SỐ 1
LƯỢC GIẢI NHỮNG PHÁP SỐ CĂN BẢN
Cư Sĩ Hạnh Cơ biên soạn
Cư Sĩ Hạnh Cơ biên soạn
MỘT A TĂNG KÌ
(nhất a tăng kì)
Theo toán số Ấn-độ xưa, “a tăng kì” có nghĩa là vô lượng số, là
con số vô cùng lớn, không thể nào tính đếm được. Nếu cho nó có một con số, thì
con số đó là: 1 a tăng kì = 1.000 vạn vạn
vạn vạn vạn vạn vạn vạn triệu (mà “1
triệu” ở đây bằng 1.000.000.000.000).
MỘT CHỮ KHÔNG
NÓI (nhất tự bất thuyết)
Câu trên có ý nói, đạo lí mà
chư Phật tự chứng, không thể dùng ngôn ngữ văn tự để diễn đạt, chỉ có Phật với
Phật mới hiểu rõ trọn vẹn, triệt để. Cũng giống như dùng ngón tay để chỉ mặt trăng,
ngón tay ấy chẳng phải là mặt trăng; tất cả ngôn ngữ văn tự cũng không sánh được
với nội dung chứng ngộ của chư Phật. Đó là lí do mà Thiền tông chủ trương “không lập văn tự” (bất lập văn tự).
MỘT CON ĐƯỜNG
- MỘT CỖ XE (nhất thừa - Phật thừa - nhất
Phật thừa)
“Con đường”
(hay “cỗ xe”) là chỉ cho giáo pháp
(vì giáo pháp có năng lực đưa con người từ cõi vô minh đến nơi giác ngộ, cho
nên lấy hình ảnh chiếc xe hay con đường làm ví dụ); “một” là chỉ có một chứ không có hai, ba, bốn, v.v... – tức là duy nhất. Vậy,
“một cỗ xe” là giáo pháp duy nhất đưa
đến sự chứng ngộ tuệ giác viên mãn của chư Phật.
Kinh Pháp Hoa (phẩm “Phương Tiện”)
nói: “Chư
Phật chỉ dùng một con đường (nhất thừa)
để hóa độ chúng sinh, chứ không có con đường (thừa) nào khác, dù là hai hay ba...”; hoặc: “Thật ra chỉ có một con đường duy nhất (nhất Phật thừa), nhưng chư Phật tùy
căn cơ mà dùng phương tiện, dạy có ba con đường (tam thừa).”
Các kinh luận thường dùng
thuật ngữ này – nhất thừa – để chỉ
cho giáo pháp đại thừa. (Xin xem
thêm các mục “Hai Con Đường” và “Ba Con Đường” ở sau.)
MỘT DO TUẦN (nhất do tuần)
“Do tuần” là
tiếng dịch âm từ Phạn ngữ “yojana”, dịch
ý là hạn lượng, hòa hợp, một lộ trình; là đơn vị đo chiều dài lộ trình của người
Ấn-độ. Lại nữa, do từ ngữ căn “yuj”,
chữ yojana (do tuần) cũng có nghĩa là “mang ách”, tức chỉ cho chiều dài của
đoạn đường mà con bò mang cái ách đi trong một ngày. Sách Đại Đường Tây Vực Kí (do Phật
Quang Đại Từ Điển trích dẫn) thì nói rằng, “do tuần” là chỉ cho lộ trình một ngày hành quân của vua chúa. Về
cách tính toán, có nhiều thuyết không giống nhau, theo đó, một do tuần có thể là 12
dặm, 16 dặm, 17 dặm, 30 dặm, 32 dặm, 42 dặm, 46 dặm; hoặc 7.3 km, 8.5 km, 14.6
km, 17 km, 19.5 km, 22.8 km, v.v...; nhưng con số thường dùng là: một do tuần =
13.5 km.
