SỐ 8
LƯỢC GIẢI NHỮNG PHÁP SỐ CĂN BẢN
Cư Sĩ Hạnh Cơ biên soạn
Cư Sĩ Hạnh Cơ biên soạn
TÁM BƯỚC GIẢI
THOÁT (bát giải thoát)
Giải thoát là cởi bỏ được mọi sự trói buộc. Khi hành giả diệt trừ
được mọi phiền não, không còn bị ràng buộc bởi những kiến chấp, chướng ngại, mê
muội, thì được giải thoát. Thành quả giải thoát này gồm có tám bước, do công
phu tu tập tám phép thiền định mà đạt được. Khi đã đạt được cả tám bước giải thoát
ấy rồi thì hành giả liền vượt thoát ra ngoài ba cõi, chấm dứt sinh tử luân hồi.
1. Bước giải
thoát đầu tiên: Trong tự thân đã
sẵn có tâm tham ái về chính sắc thân của mình, vì muốn diệt trừ tâm tham ái ấy,
hành giả quán chiếu để thấy rõ tính chất bất tịnh, vô thường của thân thể mọi
người. Do sự quán chiếu này mà tâm tham
ái tự thân không còn nữa. Đó là bước giải thoát đầu tiên của hành giả. (Nội
hữu sắc tưởng, quán ngoại sắc giải thoát.)
2. Bước giải
thoát thứ hai: Tuy tâm tham ái tự
thân đã dứt, nhưng tâm tham ái đối với cõi Dục vẫn còn nhiều, cho nên hành giả
cần tiếp tục quán chiếu để thấy rõ hơn nữa tính chất vô thường, bất tịnh của vật
chất (sắc thân mọi người) ở cõi Dục; từ
đó diệt trừ được tâm tham ái đối với cõi Dục. Đó là bước giải thoát thứ hai
của hành giả. (Nội vô sắc tưởng, quán ngoại sắc giải thoát.)
3. Bước giải
thoát thứ ba: Khi tâm tham ái đối
với tự thân và vật chất cõi Dục đã không còn khởi động nữa thì cái đẹp hiển hiện.
Tâm ý của hành giả bấy giờ trở nên trong sạch, sáng suốt, và tiếp tục quán chiếu
để thấy rõ sự nhiệm mầu của thực tại vạn hữu; từ đó niềm an lạc phát sinh và
tăng trưởng trong khắp tự thân. Hành giả hoàn
toàn an trú trong cảnh giới an lạc ấy, và đạt được bước giải thoát thứ ba. (Tịnh
giải thoát, thân tác chứng, cụ túc trú.)
4. Bước giải
thoát thứ tư: Với tâm ý trong
sáng, không tham đắm, không vướng mắc, hành giả vượt ra khỏi phạm vi hạn hẹp của
tự thân để quán chiếu tính chất vô biên của không gian và đồng nhất mình với không gian vô biên đó; đồng thời hành giả cũng thấy rõ tính cách đồng nhất giữa không gian
vô biên và các vật thể. (Không vô biên xứ giải thoát.)
5. Bước giải
thoát thứ năm: Tiến thêm một bước,
hành giả quán chiếu để thấy rõ rằng, cả không gian và thời gian đều dung nhiếp
lẫn nhau, nương vào nhau mà tồn tại; cả hai đều không đứng độc lập với nhận thức,
mà chính là những biểu tượng của nhận thức. Hành giả an trú trong chánh niệm “tâm thức bao hàm cả không thời gian”, tức
là an trú trong bước giải thoát thứ năm. (Thức vô biên xứ giải thoát.)
6. Bước giải
thoát thứ sáu: Hằng ngày chúng ta
nhìn thực tại bằng các khuôn khổ của tư tưởng – tức là những ý niệm đối đãi về trong - ngoài, có - không, sinh - diệt, cao
- thấp, trên - dưới, lớn - nhỏ, v.v... Nhưng tự thân thực tại thì không bao
giờ mang lấy những khuôn khổ như vậy. Cho nên, khi tu tập phép thiền định thứ
sáu này, hành giả phải quán chiếu để thấy rõ tính chất vô tướng của thực tại vạn hữu. Với phép thiền quán này, hành giả vượt
thoát được thế giới khái niệm, vất bỏ được các khuôn khổ của tư tưởng, và thực tại hiển lộ trong thật tướng như như
bình đẳng của nó. Đó là bước giải thoát thứ sáu mà hành giả đạt được. (Vô sở
hữu xứ giải thoát.)
7. Bước giải
thoát thứ bảy: Khi hành giả bước
sang giai đoạn vất bỏ được sự phân biệt về chủ thể nhận thức và đối tượng nhận
thức – tức là không còn thấy có một bên
là chủ thể quán chiếu và một bên là đối tượng quán chiếu, thì đó là lúc
hành giả đang ở trong trạng thái thiền định gọi là “không phải tư tưởng cũng không phải là không phải tư tưởng”; tức
là bước giải thoát thứ bảy. (Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát.)
8. Bước giải
thoát thứ tám: Đây là bước giải
thoát sau cùng, là đỉnh cao nhất của tuệ giác mà hành giả đạt được. Lúc này
hành giả thật sự thấu suốt chân tướng của thực tại, giải thoát hoàn toàn khỏi mọi khái niệm (cảm thọ và tư tưởng), phá
tan được lưới sinh tử, không rơi lọt lại vào vòng luân hồi. (Diệt
tận giải thoát, hay Diệt thọ tưởng giải thoát.)
(nước) TÁM CÔNG
ĐỨC (bát công đức thủy)
Đây là chỉ cho loại nước có đầy đủ 8 thứ công đức thù thắng, là loại nước chứa
trong các ao báu ở thế giới Cực-lạc của đức Phật A Di Đà. 8 thứ công đức thù thắng
ấy là: trong trẻo sạch sẽ (trừng tịnh), thanh tịnh mát mẻ (thanh
lĩnh), ngon ngọt (cam mĩ), nhẹ nhàng mềm mại (khinh
nhuyễn), trơn mượt (nhuận trạch), an lành điều hòa (an hòa),
trừ đói khát (trừ cơ khát), nuôi lớn các
căn (trưởng dưỡng chư căn).
TÁM ĐIỀU
GIÁC NGỘ của BẬC ĐẠI NHÂN (bát đại nhân
giác)
Do dùng trí tuệ quán chiếu
mà thấy rõ được thật tướng của vạn hữu thì gọi là “giác ngộ”. Từ “đại nhân”
ở đây được dùng để chỉ cho các bậc đã giác ngộ. Các bậc đại nhân sở dĩ đã giác
ngộ là vì quí ngài đã dùng trí tuệ quán chiếu và đã thấy rõ chân tướng của thực
tại vạn hữu qua tám đề tài thiền quán sau đây:
1. Cuộc đời,
nói chung là những yếu tố cấu tạo nên con người và vạn vật như bốn đại và năm uẩn đều là trống rỗng (không); là sinh diệt và thay đổi
không ngừng (vô thường); là đầy dẫy khổ đau (khổ); là hư ngụy và
không có thực thể (vô ngã); còn nói riêng về “ta”
thì tâm ta là nguồn cội phát sinh bao điều xấu, và thân ta thì chỉ là nơi tích
tụ của vô vàn tội lỗi.
