại bố thí, thì pháp thí là lớn hơn cả. Học thức thế gian
không giúp giải quyết được mọi vấn đề trọng yếu. Phật pháp là nền giáo dục viên
mãn có thể giúp ta đạt được công đức, trí huệ vô biên khiến thoát khỏi phiền
não, ra khỏi luân hồi sinh tử, rốt ráo đạt được Phật quả. Bố thí nầy rất viên
mãn, chỉ có trong truyền thống Phật giáo Đại thừa. Tất cả chư Phật đều tán thán
việc bố thí nầy. Hình thức bố thí pháp thông dụng nhất là kinh sách, băng giảng,
dĩa CD, cũng như nhận lời giảng dạy Phật pháp, đều là tạo cơ hội cho mọi người
được học hỏi Phật pháp.
Tuy
nhiên, hiện nay đang lưu hành nhiều kinh sách Phật giáo được in ấn với luật bản
quyền. Những ấn phẩm nầy không phải là hình thức pháp thí mà là vì mục đích
thương mãi. Có một số Pháp sư, khi mời giảng, đã hỏi sẽ được trả bao nhiêu. Đây
không phải là pháp thí chân thật. Bổn nguyện của Bồ-tát là vì lợi ích cho chúng
sinh, chứ không phải cho mình. Nếu có một chúng sinh thực lòng muốn học Phật
pháp, thì Bồ-tát chân thật sẽ đến và giúp cho họ được toại nguyện. Họ sẽ không
bao giờ làm điều gì khó khăn cho bất kỳ ai muốn học, miễn là người ấy thực sự đạt
được lợi ích khi học Phật.
c. Bố thí sự không sợ hãi (Vô úy thí)
Sự bố
thí nầy liên quan đến ý nghĩa rất rộng vì nó giúp giải trừ cho mọi người sự sợ
hãi và thiếu tự tin. Chẳng hạn, nếu ngoại bang xâm chiếm nước ta, chúng ta phải
gia nhập quân đội để bảo vệ tổ quốc, để cho người ở hậu phương an cư lạc nghiệp,
đó cũng là hình thức vô úy thí. Nếu có người ban đêm sợ về nhà một mình, chúng
ta đưa họ về. Ăn chay là một điển hình của vô úy thí, vì nếu chúng ta đều ăn
chay cả thì mọi chúng sinh không còn xem chúng ta là nỗi đe dọa của họ. Mọi
hành vi giúp cho mọi loài chúng sinh cảm thấy an tâm và tin cậy thì đó là vô úy
thí. Nếu chúng ta thực hành một cách toàn vẹn, thì chắc chắn sẽ hưởng được sức
khỏe và sống lâu.
Vua
Càn Long của nhà Thanh là người có được cả trí huệ, khỏe mạnh và sống lâu, ‘Quý
thay thiên tử, phước trùm bốn biển – Quý vi thiên tử, phước hữu tứ hải’.
Ông làm vua 60 năm sau đó nhường ngôi cho con và làm Thái Thượng Hoàng trong 4
năm nữa mới mất. Sở dĩ ông có được phước báo nầy là do trong những đời trước
ông đã tu tập tài thí, pháp thí và vô úy thí.
Đức
Phật dạy hàng Bồ-tát phải tu tập bố thí ba-la-mật. Ba-la-mật có nghĩa là thành
tựu viên mãn. Vấn đề là làm sao để chúng ta thực hành bố thí đến thành tựu viên
mãn? Chỉ bằng cách rất đơn giản là thay đổi suy nghĩ, không còn lo cho mình nữa
mà vì mọi người. Theo cách nầy, chúng ta có thể tu tập bố thí trong bất kỳ lúc
nào, bất kỳ ở đâu. Nhưng chúng ta vẫn chưa đạt đến bố thí ba-la-mật được. Bố
thí ba-la-mật là phóng xả, dâng tặng tất cả những gì sở hữu của mình để giúp đỡ
mọi người. Cho và nhận là một. Nếu chúng ta không thực hành Bố thí ba-la-mật
thì chúng ta không bao giờ nhận được điều gì cả. Khi bố thí ít, thì nhận được
ít. Khi bố thí nhiều, thì nhận được nhiều. Quý vị có sợ hãi, âu lo không? Quý vị
có bị luân hồi sinh tử không? Tại sao quý vị không muốn tống khứ những thứ ấy
đi? Bố thí ba-la-mật là cắt đứt những thứ nầy để đạt được Đại viên mãn và Đại tự
tại. Đây là sự thành tựu rốt ráo nhất, nên được gọi là Bố thí ba-la-mật.