MỘT ĐẠI KIẾP
(nhất đại kiếp)
Một đại kiếp
là một thời kì của thế giới từ khi bắt đầu hình thành đến lúc hoại diệt, gồm bốn
giai đoạn Thành, Trụ, Hoại, Không, tổng cộng là 80 trung kiếp. (Xin xem mục “Một Trung Kiếp” ở sau.)
MỘT ĐẠI SỰ
NHÂN DUYÊN (nhất đại sự nhân duyên)
Chữ “đại” ở
đây chỉ cho thật tướng của vũ trụ nhân sinh; chữ “sự” chỉ cho công cuộc giáo hóa độ sinh của đức Phật; chúng sinh vốn
có thật tướng đó mới có cơ cảm với đức Phật, gọi là “nhân”; đức Phật đã chứng nhập cái thật tướng đó cho nên có thể ứng
theo cơ cảm của chúng sinh mà cứu độ, gọi là “duyên”. Chư Phật xuất hiện ở
thế gian chỉ có một mục đích là chỉ bày cái thật tướng mà chúng sinh vốn có, và
giáo hóa cho chúng sinh cũng chứng đắc cái thật tướng đó như đức Phật (kinh Pháp Hoa gọi là “ngộ nhập Phật tri kiến”). Bởi vậy
kinh nói: “Như Lai chỉ vì một đại sự nhân
duyên mà xuất hiện ở thế gian” (Như Lai duy dĩ nhất đại sự nhân
duyên cố xuất hiện ư thế. - Kinh Pháp Hoa)
MỘT ĐỜI THÀNH
PHẬT (nhất sinh bổ xứ)
Từ “nhất sinh bổ xứ” được dịch từ tiếng Phạn “eka-jati-pratibaddha”,
nguyên có nghĩa là kiếp luân hồi cuối
cùng, tức là hết đời này rồi, đời sau nhất định sẽ thành Phật tại thế gian.
Trong ý nghĩa đó, từ này được dùng để chỉ cho bậc Đẳng-giác Bồ-tát, là địa vị
cao nhất của hàng Bồ-tát. Trong kinh điển có nói, đức Bồ Tát Di Lặc là vị “Bồ-tát
nhất sinh bổ xứ”, hiện cư trú tại cõi trời Đâu-suất, đến lúc thọ mạng ở đó hết,
Ngài sẽ hạ sinh ở nhân gian, và thành Phật để kế tục đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
MỘT HẠT BỤI
NHỎ (nhất vi trần)
Kinh
luận thường dùng từ “một hạt bụi nhỏ” (nhất vi
trần), hoặc nói ngắn ngọn là “một hạt
bụi” (nhất trần), để chỉ cho đơn
vị vật chất nhỏ nhất.
MỘT LÀ TẤT CẢ,
TẤT CẢ LÀ MỘT (nhất tức nhất thiết, nhất
thiết tức nhất)
Có thể nói, đây là mệnh đề tóm
tắt toàn bộ yếu nghĩa kinh Hoa Nghiêm.
Yếu nghĩa ấy nói về sự tương quan tương duyên chằng chịt của tất cả mọi sự vật
trong vũ trụ: Sự vật này tức là sự vật
kia, sự vật kia tức là sự vật này; một sự vật có mặt trong tất cả mọi sự vật, tất
cả mọi sự vật có mặt trong một sự vật; một sự vật tức là tất cả các sự vật, tất
cả các sự vật tức là một sự vật.