2. Càng lắm
tham muốn (đa dục) thì càng nhiều khổ đau (đa khổ). Càng ít tham muốn (thiểu dục) thì thân tâm
càng được thư thái (tự tại).
3. Càng chạy
theo danh lợi thì càng gây nhiều phiền não tội lỗi. Nếu biết sống vừa ý với điều
kiện vật chất khiêm nhượng (tri túc) thì tâm ý lúc nào cũng được
an vui, để chỉ đeo đuổi một sự nghiệp duy nhất của mình là thành tựu trí tuệ
giác ngộ.
4. Tính lười
biếng luôn luôn đưa ta đến con đường đọa lạc. Vì vậy, ta phải luôn luôn siêng
năng tu tập để diệt trừ phiền não và vượt khỏi vòng trói buộc của sinh
tử luân hồi.
5. Chính vì
vô minh mà ta cũng như mọi người cứ bị giam hãm trong ngục tù sinh tử. Vì vậy,
ta luôn luôn phải cố gắng học rộng, biết nhiều, phát triển trí tuệ, đạt được biện
tài để giáo hóa cho mọi người, tất cả đều được niềm vui lớn.
6. Sự nghèo
khổ dễ khiến cho người ta gây nên nhiều tội lỗi xấu xa; cho nên người tu hạnh Bồ-tát
phải thường xuyên thực hành hạnh bố thí, không phân biệt kẻ ghét người
thương, bỏ qua những điều ác người ta đã làm đối với mình, và biết xót thương
những người đã làm ác.
7. Năm thứ dục
vọng (ngũ
dục) đầy sức quyến rũ, làm cho con người gây nên tội lỗi và chịu nhiều
hoạn nạn; cho nên người tu học sống trong thế tục mà không nhiễm những thói hư
tật xấu của thế tục, lúc nào cũng sống đời đạm bạc, giữ phạm hạnh thanh cao, đem
lòng từ bi để đối xử với tất cả mọi người.
8. Mọi loài
chúng sinh đang chịu bao thống khổ trong biển lửa sinh tử, cho nên hạnh nguyện
của người tu học là phát tâm đại thừa, nguyện cứu tế cho mọi người, mọi loài, khiến
cho tất cả đều đạt được niềm vui giải thoát.
Tám đề tài thiền quán trên
đây được rút ra từ kinh Bát Đại Nhân Giác.
TÁM ĐIỀU KHÔNG
THỂ NGHĨ BÀN (bát bất tư nghị)
Trong suốt thời gian hơn 20
năm làm thị giả thường xuyên cho Phật, tôn giả A Nan luôn luôn thực hiện 8 điều
không thể nghĩ bàn:
1. Không nhận lời
mời riêng (bất thọ biệt thỉnh). Nhất cử nhất động, tôn giả đều theo cùng tăng chúng, không bao giờ nhận
lời mời của một vị thí chủ nào để đi thọ trai riêng một mình.
2. Không nhận y
cũ (bất thọ cố y). Dù đức Thế Tôn
có cho y phục cũ của Ngài, tôn giả không bao giờ dám thọ nhận.
3. Yết kiến
luôn luôn đúng giờ (kiến bất phi thời). Với bổn phận làm thị giả cho Phật, bất cứ ai xin yết kiến riêng đức
Phật, đều do tôn giả sắp xếp giờ giấc. Khi giờ giấc đã sắp xếp xong, tôn giả đều
nhớ hết, và thực hiện đúng thời, không bao giờ làm cho ai phải phiền hà.
4. Thấy người nữ
không sinh tâm ái dục (kiến nữ nhân bất sinh dục tâm). Dù chưa chứng quả A-la-hán, tôn giả cũng đã vĩnh viễn
xa lìa tham ái, không còn các niệm tưởng dục vọng; trông thấy phái nữ, dù là
thiên nữ, đều không sinh tâm nhiễm trước.
5. Pháp đã nghe
không hỏi lại (pháp bất tái vấn). Tất cả kinh điển, khi nghe Phật thuyết xong, tôn giả liền hiểu rõ, nhớ
kĩ, không bao giờ hỏi lại đức Phật lần thứ hai.
6. Biết rõ các
loại định đức Phật đang nhập (tri Phật sở nhập định). Tôn giả thường biết rõ các loại định đức Phật đang
nhập, và soi thấy rõ căn cơ nào, mà đức
Phật sẽ nói pháp yếu nào.
7. Biết rõ
chúng hội đạt được lợi ích (tri chúng hội đắc ích). Tất cả những người đến nghe Phật nói pháp yếu, đều đạt
được lợi ích và chỗ chứng ngộ không đồng nhau, đối với sự việc ấy, tôn giả biết
rõ hết.
8. Tất cả lời dạy
của Phật thảy đều biết rõ hết (tất tri Phật sở thuyết pháp). Tất cả giáo pháp Phật dạy, dù cho tùy theo căn cơ
cao thấp không đồng nhau mà giáo pháp có sâu cạn khác nhau, tôn giả đều biết rõ
thâm nghĩa mật ý của Phật.
Mặt khác, trong kinh Đại Bát Niết Bàn, đức Phật cũng nêu ra 8
tính chất không thể nghĩ bàn của biển cả để ví dụ cho đặc tính của niết
bàn:
1. Dần dần càng
sâu (tạm tạm chuyển thâm). Trong bờ biển cạn, càng ra khơi biển càng sâu. Đức Phật nói pháp niết bàn cũng vậy, tùy
theo căn tánh của chúng sinh mà tuần tự hóa độ theo thứ lớp, từ cạn đến sâu, từ
thấp lên cao, cho đến chỗ cứu cánh cùng cực.
2. Sâu khó tới
đáy (thâm nan đắc để). Biển rất sâu, nếu không có phương tiện tân tiến thì khó có thể xuống tới
đáy được. Đức Phật nói pháp niết bàn cũng vậy, lí trí viên dung, sâu xa vi diệu,
dù hàng Nhị-thừa cho đến Bồ-tát cũng không suy lường được đến chỗ tột cùng.
3. Cùng một vị
mặn (đồng nhất hàm vị). Nước của trăm dòng sông, khi đã chảy vào biển cả thì có cùng một vị mặn.
Phật nói pháp niết bàn, tuy có các thừa Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-tát và Phật
thừa khác nhau, nhưng đều qui về một vị, đó là “vị giải thoát”.