Chúng
ta sẽ bắt đầu với việc bố thí các tài sản vật chất mình có và dần dần xả bỏ những
thứ khác. Nếu có thể cắt đứt mọi phiền não, luân hồi sinh tử có nghĩa là chúng
ta đã khôi phục lại được năng lực thanh tịnh giác ngộ sáng suốt trong tự tánh của
mình.
2. Trì giới ba-la-mật
Ba-la-mật
thứ hai là Trì giới, có nghĩa là tuân thủ đúng theo giới luật và các phong tục,
luật lệ, tập quán ở địa phương nơi mình cư ngụ. Mọi việc dù lớn hay nhỏ, dù thế
gian hay xuất thế gian, đều có luật tắc tự nhiên của nó. Chúng ta cần phải làm
đúng, vì như vậy chúng ta mới hoàn thành công việc mà ta đã phát nguyện. Chẳng
hạn như quy củ nề nếp trong gia đình. Luân thường đạo lý là mối quan hệ giữa
cha con, vợ chồng, anh em. Có lớn nhỏ, có trật tự tự nhiên, không được điên đảo.
Nếu không giữ được vậy, tức là gia đình rối loạn, cha không ra cha, con không
ra con. Cũng như khi nấu cơm, ta phải vo gạo, đổ vào nồi, rồi bắt lên bếp,
không theo tuần tự như vậy thì cơm không chín được.
Điều
nầy càng đúng cho việc tu học Phật pháp. Nếu muốn thành tựu, chúng ta phải theo
sự hướng dẫn của Đức Phật, thực hiện Bốn lời nguyện lớn của chư Phật và Đại Bồ-tát.
Trước hết, chúng ta nguyện giúp đỡ tất cả chúng sinh. Tiếp đến chúng ta nguyện
chuyển hóa mọi lo âu phiền muộn, tập khí, chấp trước để diệt trừ sạch mọi phiền
não. Chỉ có như vậy chúng ta mới thông đạt được hết thảy mọi pháp môn. Sau cùng
chúng ta mới thành tựu Phật đạo. Khi đã thành Phật rồi, ta lại có được năng lực
cứu giúp tất cả chúng sinh, thế nên chúng ta mới thành tựu được lời nguyện lớn
thứ nhất, “Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ”.
Có
người sẽ hỏi, ‘Nhất định phải thành Phật, làm Bồ-tát không được hay sao?’ Dù Bồ-tát
có đủ năng lực để cứu giúp chúng sinh, nhưng chưa có đủ năng lực để giúp cho
hàng Bồ-tát có giai vị ngang mình hoặc cao hơn. Như hàng Đẳng giác Bồ-tát chưa
thể độ được hàng Đẳng giác Bồ-tát, chỉ khi thành Phật rồi, mới có năng lực rộng
lớn độ hết chúng sinh trong 9 pháp giới nầy. Vời lời nguyện như vậy, chúng ta mới
phát tâm từ bi rộng lớn nguyện giúp đỡ mọi chúng sinh, nguyện tinh cần chuyển
hóa phiền não và thông đạt mọi pháp môn tu.
Ngày
nay, người tu không thiết tha thực hành các lời nguyện mặc dù họ tụng đọc hằng
ngày. Sao tôi nói vậy? Vì họ vẫn còn tâm phân biệt, tâm thị phi, tâm nhân ngã,
tâm yêu ghét. Nên họ chỉ giúp người mà họ thích và bỏ qua người mà họ không
thích. Đó không phải là lời nguyện chân chính, không phải là lời nguyện viên
mãn. Lời nguyện viên mãn là của Bồ-tát không xuất phát từ tâm phân biệt. Bồ-đề
tâm rất vi diệu, không thể nghĩ bàn và vượt xa tâm phàm phu của chúng sinh.