Nguyên lí duyên khởi cho ta thấy rằng, một sự vật
không thể tự nó có mặt, mà đã do vô số các sự vật khác, không phải là nó, hợp lại
cấu thành. Một cuốn sách chẳng hạn, không phải tự nó hiện ra, nhưng đã do tất cả
những cái “không phải là sách” (như
giấy, mực, máy in, nhân công, những vật liệu làm ra giấy, làm ra mực, làm ra
máy in, rồi những thứ đã nuôi sống thợ làm giấy, thợ làm mực, thợ in v.v...,
nhiều lắm, cùng khắp vũ trụ, không kể hết được!) hợp lại làm thành. Bởi vậy, giữa
cuốn sách và chiếc máy in không có gì ngăn cách; trong cuốn sách có mặt tất cả
các thứ giấy, mực, máy in v.v..., và đồng thời cuốn sách cũng có mặt trong tất
cả các thứ kia. Hành giả khi đã đạt được cái thấy này thì tâm ý tức khắc được
giải thoát khỏi những ràng buộc, những hạn chế của ngã chấp và pháp chấp, chấm
dứt khổ đau.
Kinh Hoa Nghiêm
(phẩm “Công Đức của Người Mới Phát Tâm Bồ
Đề”) nói: “Cái thấy của vị Bồ-tát
phát tâm bồ đề rộng lớn thật không có giới hạn: không có gì khác nhau giữa thế
giới thô lậu và thế giới vi diệu, vì thô lậu tức là vi diệu; không có gì khác
nhau giữa thế giới nhỏ và thế giới lớn, vì nhỏ tức là lớn; không có gì khác
nhau giữa một thế giới và vô lượng thế giới, vì một tức là vô lượng; không có
gì khác nhau giữa thế giới dơ và thế giới sạch, vì dơ tức là sạch; một thế giới
nằm trong vô lượng thế giới, vô lượng thế giới nằm trong một thế giới; ...”
MỘT LÒNG (nhất tâm)
Chuyên chú vào một đối tượng,
không khởi vọng niệm, gọi là “một lòng”
(nhất tâm). Do đó, chuyên tâm nghĩ
nhớ đến Phật, gọi là “một lòng chuyên niệm”
(nhất tâm chuyên niệm). Tông Tịnh
Độ đặc biệt chú trọng việc chấp trì danh hiệu của đức Phật A Di Đà, và theo Kinh A Di Đà, người nào chuyên tâm trì
niệm danh hiệu “A Di Đà Phật” cho đến
chỗ “một lòng không tán loạn” (nhất tâm bất loạn) thì liền được vãng
sinh về thế giới Cực-lạc. Để hiểu cho tỏ tường, đầy đủ từ “một lòng” này, kinh Vô Lượng
Thọ nói: “Nhất tâm bao gồm đầy đủ cả
ba tâm, là tâm chí thành, tâm tin sâu và tâm phát nguyện hồi hướng vãng sinh về
nước Cực-lạc.” (Xin xem mục “Một Lòng Không Tán Loạn” ở sau.)
MỘT LÒNG KHÔNG
TÁN LOẠN (nhất tâm bất loạn)
Đây là trạng thái tâm lí khi
tâm chuyên chú vào một đối tượng, không giao động, không tán loạn. Từ này được đặc
biệt dùng trong pháp môn tu Tịnh Độ. Khi hành giả đem lòng tin sâu sắc, chí thành
trì niệm danh hiệu A Di Đà Phật, khiến
cho tâm không bị tán loạn; lúc đó ngã thể riêng biệt không còn nữa, mà đã hòa hợp
làm một với câu danh hiệu Phật, gọi là “nhất tâm bất loạn”. (Xin xem mục “một lòng” ở trên.)
MỘT NA DO
THA (nhất na do tha)
Trong kinh điển Phật giáo thường
dùng chữ “na do tha” làm đơn vị số lượng.
Thông thường, một na do tha là 1.000 ức.
Nếu tính theo số nhỏ thì 1 ức là 100.000; nếu tính theo số lớn thì 1 ức là
100.000.000. Vậy, 1.000 ức = 100.000.000, hoặc 100.000.000.000. Có nhiều thuyết
nói khác nhau về con số này, không có một con số chính xác thống nhất, cho nên,
theo ý kinh, thường chỉ nên hiểu “một na do tha” nghĩa là rất nhiều mà thôi.