4. Thủy triều
không quá hạn (triều bất quá hạn). Thủy triều sớm chiều lên xuống chừng mực, không vượt
quá giới hạn. Đức Phật nói pháp niết bàn, chế định các giới cấm, khiến các đệ tử
như pháp thọ trì, không được vượt quá.
5. Chứa rất nhiều
kho báu (chủng chủng bảo tạng). Tất cả mọi thứ châu báu đều hàm chứa trong biển cả. Đức
Phật nói pháp niết bàn là kho báu của thế gian, rất tôn rất quí. Phàm chúng
sinh nghèo túng về giáo pháp, đều có thể nương vào đó mà tu tập, khiến cho thoát
được khổ đau bức bách, đạt được lợi ích an lạc xuất thế gian.
6. Có chúng
sinh thân lớn cư trú (đại thân chúng sinh cư trú). Trong biển cả, tất cả các loài cá có thân hình to lớn
như cá voi, cá nhà táng, đều nương nơi đó mà ở. Đức Phật nói pháp niết bàn sâu
xa không lường, tất cả chư Phật và Bồ-tát đều an trú ở trong đó.
7. Không chứa
xác chết (bất túc tử thi). Biển cả không chứa giữ tử thi. Những việc làm phi pháp như ăn cắp vật
dụng của tăng chúng, cất chứa các vật bất tịnh, hủy báng kinh pháp đại thừa
v.v..., và tất cả những loại người tà ác, đều được xem như tử thi. Đức Phật nói
pháp niết bàn, khiến cho chúng sinh thường trú trong giới pháp, sinh tâm chánh
tín thanh tịnh, không khởi kiến chấp đoạn diệt, xa lìa tất cả mọi loại người tà
ác.
8. Muôn sông
mưa lớn không tăng không giảm (vạn lưu đại vũ bất tăng bất giảm). Dù cho hàng vạn dòng sông đổ nước vào, dù cho mưa lớn
trút nước xuống, nước trong biển cả vẫn không hề tăng giảm. Đức Phật nói pháp
niết bàn là đàm luận sâu rộng về Phật tánh, diễn nói đầy đặn về các đức tính viên
thường, bình đẳng, thanh tịnh, bất sinh, bất diệt, chúng sinh cùng chư Phật đồng
một nguồn giác, chưa từng sai khác.
TÁM KHOA
GIÁO (bát giáo)
Tất cả giáo pháp do đức Phật
giảng dạy trong suốt cuộc đời hoằng hóa của Ngài, được đại sư Trí Giả của tông
Thiên thai (Trung-hoa) phân chia thành tám loại khoa giáo, căn cứ trên hai mặt:
A. Về mặt nội dung, có bốn loại:
1. Tạng giáo: những giáo pháp có nội dung nông cạn, dễ hiểu, chủ yếu
là dành cho những người căn cơ thấp kém.
2. Thông giáo: những giáo pháp có nội dung cao hơn, phù hợp cho cả
những người có căn cơ thấp lẫn căn cơ cao, trong đó, những giáo nghĩa về “không” và “vô sinh” được đặc biệt nhấn mạnh.
3. Biệt giáo: những giáo pháp có nội
dung sâu xa, đặc biệt để giáo hóa chúng Bồ-tát đại thừa.
4. Viên giáo: giáo pháp thâm diệu, cao tột mà chỉ có các vị Đại Bồ-tát
với trí tuệ siêu việt mới lĩnh hội và chứng ngộ được.
B. Về mặt hình thức, có bốn loại:
1. Đốn giáo: Đối với thính chúng có căn trí sáng suốt, linh lợi, đức
Phật dùng các pháp môn thật sâu xa, mầu nhiệm để đưa họ đến quả vị giác ngộ một
cách mau chóng. Các loại kinh điển đại thừa có nội dung cao siêu như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Niết Bàn v.v...
thuộc về loại này.
2. Tiệm giáo: Đối với thính chúng có căn tính thấp kém hơn, đức Phật
dùng các pháp môn tiệm tiến, từ dễ đến khó, từ thấp đến cao để hướng dẫn họ từng
bước một, cho đến khi đạt được quả vị giác ngộ. Các kinh A Hàm và một số kinh điển đại thừa khác thuộc về loại này.
3. Bí mật giáo: Đối với hạng người có căn trí tinh thuần đặc biệt, đức
Phật chỉ dùng sức “không thể nghĩ bàn” (bất khả tư nghị) ở thân khẩu ý của mình
mà giáo hóa một cách bí mật, chỉ có Ngài và các đương sự liên hệ mới hiểu được
nhau mà thôi. Các thần chú ở rải rác trong các kinh điển đại thừa là một ví dụ.
4. Bất định
giáo: Cũng có những giáo pháp mà
khi đức Phật nói ra, một số người thì lĩnh hội được và rất lấy làm lợi lạc,
nhưng đồng thời, một số người khác thì lại không thể lĩnh hội được và chẳng thấy
có ích lợi gì cả.
TÁM KHỔ (bát khổ)
Chúng sinh luân hồi trong sáu đường, luôn luôn phải nhận
chịu vô vàn đau khổ. Đau khổ là nội dung của sự thật đầu tiên (khổ đế) trong “bốn
sự thật” (tứ đế), là bài pháp đầu tiên đức Phật nói tại vườn Nai để hóa độ cho
nhóm 5 vị đạo sĩ do sa môn Kiều Trần Như lãnh đạo. Nhìn thật sát cuộc sống của
con người trước mắt, không việc gì là không phải khổ đau. Những nỗi đau khổ mà
nhân loại phải nhận chịu, thật nhiều vô lượng, nhưng có thể thâu tóm trong 8 loại
tổng quát như sau:
1. Sinh khổ: Sinh ra đời là một nỗi khổ lớn; hãy quan sát các sự
trạng sau đây:
a) Khi nghiệp thức gá vào
thai mẹ, thì bào thai chỉ là một nơi chật hẹp, bất tịnh; lại phải sống nhờ vào
hơi thở ra vào của mẹ, không được tự tại.
b) Bào thai trải qua 10 tháng,
nhờ hơi nóng và thức ăn trong bụng mẹ nuôi dưỡng mà thân thể dần dần thành hình,
nhưng phải nằm chen giữa bao nhiêu bộ phận khác ở trong bụng mẹ, bị chèn ép bốn
bề, chật hẹp như bị tù ngục.
c) Thai nhi đến ngày chào đời,
ra khỏi bụng mẹ bằng một con đường nhỏ hẹp, thật là đau đớn; rồi phải chạm xúc
với không khí nóng lạnh khác lạ với lúc ở trong bụng mẹ, da thịt non nớt mà phải
đụng chạm với khăn lau, áo quần, đau như bị dao cứa.
d) Ra đời gặp phải gia đình
hoặc giàu sang; hoặc nghèo hèn; tướng mạo hoặc xinh đẹp, hoặc xấu xí; tâm tính
hoặc thông minh, hoặc ngu đần v.v..., tất cả hầu như đều do từ đâu sắp đặt sẵn,
bản thân không có chút tự do lựa chọn nào, cũng không tự chủ được chút nào; rồi
trong đời sống, từ lúc bé thơ cho đến lúc trưởng thành và già chết là cả một
khoảng dài tranh đấu cho sự sống còn, biết bao nhiêu vất vả, gian nan, nguy hiểm;
những suy nghĩ, hơn thua, giành giựt, phiền muộn, lo âu, sợ sệt; những áp bức,
hành hạ, lăng nhục, tù ngục, v.v... vô số nỗi khổ phải gánh chịu, không thể dùng
ngôn từ mà nói cho hết được.