3. Nhẫn nhục ba-la-mật
Bất
luận làm việc gì, cũng cần phải thực hành tâm nhẫn nhục. Vào thời xưa các Pháp
sư dịch kinh thấy người Trung Hoa có cá tính quật cường. Trong sách cổ thường
thấy ghi câu, ‘Kẻ sĩ chỉ chịu chết chứ không chịu nhục – Sĩ khả sát bất khả
nhục’. Dù có chém đầu cũng không can hệ gì. Nhưng đó chỉ là sự nhịn nhục và
xem thường chứ chưa phải là nhẫn. Do vậy nên các pháp sư dịch kinh mới đưa thêm
vào danh từ nhẫn nhục – 忍辱 để chỉ cho cá tính quật cường
của người Trung Hoa, vốn ban đầu chỉ có từ nhẫn
nại – 忍耐 chứ không có ý nghĩa chữ nhục 辱. Kinh Kim Cương có nói, ‘Tất cả các pháp được thành tựu là
nhờ nhẫn nhục’[3]. Không có tâm nhẫn nhục thì không thành tựu điều
gì cả. Chẳng hạn, nếu muốn tốt nghiệp đại học thì phải kiên nhẫn nhục học bốn
năm. Quý vị phải nhẫn nhục ngồi đây suốt hai tiếng đồng hồ để nghe tôi giảng rồi
quý vị mới mong có kết quả mỹ mãn khi thực hành. Không có tâm nhẫn nhục thì
không bao giờ làm được điều gì cả, bất luận chúng ta có duyên lành đến đâu.
Trong Sáu pháp ba-la-mật-đa, Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni nhấn mạnh nhất đến Nhẫn
nhục ba-la-mật trong Kinh Kim Cương. Đó là chìa khóa thành công trong tu tập.
Người
đời thường nói, ‘Xử sự là khó, xử thế với người càng khó hơn – Xử sự nan, xử
nhân cánh nan’. Đối với thời xưa, việc ứng xử giữa người với nhau không
khó. Nhưng ngày nay thì khác. Sao vậy? Vì nền giáo dục thời xưa thường dạy con
người nhân cách và đạo lý để sống với nhau, giáo dục ngày nay chỉ dạy con người
cách làm việc để kiếm sống. Nên chẳng ngạc nhiên gì khi chính chúng ta chẳng biết
gì về mình để xử sự đúng với những người chung quanh. Chúng ta còn không biết
được những biến đổi tâm tính của mình, biết về người khác lại càng ít hơn. Do vậy
nên càng khó để xử sự cho hài hòa với mọi người.
Có ba
loại nhẫn nhục. Thứ nhất là nhẫn nhục khi bị người khác ngược đãi, mắng chửi hoặc
hãm hại. Nhẫn nhục chính là công đức, với sự nhẫn nhục, ta mới có được tâm
thanh tịnh, như vậy dễ có được định lực và tu tập dễ thành tựu. Khi thực hành hạnh
nhẫn nhục thành tựu rồi, chúng ta sẽ có được phước báo rất lớn. Thứ hai là nhẫn
nhục khi gặp nghịch cảnh do thời tiết, nóng lạnh, mùa hạ mùa đông, đói khát
cũng như các tại họa do thiên nhiên gây ra. Thứ ba là nhẫn nhục trong khi khổ
nhọc tu tập. Trước khi có được sự hỷ lạc trong công phu tu tập cũng như năng lực
công phu được vững chãi, chúng ta phải gặp rất nhiều chướng ngại. Tuy nhiên,
khi đã vượt qua giai đoạn nầy rồi, chúng ta sẽ có được sự an lạc. Sao vậy? Vì
chúng ta đang đi trên con đường chính. Điều nầy cũng giống như khi đi trên xa lộ,
trước khi đến nơi ta phải chạy vòng và phải tìm lối vào. Điều nầy thường làm
cho ta nản lòng nhưng vì trên đường đi có quá nhiều xe khiến ta không thể chạy
nhanh được. Một khi đã vào xa lộ cao tốc rồi, sẽ thấy dễ chịu hơn vì xe chạy
nhanh hơn, êm hơn và không còn chướng ngại. Tu tập Phật pháp cũng giống như vậy.