MỘT NIỆM (nhất niệm)
Từ “một niệm” được dùng để chỉ cho đơn vị thời gian rất ngắn. Kinh Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã nói: 90 sát-na là một niệm, trong một sát-na
có 900 lần sinh diệt. “Một niệm” cũng
có nghĩa là cái khoảng thời gian khởi lên một ý niệm.
MỘT NIỆM BA
NGÀN (nhất niệm tam thiên)
Trong
Phật học, thuật ngữ “một niệm” (nhất niệm) thường được dùng để chỉ một
ý tưởng, một sát na, một khoảnh khắc, tức
là cái khoảng thời gian ngắn nhất. “Ba
ngàn” ở đây tức là ba ngàn thế giới.
“Một niệm ba ngàn” – nếu nói cho đầy đủ là “trong một
niệm có đủ cả ba ngàn thế giới” – là một mệnh đề khai triển từ mệnh đề “Một là tất cả, tất cả là một”
ở trên. Đó là một trong những điểm đặc sắc của giáo lí tông Thiên Thai
(Trung-hoa). Vị tổ của tông này, đại sư Trí Giả (tức Trí-Khải), trong bộ luận Ma Ha Chỉ Quán, đã chia ra có 10 loại thế
giới trong vũ trụ:
1. Địa-ngục: thế giới của
đau khổ vô cùng.
2. Ngạ-quỉ: thế giới của
đói khát và bẩn thỉu cùng cực.
3. Súc-sinh: thế giới của
loài vật, của ngu si tăm tối.
4. A-tu-la: thế giới của hận
thù, cuồng bạo, chém giết.
5. Người: thế giới của loài
người, hạnh phúc và đau khổ đều có mặt.
6. Trời: thế giới của an
vui, phước đức cao hơn loài người.
7. Thanh-văn: thế giới giải thoát do kết
quả của công phu tu học theo đức Phật mà được giác ngộ.
8. Duyên-giác: thế giới giải thoát do kết
quả của công phu tự mình quán chiếu thực tại mà được giác ngộ, đó là một đức Phật
nhưng không giảng dạy cho kẻ khác.
9. Bồ-tát: thế giới của những vị luôn luôn
đem tình thương yêu, trí hiểu biết, lòng cởi mở và chí dũng mãnh để phục vụ và giúp
ích cho mọi loài, và tinh tiến tu tập mãi cho đến ngày thành Phật. Nói cách khác, đó là những vị Phật tương lai.
10. Phật: thế giới của các bậc giác ngộ và
giải thoát hoàn toàn.
Giáo lí tông Thiên Thai nói rằng, mười thế giới ấy
tương dung tương nhiếp lẫn nhau, mỗi thế giới đều mang trong nó cả 9 thế giới
kia. Trong thế giới Người chẳng hạn, cũng có sự hiện hữu của các thế giới Địa-ngục,
Ngạ-quỉ, Súc-sinh, A-tu-la, Trời, Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-tát và Phật. Như vậy,
trong vũ trụ không phải chỉ có 10 thế giới riêng lẻ, biệt lập nhau, mà có đến (10 x 10) 100 thế giới tương quan tương
duyên với nhau. Sự hiện hữu của một thế giới bao hàm sự hiện hữu của cả một trăm
thế giới.
Lại nữa, tất cả 100 thế giới
này đều có cùng chung 10 tính chất. Đó là 10 điều kiện tồn tại của các thế giới
mà giáo lí tông Thiên Thai gọi là 10 “như”(1), gồm có: 1) tướng
(hình dáng bên ngoài); 2) tánh (cá
tính bên trong); 3) thể (yếu tố hình
thành); 4) lực (năng lực nội tại);
5) tác (tác dụng do năng lực mà có);
6) nhân (nguyên nhân để đưa đến kết
quả); 7) duyên (điều kiện giúp cho
nhân kết thành quả); 8) quả (kết quả
có từ nguyên nhân); 9) báo (quả báo
nối tiếp do nhân, duyên và quả ở trên đem lại); 10) bổn mạt cứu cánh (từ điều kiện 1 cho đến điều kiện 9, hoàn toàn đều
là “như” – tức là tất cả đều là không, vì chính không là bản thể của vạn hữu). Mỗi thế giới đều có 10 “như”; vậy 100 thế giới có (100
x 10) 1.000 “như” – cũng tức là
1.000 thế giới tương quan tương duyên với nhau.