2. Lão khổ: Tuổi già mọi thứ đều suy yếu, cũng chịu nhiều nỗi khổ,
như: nhan sắc mất hết vẻ xinh đẹp, sức lực yếu đuối, các căn đều không còn khỏe
mạnh, đầu bạc, răng rụng, da nhăn nheo, mắt mờ, tai điếc, thường bị đau nhức, đi
đứng không vững vàng, run rẩy, dễ bị bệnh hoạn, tinh thần suy kém ngờ nghệch, mất
hết sức tinh anh nhạy bén, v.v...
3. Bệnh khổ: Bệnh tật cũng là nỗi khổ lớn, mà mọi người trai gái
già trẻ, ai ai cũng thấy rõ. Bệnh tật không phải chỉ có ở thân, mà còn có cả ở
tâm; thân bệnh, có những trường hợp vô cùng đau đớn, nhưng so ra, tâm bệnh còn
trầm trọng hơn. Cần nhận biết rõ một điều quan trọng, dù là thân bệnh hay tâm bệnh,
cũng đều do tham sân si mà gây ra.
4. Tử khổ: Cái khổ của sự chết cũng là điều hiển nhiên đối với
người đời, ai cũng thấy rõ. Cái chết có thể do bệnh tật gây ra, do mạng số hết
mà đến lúc phải chết, và cũng có thể do các tai nạn từ ngoại cảnh ập vào, như
xe đụng, nước lụt, lửa cháy, động đất, hay mũi tên hòn đạn do ai đó bắn tới,
v.v... rất nhiều ác duyên gây ra chết chóc. Người chết tự mình thân tâm đau đớn,
khổ sở, mà còn làm cho thân nhân bè bạn cũng đau đớn khổ sở vì tiếc thương, vì
cảm thấy bơ vơ mất mát. Nếu không phải là người biết tu hành, là người suốt đời
gây nghiệp bất thiện, thì cái chết lại càng là một nỗi đau khổ lớn lao, vì cái
chết ấy chính là dấu hiệu của sự làm mất thân người để sau đó bị đọa lạc vào các
nẻo đường xấu ác, các cảnh giới khổ đau.
5. Ái biệt li
khổ: Những người yêu thương (ái) nhau (như cha mẹ và con cháu, vợ chồng, thầy trò tâm đắc, bạn bè thân thiết,
v.v...), từng sống chung với nhau, hoặc thường tới lui gần gũi, mà gặp hoàn
cảnh trái ngang phải chia lìa xa cách (biệt
li), đó là một nỗi khổ cũng xảy ra rất thông thường trong đời sống con người.
6. Oán tắng hội
khổ: Những người thù oán (oán) nhau, không ưa (tắng) nhau mà cứ phải gặp (hội) hoặc
ở chung với nhau, cũng là một cái khổ. Kẻ
thân thuộc ở trong gia đình (như con cái
chẳng hạn) mà cứ đua đòi theo chúng bạn xấu ác ở ngoài, rồi bòn rút tài sản,
phá nát nhà cửa, gây bao phiền nhiễu cho gia đình, cũng thuộc về cái khổ này.
7. Cầu bất đắc
khổ: Những điều mình ưa thích, mưu
tìm cho có (cầu) mà không được thỏa
mãn (bất đắc), đó cũng là một nỗi khổ.
Người đời phần nhiều tham lam vô độ (nào
danh vọng, địa vị, quyền lợi; nào ái tình, khoái lạc, tiền tài, v.v...), cái
gì cũng muốn thu về cho mình; nhưng đâu phải cứ muốn gì là được nấy, bởi vậy mà
khổ sở rất nhiều. Ngay cả những ước muốn chính đáng, như muốn được tu hành, làm
các việc thiện chẳng hạn, mà không đủ duyên lành, không có thiện tri thức giúp đỡ,
nên không thực hiện như ý muốn được, đó cũng là một nỗi khổ.
8. Ngũ ấm xí thạnh
khổ: Tác dụng của sắc, thọ, tưởng,
hành, thức (ngũ uẩn, hay ngũ ấm) nổi
lên hừng hực (xí thạnh), che lấp (ấm) chân tính, khiến cho bỏ báo thân này lại phải thọ sinh báo thân
khác. Lại nữa, cũng vì năm ấm tích tụ lại để làm thành cái báo thân này nên mới
phải nhận chịu các nỗi khổ sinh, già, bệnh, chết, v.v... như vừa trình bày trên.
TÁM KHÔNG tức
TRUNG ĐẠO (bát bất trung đạo)
Học phái Trung Quán của Phật
giáo đại thừa ở Ấn-độ thời cổ từng nêu ra luận thuyết về giáo nghĩa “trung đạo”, nhằm đả phá 8 ý niệm cực đoan
của phàm phu và ngoại đạo về vạn pháp, như: sinh - diệt, thường - đoạn, một - khác, đến - đi. Ý nghĩa của luận
thuyết về “trung đạo” nói rằng, vạn
pháp trong vũ trụ đều do nhân duyên tụ tán mà có các hiện tượng sinh diệt phát
sinh; sự thật thì không sinh không diệt. Nếu cho là có sinh có diệt thì đó là chỉ
thấy có một bên (nhất biên), là quan
niệm cực đoan, không đúng với lẽ thật. Phải dứt bỏ cái thấy một bên (cũng tức là
hai bên – nhị biên) này, tức là thấy
vạn pháp không sinh không diệt, mới là cái thấy “trung đạo”, và chính đó
là cái thấy có trí tuệ, đúng với lẽ thật (chân lí). Bồ-tát Long Thọ (cuối thế kỉ
thứ 2 đầu thế kỉ thứ 3 TL), trong tác phẩm nổi danh Trung Luận, có viết bài kệ như sau:
Bất sinh diệc bất diệt (không sinh cũng không diệt)
Bất thường diệc bất đoạn (không thường còn cũng không mất hẳn)
Bất nhất diệc bất dị (không một cũng không khác)
Bất lai diệc bất xuất (không đến cũng không đi)
Năng thuyết thị nhân duyên (nói được nhân duyên đó)
Thiện diệt chư hí luận (diệt hết mọi hí luận)
8 từ bất sinh, bất diệt, bất thường, bất
đoạn, bất nhất, bất dị, bất lai, bất xuất ở trong bài kệ trên, gọi là “bát
bất” (8 không). Chữ “bất” được dùng với ý phủ định mạnh mẽ, để
bác bỏ 8 quan niệm tà chấp của phàm phu, ngoại đạo, và làm sáng tỏ thật tướng
trung đạo của vạn pháp; cho nên nói “8 không tức trung đạo” (bát bất trung đạo).