Ban đầu,
chúng ta đi đường vòng, thử qua rất nhiều trường với rất nhiều môn. Chúng ta sẽ
chọn môn nào? Sẽ học cái gì? Có người may mắn vì họ chỉ mất vài năm là thấy được
con đường chính. Có người kém may mắn, phải mất 10 đến 20 năm hay trọn cả cuộc
đời mới có được con đường chân chính. Có được may mắn là do nhiều căn lành, công
đức, nhân duyên đời trước ta đã vun trồng. Với những điều kiện trên, chắc chắn
chư Phật, các Bồ-tát sẽ hỗ trợ chúng ta, vì họ không bao giờ bỏ rơi chúng sinh.
Và khi đã phát tâm thọ trì Phật pháp, chúng ta sẽ được chư Phật hộ niệm đưa đến
giác ngộ. Lúc đó tương lai sẽ được tươi sáng hơn.
Thế tại
sao Đức Phật không nói chỉ đơn giản những gì chúng ta cần biết thôi? Ngài có
nói. Nhưng chúng ta không nghe. Chúng ta đã được Đức Phật dạy về pháp môn tu,
nhưng chúng ta lại nghĩ rằng, ‘Đây có thể không phải là pháp tu hay nhất. Tôi
còn nghe có một pháp môn khác hay hơn’. Như vậy là chúng ta đã làm trái lời các
Ngài đã dạy. Thế nên các Ngài không đến với chúng ta. Quý vị hãy suy nghĩ kỹ điều
nầy. Chúng ta cần phải nhẫn nhục trước khi đạt đến giác ngộ. Không có tâm nhẫn
nhục, chúng ta không thể nào tiến lên giai vị cao hơn, vì nhẫn nhục là điều kiện
tiên quyết để có định lực và tinh tấn.
4. Tinh tấn ba-la-mật
Trong
tiếng Hán chữ tinh tấn được ghép lại gồm hai chữ tinh 精 là
tinh chuyên; tấn 進 là tiến
bộ. Cả hai việc đều phải đi cùng nhau. Phật pháp không bảo thủ mà cũng chẳng lạc
hậu, mà mong cầu sự tiến bộ hằng ngày. Có người cho rằng Phật pháp ngày nay
không còn thích ứng nữa. Những đánh giá nầy hoàn toàn sai lầm vì người nói
không biết đến tinh tấn ba-la-mật. Tiến bộ là điều tốt, nhưng điều quan trọng
là phải tiến bộ trong tinh thần tinh chuyên. Hiện nay, ở phương Tây nhiều nhà
khoa học có rất nhiều khám phá mới, họ rất kiên trì, miệt mài tìm kiếm hằng
ngày và không bao giờ ngưng nghỉ. Điều ấy cũng được áp dụng cho việc học Phật.
Chúng ta tu học tinh tấn sau khi đã chọn được tông phái và pháp môn, tinh tấn tập
trung trong các môn học cho đến khi thông suốt trước khi học qua môn khác. Sẽ
chẳng có hiệu quả nếu tập trung vào nhiều môn khác nhau trong cùng một lúc. Khi
chúng ta đã thành tựu được một môn, chúng ta sẽ thông hiểu được tất cả. Nên nói
‘nhất thông nhất thiết thông’. Nếu chúng ta muốn thử nhiều pháp môn thì chúng
ta sẽ bị chướng ngại trước khi được giác ngộ. Tôi sẽ kể cho quý vị nghe một vị
tăng chuyên tâm tu tập pháp môn niệm Phật.