Lại nữa, ở mỗi thế giới ấy đều
có đầy đủ 3 hiện tượng của thế gian là quốc
độ, chúng sinh và ngũ ấm. Vậy,
trong vũ trụ không những chỉ có 10, 100, hay 1.000 thế giới, mà có đến (1.000 x 3) 3.000 thế giới tương quan
tương duyên với nhau.
Cả 3.000 thế giới ấy không ra ngoài một niệm, cho nên
gọi là “một niệm ba ngàn”; cũng như
kinh Hoa Nghiêm nói, một niệm không
những bao quát cả quá khứ, hiện tại, vị lai, mà còn bao gồm cả không gian và vật
thể. Hay nói cách khác, bất cứ một niệm nào của tâm cũng bao hàm cả vũ trụ vạn
hữu.
(1) Chữ “như”
có nghĩa là thể tính bình đẳng, không phân biệt, không có hai, là thật tướng của
vạn pháp. Kinh Pháp Hoa nói: “Những gì Phật đã thành tựu đều là
pháp tối thượng, hiếm có, khó hiểu. Chỉ có chư Phật mới thấu suốt được thật tướng
của tất cả các pháp, tức là tất cả các pháp đều có tướng như vậy, tánh như vậy,
thể như vậy, nhân như vậy, lực như vậy, tác như vậy, duyên như vậy, quả như vậy,
báo như vậy, bổn mạt cứu cánh như vậy.”
MỘT NIỆM KHÔNG
SINH (nhất niệm bất sinh)
Đó là cảnh giới hoàn toàn không
có một ý niệm gì phát khởi, là cảnh giới vượt khỏi mọi khái niệm, tức cảnh
giới Phật.
MỘT PHÁP GIỚI
(nhất pháp giới)
Một pháp giới (nhất pháp giới) là chỉ cho lí thể chân như chỉ có một, không có hai,
tuyệt đối bình đẳng. Tông Thiên Thai gọi đó là “thật tướng các pháp”, và tông Hoa Nghiêm thì gọi là “pháp giới nhất chân”. Chữ “giới” ở đây có nghĩa là chỗ y cứ, chỉ
cho chân như. Pháp y cứ nơi chân như mà sinh khởi, cho nên gọi là “pháp
giới”. Pháp đó tuyệt đối bình đẳng, chân thật, chỉ có một, không hai, cho
nên gọi là “một pháp giới” (nhất pháp giới).
MỘT PHÁP
TRUNG ĐẠO (nhất pháp trung đạo)
Chữ “pháp”
ở đây là chỉ cho sự tồn tại, là vạn sự vạn vật. Chữ “trung đạo” ở đây có nghĩa là không phải có cũng không phải không,
tức vượt trên ý niệm có không. “Một pháp
trung đạo” tức là luận về diệu lí trung
đạo (không phải có cũng không phải không) trên ngay một pháp, do tông Pháp
Tướng khởi xướng. Tông này cho tánh biến kế sở chấp là vọng tình, cho nên nói là
“không”;
và cho tánh y tha khởi cùng tánh viên thành thật(1) là giả có và thật có, cho nên
nói là có (hữu). Ngay trong một pháp đã có đầy đủ 3 tánh đó, bởi vậy,
một pháp vừa là không phải có, vừa là không phải không; đó tức là nghĩa lí trung đạo. Bất cứ một sắc, một thanh, một
hương v.v... nào cũng nằm trong nghĩa lí đó, cho nên gọi là “một
pháp trung đạo”.