“Trung đạo”
nghĩa là con đường trung hòa, không thiên lệch về một bên, vượt lên trên mọi đối
đãi bỉ thử, thoát khỏi mọi phạm trù tư tưởng của thế gian, mọi kiến chấp tà ngụy
của ngoại đạo.
TÁM NẠN (bát nạn)
Chữ “nạn” ở đây có nghĩa là chướng ngại, ngăn trở chúng sinh không đến
được với Phật pháp, do đó mà không có cách nào tu tập để cầu thoát li ba cõi.
Không thể gặp được Phật pháp là điều bất hạnh to lớn của chúng sinh, cho nên được
coi là tai nạn, chướng nạn, hay gọi tắt là “nạn”. Trong kinh điển thường ghi có
tám nơi chướng nạn như vậy:
1. Cõi Địa-ngục
(Địa-ngục nạn): Đó là nơi hết sức
tối tăm, những chúng sinh ác nghiệp nặng nề mới phải đọa vào đó, phải chịu khổ
đau triền miên, cho nên không thể thấy Phật nghe pháp được.
2. Cõi Ngạ-quỉ
(Ngạ-quỉ nạn): Ở đây chỉ cho cảnh
giới của loài ngạ quỉ ác nghiệp nặng nề nhất, suốt kiếp đói khát khổ sở, cả đến
tiếng “nước uống” cũng không được nghe, huống hồ là được thấy Phật nghe pháp!
3. Cõi Súc-sinh
(Súc-sinh nạn): Những loài cầm
thú, côn trùng, nói chung là động vật, tâm ý mê muội, chỉ biết sống theo thú
tính tự nhiên, chịu muôn điều khổ sở do con người hành hạ, giết hại, hoặc do
chúng nó tự xâu xé, ăn thịt nhau, đâu có điều kiện thấy Phật nghe pháp!
4. Giới người
đui điếc câm ngọng (manh lung ám á nạn): Những
loại người này vì nghiệp chướng nặng nề mà phải mang những chứng tật suốt đời
đau khổ, khó tiếp nhận Phật pháp.
5. Giới người
thông minh thế tục (thế trí biện thông nạn): Những người thông minh tài giỏi ở thế gian, dù có trí
tuệ hơn người, nhưng chỉ biết phục vụ cho những tham vọng và quyền vị cá nhân,
hoặc cho những chủ nghĩa tội ác, những âm mưu tranh đoạt, giết chóc, gây đau khổ,
tang tóc cho người đời, hoặc tin tưởng mù quáng theo những tà thuyết mê tín, dị
đoan, thì không bao giờ thấy được chánh đạo.
6. Những thế hệ
người sinh ra trước và sau thời Phật ra đời (Phật tiền Phật hậu nạn): Do vì không duyên lành, cho nên những hạng người này
sinh ra vào những thời kì không có Phật xuất thế, cho đến cả giáo pháp của Phật
cũng không còn tồn tại ở thế gian, cho nên không có cách gì thấy Phật nghe
pháp.
7. Châu Bắc
Câu-lô (Bắc Câu-lô châu nạn): Người
ở châu này sống lâu ngàn tuổi, không chết yểu, suốt đời sung sướng, đắm mê hưởng
thụ dục lạc, không có ý niệm tu hành, cho nên không có duyên lành thấy Phật
nghe pháp.
8. Cõi trời
Vô-tưởng (Vô-tưởng thiên nạn): Cõi
trời này thuộc trong phạm vi cõi trời Tứ-thiền của Sắc giới. Người ở cõi trời
này sống lâu năm trăm đại kiếp, hoàn toàn không có bất cứ niệm tưởng nào nảy
sinh, như người đông lạnh, cho nên không thể thấy Phật nghe pháp.
Thật ra, tám nạn
ấy chẳng phải ở đâu xa, mà lúc nào cũng có đầy đủ trong thế giới loài người; và
cũng chẳng phải chỉ có ở thời đại chúng ta, mà cả ở thời đại Phật tại thế vẫn
có đầy đủ. Những người được thấy Phật, hoặc được biết có Phật, nhưng không tin
Phật, tính tình kiêu ngạo, phỉ báng Tam Bảo, thì làm sao được gặp Phật, được
nghe Phật Pháp! Chúng ta cứ chiêm nghiệm thì tất thấy rõ.
TÁM NGỌN GIÓ
(bát phong)
Gió thổi làm lay động muôn vật.
Trong đời sống thường tình có tám thứ luôn luôn làm lay động lòng người, khiến
sinh ra lắm điều bất an, vọng tưởng; đạo Phật gọi tám thứ đó là “tám ngọn gió”:
1. Lợi: điều gì làm cho thỏa mãn ý muốn của mình.
2. Suy: điều gì không làm thỏa mãn ý muốn của mình.
3. Hủy: lời chê bai sau lưng mình.
4. Dự: lời khen ngợi sau lưng mình.
5. Xưng: lời khen ngợi trước mặt mình.
6. Cơ: lời chê bai trước mặt mình.
7. Khổ: đau thương, buồn phiền.
8. Lạc: vui mừng, sung sướng.
TÁM NGUYÊN TẮC
HÀNH ĐỘNG CHÂN CHÍNH (bát chánh đạo - bát
thánh đạo)
Tám nguyên tắc hành động
chân chính
là một trong những đạo lí căn bản nhất của đạo Phật. Về mặt nhân bản, đó là nền
đạo đức học thực nghiệm của Phật giáo dùng để rèn luyện con người có được một
nhân cách đẹp đẽ, cao thượng, trọn vẹn; về mặt tôn giáo thì đó là những con đường
đưa đến sự chấm dứt khổ đau, đạt được an lạc, giải thoát khỏi ba cõi, giác ngộ
viên mãn, và chứng nhập niết bàn. Tám nguyên tắc này thuộc về sự thật thứ tư (đạo đế) của giáo lí nền
tảng “Bốn Sự Thật” (đã được trình bày ở trước). Giáo lí Bát Chánh Đạo này quan trọng đến nỗi, nó
đã được Phật dạy ngay trong bài pháp đầu tiên (tại vườn Lộc-uyển, cho năm vị sa
môn nhóm Kiều Trần Như) sau ngày thành đạo, rồi dạy đi dạy lại trong suốt 45
năm hóa đạo, và trong những giờ phút cuối đời trước khi nhập diệt (tại rừng Câu-thi-na),
Ngài vẫn còn dạy lần chót cho vị đệ tử xuất gia sau cùng là Tu Bạt Đà La.