Vào
những năn Dân quốc đầu tiên, Pháp sư Đế Nhàn có một vị đệ tử, vị nầy hơn 40 tuổi
mới xuất gia. Hai vị là bạn thời thơ ấu, cùng lứa tuổi với nhau. Pháp sư Đế
Nhàn xuất thân trong gia đình khá giả, nên được học hành, hưởng được nền giáo dục
chu đáo. Trong khi người bạn của ngài xuất thân từ gia đình nghèo, ít được học
hành. Khi lớn lên, người bạn ấy làm nghề lao động thủ công nên đời sống rất chật
vật.
Một lần
sau khi ở lại chùa viếng thăm Pháp sư Đế Nhàn vài hôm, ông ta nói với Pháp sư rằng
ông muốn xuất gia làm tăng. Pháp sư hỏi vì sao, ông ta trả lời, ‘Đời sống quá
khó khăn và tôi muốn làm người xuất gia’. Ban đầu Pháp sư từ chối vì thấy giáo
dục Phật pháp rất nghiêm túc và việc học kinh điển sẽ khiến cho anh bạn già và
chậm lụt nầy khó theo nổi so với các chú điệu còn trẻ. Các vị tăng khác sẽ cả nể
vì anh ta là bạn của pháp sư. Thấy mọi chuyện đều là thử thách quá lớn đối với
người bạn mình nên Pháp sư từ chối. Nhưng người bạn cứ nài nỉ nên Pháp sư phải
nhận lời và đưa ra những điều kiện, ‘Tôi đồng ý thế phát cho ông xuất gia,
nhưng ông đừng mong mình sẽ thọ giới vì chắc ông không thể nào chịu nổi 53 ngày
tập sự khắc nghiệt. Ở trong làng Ninh Ba, có rất nhiều ngôi miếu nhỏ vắng người,
tôi sẽ tìm cho ông một cái để ở’. Pháp sư nhờ vài người Phật tử ở gần đó cung cấp
thực phẩm cho vị tăng mới. Rồi hướng dẫn ông ta niệm danh hiệu Nam mô A-Di-Đà Phật. Ngài nói, ‘Chỉ
cần lúc nào cũng niệm câu nầy. Khi mệt thì hãy nghỉ, nhưng khi nghỉ cũng nhớ đến
câu danh hiệu. Tôi tin chắc ông sẽ được lợi lạc rất lớn khi làm như vậy’.
Rồi vị
tăng mới ẩn mình trong ngôi miếu nhỏ và chỉ tập trung niệm Phật. Ba năm sau,
ông ta trở về thăm bạn bè và người thân rồi trở về lại ngôi miếu và nói với người
phụ nữ thường đem cơm rằng: ‘Ngày mai đừng đem cơm cho tôi nữa’. Người phụ nữ
nghĩ rằng vị tăng đã không rời khỏi chùa ba năm nay quyết định sẽ về thăm bạn
bè lần nữa vào ngày mai.
Ngày
hôm sau, người phụ nữ trở lại ngôi miếu để xem vị tăng đã về chưa. Cô ta vào và
cất tiếng gọi, không thấy ai trả lòi, cô ta đi vào trong và thấy vị tăng đang đứng
với xâu chuỗi hạt trên tay. Cô ta chào vị tăng nhưng không thấy trả lời. Khi đến
gần cô ta mới biết ông ta đã chết nhưng vẫn đứng! Chưa bao giờ thấy chuyện như
vậy xảy ra trong đời nên cô ta báo cho các vị Phật tử đến xem. Họ gởi điện cho
Pháp sư Đế Nhàn báo tin lạ vừa xảy ra và thỉnh thị nên làm như thế nào?