(1) Về 3 tánh
biến kế sở chấp, y tha khởi và viên thành thật, của vạn pháp, xin xem mục “Ba Tự
Tánh” ở sau.
MỘT PHẨM (nhất phẩm)
Một phẩm tức
là một chương kinh văn. “Phẩm” là một
thuật ngữ Phật học, dùng để phân chia thiên, chương trong kinh điển. Chữ “phẩm” cũng có nghĩa là một bậc, địa vị,
như nói “9 phẩm hoa sen” chẳng hạn.
MỘT SÁT NA (nhất sát na)
Một sát-na là một khoảng thời
gian rất ngắn, tương đương với ngày nay
là 1/6.480.000 của 24 giờ, hay 1/75 sao.
MỘT TÂM BA
PHÉP QUÁN (nhất tâm tam quán)
Đây cũng là một yếu nghĩa của giáo lí tông Thiên Thai. Đại sư Trí
Giả đã phối hợp giáo lí “ba phép quán” (tam quán) trong kinh Anh Lạc với tư tưởng “không có ngăn cách giữa không và có” (không hữu vô ngại) của Bồ Tát Long Thọ
mà lập nên giáo nghĩa “một tâm ba phép
quán”, là một trong những giáo lí nền tảng của tông Thiên Thai. Ba phép
quán là:
1. Không: quán niệm rằng tất cả mọi hiện tượng đều nương nhau mà
có, cho nên chúng không có bản chất chân thật, tất cả đều là không.
2. Giả: quán niệm rằng tất cả mọi sự vật đều biến đổi luôn
luôn (vô thường), không có tính đồng nhất; tuy chúng có hiện hữu, nhưng sự hiện
hữu của chúng chỉ là giả tạm, không có gì tồn tại vĩnh viễn.
3. Trung
đạo: quán niệm rằng tất cả mọi hiện
tượng vừa là không mà cũng vừa là giả, đồng thời, không phải là không mà cũng
không phải là giả.
Ba phép quán này, nếu quán niệm một cách có thứ tự –
trước hết là quán niệm về không, thứ đến là về giả, sau cùng là về trung – thì
gọi là “thứ đệ tam quán”; nhưng đó
không phải là chủ trương của tông Thiên Thai. Đại sư Trí Giả của tông Thiên Thai đã phát
triển ba phép quán trên đây đến chỗ viên dung, không ngăn cách, không thứ tự
trước sau, vượt tất cả khái niệm: trong một phép quán gồm đủ cả ba phép quán,
cho nên gọi là “nhất tâm tam quán” –
hay cũng gọi là “viên dung tam quán”, “bất
thứ đệ tam quán”, “bất khả tư nghị tam quán”.
Ba phép quán trên đây là ba chân lí của tông Thiên
Thai: chân lí của Không, chân lí của Giả, và chân lí của Trung đạo. Ba chân lí này
không cách biệt nhau mà dung nhiếp nhau, ba trong một, một trong ba. Mỗi một
trong ba đều có giá trị toàn diện. Vậy, “một
tâm ba phép quán” là phép quán niệm như sau:
- Khi quán niệm về không, một
cái đã là không thì tất cả cũng đều là không; cả giả và trung cũng đều không (nhất không nhất thiết không).
- Khi quán niệm về giả, một cái đã là giả thì tất cả
cũng đều là giả; cả không và trung cũng đều giả (nhất giả nhất thiết giả).
- Khi quán niệm về trung, một
cái đã là trung thì tất cả cũng đều là trung; cả không và giả cũng đều trung (nhất trung nhất thiết trung).
Cũng cần nói thêm, “trung”
không có nghĩa là ở giữa hai, mà là ở trên, vượt cả hai; cũng có thể nói nó là
cả hai. “Trung” chính là thực tướng, gồm có không tướng và giả tướng. Cả ba
chân lí: không, giả và trung luôn
luôn hợp nhất, dung hòa và bao hàm lẫn nhau.