1. Thấy biết
chân chính (chánh kiến). Thấy biết chân chính là thấy biết vạn
pháp (trong đó gồm cả bản thân mình) đúng với tự tính chân thật của chúng. Một
cách cụ thể, khi ta nhìn cuộc sống đúng theo cái nhìn của đạo lí “Bốn Sự Thật” (tứ đế), đó là ta có “chánh
kiến”; khi ta nhìn vạn sự vạn vật và ta thấy rõ những tính cách vô thường,
vô ngã, duyên sinh của chúng, đó là “chánh
kiến”. Vậy, chánh kiến là thấy biết đúng với SỰ THẬT, nghĩa là cái thấy
không còn bị che phủ bởi vô minh, thành kiến, cố chấp, dục vọng; hay cũng có thể
nói, chánh
kiến chính là tuệ giác của bậc giác ngộ.
2. Suy nghĩ
chân chính (chánh tư duy). Suy nghĩ chân chính là sự suy nghĩ đặt trên căn bản của sự thật, suy nghĩ
đúng với bản tính chân thật của vạn pháp. Ta vận dụng tâm trí để suy nghiệm về
vạn pháp đúng với bản chất vô thường, vô ngã, duyên sinh của chúng, đó là “chánh tư duy”. Sự suy tư chân chính sẽ
đem lại cho ta những tư tưởng chân chính. Nếu những tư tưởng xấu xa, sai lầm đã
làm cho ta trở nên con người thấp hèn, thô lỗ, thì ngược lại, những tư tưởng chân
chính, đúng đắn sẽ nâng cao phẩm cách của ta trở thành người trong sạch, cao
thượng. Người có tư duy chân chính sẽ thấy rằng vô minh là đầu mối của mọi lỗi
lầm và gây ra muôn vàn đau khổ, do đó, họ diệt trừ được tâm tham dục, luyến ái,
ích kỉ, sân hận, oán thù, hung bạo, ganh ghét, và thay vào đó, họ sẽ phát triển
những tư tưởng vị tha, thiện chí, ôn hòa, thương yêu, giúp đỡ...
3. Nói năng
chân chính (chánh ngữ). Nói năng chân chính là nói năng đúng với sự thật. Không nói dối chỉ là một
khía cạnh của “chánh ngữ”, chứ chưa phải là “chánh ngữ”. Nhiều khi chúng ta
không nói dối nhưng vẫn sai với sự thật: chúng ta thấy biết làm sao thì nói làm
vậy, nhưng vì cái thấy biết ấy đã bị sai lạc, lầm lẫn, cho nên chúng ta đã nói
không đúng với sự thật. Vậy, lời nói chân chính là lời nói không dối trá, không
độc ác, không đâm thọc, không thêu dệt và siểm nịnh. Đó là những lời nói không xuất phát từ lòng
tham dục, ích kỉ, hận thù, giận dữ, ngu dốt, ganh tị. Nói năng chân chính là không nói những lời nhằm
lừa gạt, nịnh hót, phỉ báng, chửi mắng, sỉ nhục, vu oan, chia rẽ, nghĩa là tất
cả những lời nói với dã tâm hại người. Lời
nói chân chính là những lời nói từ ái, hòa nhã, dịu dàng, đoàn kết, xây dựng,
đem lại an vui, lợi ích và tin tưởng cho mọi người. Chánh ngữ còn là những lời
nói thận trọng, khéo léo nhằm hướng dẫn người đi vào nẻo thiện, giúp cho người khai
mở trí tuệ, có được cái thấy sáng suốt, cái nhìn chính xác, nếp suy tưởng đúng
đắn, phù hợp với thực tại. Vì vậy, nếu giảng pháp mà làm cho người ta hiểu sai
Phật pháp, cố chấp lí thuyết, hoặc càng nghe càng thấy tối tăm, nghi ngờ, thì
đó là tà ngữ, không phải là chánh ngữ.
4. Hành động
chân chính (chánh nghiệp). Có ba loại hành động (tam nghiệp): hành động của ý (ý nghiệp), hành động
của miệng (khẩu nghiệp), và hành động của thân (thân nghiệp). Trong pháp số “Bát Chánh Đạo” này, yếu tố chánh nghiệp
ở đây chỉ nhằm nói đến thân nghiệp mà thôi, còn ý nghiệp và
khẩu nghiệp thì đã được bao hàm trong các yếu tố khác. Tất cả mọi hành động hằng
ngày của thân thể đều là thân nghiệp –
ngay cả sự ăn uống, tuy là hành động của miệng, nhưng vẫn thuộc thân nghiệp, còn
khẩu nghiệp chỉ là sự nói năng mà thôi; vì vậy, khẩu nghiệp cũng được gọi là
“ngữ nghiệp”. Hành động chân chính là những hành động không phát xuất từ tham
lam, vị kỉ, sân hận, oán thù, ngu si, ganh tị..., bởi vậy, chúng không gây ra
đau khổ cho người khác, không phá hoại hạnh phúc của mọi người, không tàn hại
người, vật và thiên nhiên. Hành động chân chính là những hành động được soi
sáng bởi chánh kiến, chánh tư duy..., được thúc đẩy bởi tình thương, sự hiểu biết,
lòng cởi mở, tính vị tha, và chắc chắn sẽ đem lại an vui, hạnh phúc, thanh bình
cho xã hội, đem lại tươi mát cho mọi loài và thiên nhiên. Đi đứng nằm ngồi theo
chánh pháp, ăn uống ngủ nghỉ theo chánh pháp, làm việc theo chánh pháp, tu học
theo chánh pháp..., đều là những hành động chân chính.
5. Mưu sinh
chân chính (chánh mạng).
Mọi người đều phải làm việc để nuôi sống cho chính mình và cho thân nhân mình,
đó là điều hiển nhiên. Nhưng trong những công việc mưu sinh cũng có những việc
tốt và những việc xấu. Người tu học không nên chọn những công việc có thể gây khổ
đau cho người khác, làm tăng thêm sự bất công xã hội, hoặc tàn hại thiên nhiên
và tiêu diệt sự sống của mọi loài. Người tu học khi có ý thức mưu sinh chân chính thì sẽ tìm những nghề
nghiệp lương thiện, trong sạch, tâm niệm không gian tham, không lươn lẹo, không
lường gạt, không bóc lột sức người, không lạm dụng sức vật, không làm giàu trên
mồ hôi nước mắt người khác. Những công việc như chế tạo và buôn bán các loại vũ
khí, các loại hóa chất, độc dược để tàn phá đời sống con người, loài vật và
thiên nhiên; môi giới hoặc buôn bán người (con gái, trẻ em) cho những tổ chức bất
lương, vô nhân đạo; nuôi và buôn bán súc vật cho người ta ăn thịt; săn thú hoặc
lưới cá bán cho người tiêu thụ; làm thịt súc vật trong lò sát sinh; chế tạo và
buôn bán rượu cùng các chất ma túy v.v..., đều là những phương tiện mưu sinh bất
chính, có tính chất phá hoại và gây đau khổ, người tu học nên tránh xa.