Vì đi
lại khó khăn, nên phải ba ngày sau Pháp sư mới đến được ngôi miếu. Pháp sư biết
người bạn mình đã vãng sanh cõi Tây phương Cực lạc. Ngài nhìn người bạn đã tịch
trong tư thế đứng và thán phục nói: ‘Ông đã chứng tỏ rằng quyết định xuất gia
làm tăng cách đây ba năm của ông là đúng đắn. Không một Pháp sư chuyên giảng
kinh thuyết pháp, các vị phương trượng trú trì danh sơn bảo sát ở đây cũng chưa
có vị nào đạt được như ông’. Trong ba năm, vị tăng ‘thất học’ không làm gì hết
ngoài việc niệm Nam mô A-Di-Đà Phật.
Sự nhất tâm, tinh cần không gián đoạn của vị tăng đã đưa đến kết quả thoát khỏi
luân hồi sinh tử và vãng sinh Tây phương Cực lạc.
Thực
hành tinh tấn rất quan trọng bất luận trong công việc gì. Dù niệm Phật, ngồi
thiền, trì chú, hay học kinh, chúng ta cũng phải tinh tấn. Trong việc học kinh,
nếu muốn có ích cho mình và giúp người thì tốt nhất là chuyên tâm nghiên cứu giảng
giải chỉ một bộ kinh. Theo cách nầy, mỗi khi chúng ta nghiên cứu và giảng giải,
chúng ta sẽ đạt đến cảnh giới tâm chứng mới lạ, chúng ta sẽ được tiến bộ không
ngừng. Người giảng Kinh A-Di-Đà trong 10 năm sẽ trở thành Phật A-Di-Đà. Người
giảng phẩm Phổ môn trong 10 năm sẽ trở thành Bồ-tát Quán Thế Âm. Còn người cố gắng
học 10 bộ kinh trong 10 năm thì thành nghề gì cũng biết nhưng chẳng tinh nghề
nào. Bây giờ quý vị mới biết tầm quan trọng của tinh tấn như thế nào!
Vào
năm Dân quốc thứ 58, tôi được Hòa thượng Tinh Vân mời sang Phật Quang Sơn, một
trường Đại học Phật giáo ở Đài Loan để giảng dạy. Tôi đề xuất với vị hiệu trưởng
rằng, ‘Mỗi học tăng nên chuyên tâm nghiên cứu một bộ kinh. Có vậy, sau từ 10
năm đến 20 năm, Phật quang sẽ chiếu khắp toàn cầu’. Tuy nhiên, ý kiến của tôi
không được chấp nhận. Nếu không thì sẽ có rất nhiều chuyên gia hoằng pháp. Thành
quả ấy kỳ diệu biết bao! Theo cách nầy, nếu có người muốn nghe Kinh A-Di-Đà thì
sẽ có Đức Phật A-Di-Đà thuyết pháp, nếu có người muốn nghe Kinh Địa Tạng sẽ có
Bồ-tát Địa Tạng thuyết pháp. Người nào đã tốt nghiệp đại học nầy đều là những
chuyên gia hoằng pháp. Chỉ bằng cách ấy, Phật pháp mới được hoằng truyền rộng
rãi.
Thế
nên tôi mong mỏi rằng các vị hoằng dương Phật pháp đều là những chuyên gia, chứ
không phải chỉ là những học giả, chỉ học nhiều môn, nhưng thực tế thì không
thông suốt môn nào cả. Ngược lại, nếu học tăng chuyên chú vào một môn thì kết
quả sẽ thông suốt tất cả các môn. Chư Phật và Bồ-tát đều tinh thông nhiều mặt,
nhưng vẫn dạy chúng ta chú tâm vào một pháp môn. Tinh tấn có nghĩa là thâm nhập
chỉ riêng vào một pháp môn. Công đức của tinh tấn thật là vô lượng vô biên.
5. Thiền định ba-la-mật
Thứ
năm là thiền định ba-la-mật, gồm thiền định thế gian và xuất thế gian. Thiền định
thế gian gồm Bốn thiền tám định,[4] nếu siêng tu tập thiền định nầy, tương lai chắc
chắn sẽ sinh vào cõi trời Sắc giới, Vô sắc giới. Đó là những cảnh giới cao, chỉ
do tu tập thiền định mới đạt được. Đại thừa, Tiểu thừa đều có thiền định xuất
thế gian, chư Phật đều tu tập thiền định nầy. Chúng ta gọi đó là Xuất thế gian thượng thượng thiền. Yếu
quyết tu tập mọi pháp môn đều ở thiền định.