MỘT THẾ GIỚI
(nhất thế giới)
Chữ “thế” nghĩa là trôi chảy, ở đây là chỉ cho thời gian. Chữ “giới” nghĩa
là khu vực, phạm vi, ở đây là chỉ cho không
gian. Từ “thế giới” nguyên được dùng
để chỉ cho nơi cư trú của chúng sinh, là cái thế giới hữu vi trong ba cõi; nhưng
trong kinh điển đại thừa cũng dùng từ này để chỉ cho thế giới vô vi, tuyệt đối
ngoài ba cõi, như kinh Hoa Nghiêm có
nói tới “thế giới Liên-hoa-tạng”,
kinh A Di Đà có nói tới “thế giới Cực-lạc” v.v..., đều là cảnh
giới chân thường của chư Phật. Ở đây chỉ xin nói về “thế giới hữu vi” mà thôi.
Người Ấn độ thời cổ đại đã y
cứ vào thuyết “núi Tu-di” mà thành lập
vũ trụ luận, tức là lấy núi Tu-di làm trung tâm, bao quanh có 9 núi, 8 biển, 4
châu thiên hạ, mặt trời và mặt trăng, hợp lại làm thành một đơn vị, gọi là “một
thế giới”. Hợp 1.000 thế giới làm thành “một tiểu thiên thế giới”. Hợp 1.000 tiểu thiên thế giới làm thành “một trung thiên thế giới”. Hợp 1.000
trung thiên thế giới làm thành “một đại
thiên thế giới”. Vậy, một đại thiên thế giới gồm có (1.000 x 1.000 x 1.000
=) 1.000.000.000 thế giới; và trong vũ trụ gồm có vô số cái “một đại thiên thế
giới” như thế.
MỘT TIỂU KIẾP
(nhất tiểu kiếp)
Một tiểu kiếp
là chỉ cho một đơn vị thời gian. Theo Luận Đại Tì Bà Sa, khi mạng sống của con
người ở mức 10 tuổi, kể từ đó, mỗi 100 năm tăng lên 1 tuổi, tăng cho tới 84.000
tuổi là mức cùng cực; lại bắt đầu từ đó, mỗi 100 năm giảm xuống 1 tuổi, giảm
cho tới 10 tuổi là mức cùng cực. Cứ một lần tăng và một lần giảm của tuổi thọ
con người như thế, cộng lại được 16.800.000
năm, đó là thời gian của một tiểu kiếp.
MỘT TRẦN KHÔNG
NHIỄM (nhất trần bất nhiễm)
Chữ “trần” ở đây cũng được gọi là “cảnh”,
chỉ cho đối tượng của căn (giác quan). Sáu căn (lục căn: nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý) có đối tượng là sáu trần (lục trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp)(1). Thông thường
người phàm phu, hễ căn tiếp xúc với trần (mắt thấy sắc chẳng hạn) thì sinh niệm
tham ái, bám víu, mà gây nên nhiều hành động xấu ác, Phật giáo gọi đó là “bị cấu nhiễm” (nhiễm). Nếu người có căn trí, biết tu tập, thì mắt thấy sắc mà tâm
không sinh niệm tham ái, không bám víu, cho nên không gây tội lỗi, Phật giáo nói,
người này tuy căn vẫn tiếp xúc với trần mà tâm thức vẫn thanh tịnh, không bị cấu nhiễm (bất nhiễm). Đó là ý nghĩa của câu nói “một trần không nhiễm” (nhất
trần bất nhiễm).
(1) Sáu căn,
sáu trần, xin xem mục “Sáu Giác Quan,...” ở sau.
MỘT TRUNG KIẾP
(nhất trung kiếp)
Cứ 20 tiểu kiếp thì gọi là một trung kiếp. (Xin
xem mục “Một Tiểu Kiếp” ở trên.)
Nhận xét
Đăng nhận xét