6. Siêng năng
chân chính (chánh tinh tấn). “Siêng năng” ở đây không phải
là dồn hết mọi nỗ lực để làm một công việc gì đó cho xong, rồi thôi; nhưng đó là
sự cố gắng liên tục, bền bỉ, dẻo dai trong sự tu tập cho đến khi đạt được mục
tiêu cuối cùng là đạo quả giải thoát. Nói rõ hơn, “chánh tinh tấn” là sự siêng năng liên tục trong việc kiểm soát
thân miệng ý, làm cho tiêu trừ mọi tật xấu và phát triển các hạnh lành. Có thể
nói, “siêng năng chân chính” ở đây không có gì khác hơn là “bốn sự cần mẫn” (tứ chánh cần) đã trình bày ở trước. Nếu sự siêng
năng của mình là để nhằm phục vụ cho những ý đồ đen tối, làm tăng trưởng dục vọng,
gây đau khổ cho mọi người, thì đó là “tà tinh tấn”; người tu học không nên
“tinh tấn” theo cách đó.
7. Nhớ nghĩ
chân chính (chánh niệm).
Khi ta nhớ đến điều gì tức là ta đem điều ấy đặt trên ý thức ta ở giây phút hiện
tại. Vậy “niệm” hay “quán niệm” là
sống với giờ phút hiện tại. Khi mình
đang làm việc gì thì mình để hết tâm ý lên trên việc đó, khi nghe điều gì thì để
hết tâm ý vào điều đang nghe, đang nói chuyện gì thì để hết tâm ý vào chuyện
đang nói, đang suy nghĩ vấn đề gì thì để hết tâm ý vào vấn đề đang suy nghĩ, đó
là sống có chánh niệm. Một cách cụ thể,
nếu thực tập pháp môn “bốn lĩnh vực quán
niệm” như đã đề cập ở trước, tức là thực tập chánh niệm. Có chánh niệm thì
cũng có thất niệm. Khi ta nói mà
không biết đang nói gì, khi làm mà không biết đang làm gì, khi suy nghĩ mà
không biết đang suy nghĩ gì, tức là ta không sống trong chánh niệm mà là đang sống
trong lãng quên, trong thất niệm; mà lãng quên, thất niệm cũng đồng nghĩa với mê
muội, vô minh, vô ý thức. Người tu học nên cố gắng, đừng để cho nếp sống thất
niệm ấy xâm chiếm đời sống của mình. Mặt khác, chánh niệm cũng có nghĩa là những
điều nhớ nghĩ chính đáng, và trái lại thì gọi là tà niệm. Nếu những điều ta nhớ
nghĩ đến mà làm cho thân tâm ta an lạc, khuyến khích và giúp đỡ ta tiến bộ trên
đường tu tập đạo giải thoát, thì đó là những nhớ nghĩ chính đáng (chánh niệm); ngược
lại, những điều hễ nhớ nghĩ đến là ta thấy bất an, buồn phiền, oán hận, chán nản,
hoặc ham muốn, thèm khát, say mê điên cuồng, mê muội tâm trí..., thì đó là những
nhớ nghĩ bất chánh, tội lỗi (tà niệm). Nếu ta nghĩ rằng có đức Phật A Di Đà
luôn luôn sẵn sàng đợi ta nhớ nghĩ đến Ngài là Ngài tiếp dẫn ta về sống ở thế
giới Cực-lạc hoàn toàn an vui, sung sướng, muốn ăn tức khắc có món cao lương mĩ
vị, muốn mặc tức khắc có áo quần sang trọng, trang sức lộng lẫy, khỏi phải lo
toan gì..., rồi ta không thèm tu tập, không bỏ ác làm lành gì cả, cứ ngồi “niệm
Phật” để chờ vãng sanh, thì đó cũng là tà
niệm.
8. Thiền định
chân chính (chánh định).
Hành “thiền” để đạt được tâm “định” thì gọi là “thiền định”. “Định” là giữ tâm ý an trụ vào một điểm hay một đề mục
quán chiếu, và “thiền” chính là phương pháp thực tập để giữ cho tâm ý được an
trụ. Khi tâm ý đã được tập trung thì trí tuệ phát sinh. Do trí tuệ đó mà hành
giả thấy rõ được chân tướng của thực tại vạn hữu (chánh kiến), và giải thoát được
những sợi dây ràng buộc của vô minh, của thành kiến cố chấp, của tham dục ích kỉ,
của ngã chấp và pháp chấp. Đó là chánh định. Sở dĩ “chánh định” đã được kể
là một yếu tố quan trọng trong “Bát Chánh Đạo” là vì thời Phật tại thế đã có rất
nhiều thứ tà định của ngoại đạo. Ngoại đạo tu tập những loại định này cốt để trốn
tránh đời sống khổ đau. Có những vị như A La Lam hay Uất Đầu Lam Phất chẳng hạn,
có định lực lớn, chứng đắc các cõi thiền rất cao, nhưng cũng chỉ là để trốn
tránh cái thực tế khổ đau của kiếp người. Chính đức Phật trước khi thành đạo cũng
đã từng theo học với quí vị ấy về những loại định này, và cũng đã chứng đắc như
họ, nhưng Ngài thấy điều đó vẫn là vô ích, chưa phải là mục đích tìm cầu của
Ngài. Mục đích của Ngài là giải thoát khổ đau, giải thoát sinh tử. Giải thoát
khổ đau và trốn tránh khổ đau là hai hành động hoàn toàn khác nhau. Bởi vậy, tà
định là để trốn tránh, còn chánh định mới là giải thoát.
Tám yếu tố trên đây, nếu phân tích theo “Ba Môn Học Giải Thoát” (tam vô lậu học),
thì chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng
thuộc về GIỚI; chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định thuộc về ĐỊNH; chánh tư duy và chánh kiến thuộc về TUỆ. Nếu phân tích theo “Ba Nghiệp”
thì chánh nghiệp và chánh mạng thuộc
về THÂN NGHIỆP; chánh ngữ thuộc về KHẨU NGHIỆP;
chánh kiến, chánh tư duy, chánh tinh tấn,
chánh niệm và chánh định thuộc về Ý NGHIỆP.