Thật
sai lầm khi cho rằng chỉ có Thiền tông Phật giáo mới tu tập thiền định. Thật ra các tông
khác đều có pháp tu tập định lực. Tịnh độ tông dùng phương pháp niệm Phật để đạt
nhất tâm bất loạn, đó là một cách tu tập thiền định. Tông Thiên Thai tu tập Chỉ
quán, đó cũng là một cách thiền định. Mật tông dùng Tam mật tương ưng, sự tương
ưng của ba nghiệp thân, khẩu, ý đó chính là thiền định. Nên phải biết, mỗi tông
phái, pháp môn dùng tên gọi khác nhau những đều tu tập thiền định. Do vậy nên
trong Lục độ ba-la-mật, thiền định bao quát tất cả các phương diện kia, đều
liên quan đến mọi sinh hoạt chúng ta hằng ngày.
Thiền
định nầy là gì? Là làm chủ tâm ý mình. Chúng ta có mục đích, có phương hướng,
tuyệt nhiên không để cho hoàn cảnh chung quanh chi phối, làm dao động, đó gọi
là ‘định’. Như các nhà khoa học, họ thành công trong việc nghiên cứu là nhờ
không để cho các việc khác chi phối, thế nên họ đạt được cái mà nhà Phật gọi là
‘tam muội’, đó là ‘khoa kỹ tam muội’. Người tu tập pháp môn niệm Phật đạt được
nhất tâm bất loạn được gọi là ‘niệm Phật tam muội’, như vị tăng đệ tử của Pháp
sư Đế Nhàn đã thành tựu. Qua đó, mới biết nhẫn nhục là nền tảng để tu tập, có
nhẫn nhục ta mới siêng năng tinh tấn và nhờ vậy mới đạt được định lực, đó là cốt
tủy của việc tu hành.
Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục tổ Huệ Năng
có giải thích thiền định không chỉ có nghĩa là là ngồi thiền (đả tọa), đó chỉ
là một trong vô số pháp tu thiền định mà thôi. Ngài chứng ngộ nhờ nghe Kinh Kim Cương, do vậy nên mọi lời
giảng của Ngài đều lưu xuất từ yéu chỉ của kinh nầy. Thiền là ngoài không chấp
trước vào tướng.[5] Định là trong không động tâm. Trong kinh Đức
Phật dạy ngài Tu-bồ-đề[6] cách hoằng pháp lợi sanh qua câu ‘Bất thủ
ư tướng, như như bất động’.
Kinh
Hoa Nghiêm trình bày Thiện Tài đồng tử trải qua cuộc tham vấn 53 vị thiện tri
thức. Khi đến gặp Chúc Hương trưởng giả[7] để học về thiền định, Thiện Tài không thấy vị
nầy. Ông ta ở đâu? Ông ta không ngồi thiền trong một đạo tràng nào, cũng không
ngồi thiền trong nhà, mà Thiện Tài gặp ông đang đi lang thang ngoài chợ. Ông ta
đang làm gì ngoài đó? Ông ta đang tu tập thiền định, giữ cho tâm thanh tịnh bằng
cách không dao động bởi các hiện tượng (ngoại bất trước tướng, nội bất động
tâm). Ông ta không ngồi kiết già xoay mặt vào tường hằng giờ trong tư thế
mà ta hằng mong ước được thành thục. Chúng ta không biết rằng Chúc Hương trưởng
giả đã đạt đến trình độ thiền định cao cấp hơn những người mà chúng ta thường
thấy họ ngồi trong tư thế kiết già. Trình độ thiền định bậc cao hoặc còn gọi
‘tam muội’ là có thể đạt được ngay cả trong khi làm việc, trong cả bốn tư thế
đi, đứng, nằm, ngồi.
Tại
sao thiền định lại rất quan trọng? Tại sao Đức Phật dạy ta ‘Ngoài phải xa lìa
các tướng, trong không được động tâm’?[8] Vì tất
cả các hiện tượng đều hư vọng, các pháp hữu vi đều như mộng, huyễn, ánh chớp, bọt
bóng. Đức Phật đã thấy rõ nên khuyên chúng ta đừng khởi tâm phân biệt chấp trước.
Nếu chúng ta làm được như vậy, thì sẽ khôi phục lại được tự tánh chân thật của
mình và có được trí huệ như chư Phật khi nhìn các hiện tượng chung quanh. Đó là
Bát-nhã ba-la-mật.
6. Bát-nhã ba-la-mật.
Thứ
sáu là Bát-nhã ba-la-mật. Chúng ta ứng dụng điều nầy trong sinh hoạt hằng ngày,
khi chúng ta thực hành theo Bồ-tát đạo. Chúng ta nhận biết tất cả các hiện tượng
chung quanh mình nhưng không vướng mắc với nó khi chúng ta làm hết sức mình để
cứu giúp chúng sinh. Sao vậy? Vì việc cứu giúp chúng sinh phát xuất từ tâm nguyện
và công hạnh của chư Phật và Bồ-tát, ‘đồng thể đại bi, vô duyên đại từ’. Điều nầy
cũng giống như khi một người dùng tay trái đuổi muỗi đang đậu trên tay phải
mình. Tay phải có hỏi tại sao nó giúp tay trái không? Dĩ nhiên là không. Vì nó
cùng có chung thân thể.
Bây
giờ chúng ta tạm thời quên mất tự tánh của mình, nên không biết mọi chúng sinh
va mình vốn đồng một tự thể. Thế nên chúng ta có sự phân biệt giữa mình và người,
trở nên rắc rối phức tạp, càng lắm mê mờ, phạm nhiều ác nghiệp nên gieo nhiều
khổ đau cho mình và người. Đức Phật dạy chúng ta cách dẹp trừ mê lầm, thức tỉnh,
nhận ra chân lý giúp người chính là giúp mình. Lòng thương yêu mọi người không
điều kiện (vô duyên đại từ) xuất phát từ nhận thức chúng sinh và mình vốn đồng
một tự thể (đồng thể đại bi).
Nói
tóm lại, mọi việc đều có trình tự và phương pháp. Đó là phải giữ giới. Có lòng nhẫn nại, chúng ta
sẽ có được nhẫn nhục. Chuyên
tâm vào việc tu tập không lơ là gọi là tinh
tấn. Làm chủ được tâm và không bị dao động bởi các hiện tượng bên ngoài gọi
là thiền định. Thông đạt mọi
tri thức và hiện tượng gọi là trí
huệ (bát-nhã). Do vậy Đức
Phật dạy chúng ta áp dụng Lục độ ba-la-mật, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn,
thiền định, trí huệ (bát-nhã) vào trong đời sống hằng ngày. Theo cách nầy,
chúng ta thực sự đang tu tập Bồ-tát đạo. Sẽ sai lầm khi nghĩ rằng mình đã thọ Bồ-tát
giới rồi thì hiển nhiên mình là Bồ-tát. Nếu chúng ta không tu tập Lục độ
ba-la-mật, không áp dụng các điều nầy, dù có thọ giới Bồ-tát, cũng giống như tượng
Bồ-tát bằng đất, đến mình cũng chẳng độ được, nói gì đến độ người.
[4] Tứ thiền: Sơ thiền, đệ nhị thiền, đệ tam thiền, đệ tứ thiền; Bát định: Sơ thiền thiên, Nhị thiền
thiên, Tam thiền thiên, Tứ thiền thiên. Không vô biên xứ định, Thức vô biên xứ
định, Vô sở hữu xứ định, Phi phi tưởng xứ định.
[7] Chúc Hương 鬻 香 c: Yuxiang; Còn gọi là Ưu-bát-la-hoa Trưởng
giả (Kinh Hoa Nghiêm. Bản dịch Hòa thượng Thích Trí Tịnh).
Nhận xét
Đăng nhận xét