Bất cứ một trong tám yếu tố nào trên đây cũng bao gồm hai phần NHÂN và QUẢ của
chính nó – nghĩa là, tự thân nó làm nhân cho nó, và cũng tự thân nó là quả của
nó. Muốn đạt được chánh kiến (quả) thì ta phải thực tập chánh kiến (nhân); hay
nói cách khác, nếu ta tu tập chánh kiến (nhân) thì nhất định ta sẽ có được chánh
kiến (quả). Cả bảy yếu tố kia cũng vậy. Lại nữa, trong tám yếu tố trên, bất cứ một yếu tố nào cũng có thể là NHÂN,
và cũng đồng thời là QUẢ của bảy yếu tố kia. Do ta có chánh kiến cho nên ta
sẽ đạt được chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh định v.v...; hay có thể
nói ngược lại, sở dĩ ta có chánh kiến là vì ta đã đạt được chánh tư duy, chánh
ngữ, chánh nghiệp, chánh định v.v... Bởi vậy, có thể nói, bất cứ một yếu tố nào
trên đây cũng bao gồm cả bảy yếu tố kia của bát chánh đạo. Tất cả tám yếu tố đó
đều tương quan tương liên và trợ giúp, nâng đỡ lẫn nhau để đưa hành giả đến
thành quả giác ngộ.
Đối lại với 8 nguyên tắc hành động chân chánh (bát chánh
đạo) ở trên, là 8 HÀNH ĐỘNG BẤT CHÁNH (bát tà hạnh), gồm có:
1. Thấy
biết bất chánh (tà kiến):
Thấy biết sai lầm, không đúng với sự thật, không tin nhân quả nghiệp báo, không
thấy được sự thực khổ đau của thế gian, không biết có sự thực an lạc giải thoát,
v.v...
2. Suy
nghĩ bất chánh (tà tư duy):
Không suy nghĩ những điều chính đáng, đúng với đạo lí, chỉ suy nghĩ đến tham dục,
những mưu mô hại người, những điều lừa dối người, những cách thức cướp đoạt tài
sản của người, v.v...
3. Nói
năng bất chánh (tà ngữ):
Không nói những lời chính đáng, thật thà, hòa nhã, chỉ nói những lời dối trá,
thêu dệt, dua nịnh, đâm thọc gây chia rẽ, mắng chửi, trù ẻo, v.v...
4. Hành
động bất chánh (tà nghiệp):
Những hành động xấu ác như giết hại, trộm cướp, tà dâm, v.v...
5. Sinh
sống bất chánh (tà mạng):
Sinh sống bằng những nghề không chính đáng, độc ác, có hại cho người, động vật
và thiên nhiên.
6. Tinh
tấn bất chánh (tà tinh tấn):
Siêng năng, hăm hở làm các việc ác nhằm hại người, hại các loài vật và cả thiên
nhiên.
7. Niệm
tưởng bất chánh (tà niệm): Nhớ
nghĩ những điều vô ích, những đối tượng có thể khơi dậy tâm tham dục, sân hận, đau
buồn, v.v...
8. Thiền định bất
chánh (tà định):
Những loại thiền định bất chánh, không đưa người tu tập giải thoát ba cõi, nhưng
đi vào các thế giới ma quái, quỉ mị.
TÁM RUỘNG PHƯỚC
(bát phước điền)
Có 8 hạng người mà nếu chúng
ta biết kính trọng, cúng dường, phụng sự, thì đó là những thửa ruộng tốt để chúng
ta gieo trồng phước đức, gọi là “phước điền”.
1. Phật (Phật điền). Phật là bậc giác ngộ cao tột, giải thoát cùng cực, phước
trí đầy đủ vẹn toàn, trên hết, cả thế và xuất thế gian không ai có thể so sánh được.
Bất cứ ai thành tâm qui y, cung kính cúng dường, thì tất cả tội chướng đều tiêu
trừ, và được phước đức vô lượng. Vì vậy, Phật
là một trong 8 loại ruộng phước.
2. Thánh nhân (thánh nhân
điền). Chư vị Bồ-tát, Duyên-giác,
Thanh-văn, chính là chư vị thánh nhân. Chư vị ấy đã chứng ngộ thánh đạo, đã giải
thoát ra khỏi ba cõi, đầy đủ vô lượng phước đức trí tuệ. Bất cứ ai thành tâm
qui y, cung kính cúng dường thì được phước đức vô lượng. Vì vậy, thánh nhân là một trong 8 loại
ruộng phước.
3. Tăng già (tăng điền). Tăng già là đệ tử của Phật. Đó là một đại chúng hòa hợp,
giới hạnh thanh tịnh, cùng nhau tu tập trong tinh thần kính thuận, không tranh
cãi. Chính quí ngài là sứ giả của đức Phật, có trách nhiệm hoằng dương Phật pháp,
giáo hóa độ sinh, làm cho Phật pháp tồn tại ở thế gian. Bất cứ ai thành tâm qui
y, cung kính cúng dường, đều có được vô lượng phước đức. Vì vậy, tăng già là một trong 8 loại
ruộng phước.
4. Hòa thượng (hòa thượng
điền). Hòa thượng là bậc cao tăng đầy
đủ đức hạnh, đầy đủ khả năng truyền trao giới pháp cho bất cứ ai phát tâm tu hành
theo giáo pháp của Phật; là vị giáo thọ tối cao mà bất cứ ai có duyên lành lãnh
thọ sự dạy dỗ của ngài thì được sinh trưởng pháp thân. Ân đức ấy rất sâu nặng,
người tu học thành tâm cung kính cúng dường thì được phước đức lớn; cho nên hòa thượng là một trong 8 loại
ruộng phước.
5. A xà lê (a xà lê điền). A xà lê là bậc cao tăng phụ tá cho vị hòa thượng
trong việc dạy dỗ và trao truyền giới pháp cho người phát tâm tu học; nhờ giới
pháp này mà người tu học được sinh định và phát tuệ. Ân đức ấy cũng rất sâu nặng,
người tu học thành tâm cung kính cúng dường thì được phước đức lớn lao; cho nên
a xà lê là một trong 8 loại
ruộng phước.
6. Cha (phụ điền). Cha là khởi thỉ của hình hài ta, có công đức sinh thành.
Từ tấm bé cho đến trưởng thành, ta đều do cha dạy dỗ nuôi nấng, ân đức ấy vô cùng
sâu nặng; làm con lẽ đương nhiên là phải hết lòng hiếu dưỡng, đâu dám khởi niệm
cầu phước! Tuy nhiên, nếu ta cứ chí thành phụng kính hiếu dưỡng thì tự nhiên được
phước đức lớn lao; cho nên cha là một
trong 8 loại ruộng phước.
7. Mẹ (mẫu điền). Mẹ là người cưu mang bảo bọc từ lúc thai nhi mới tượng
hình hài, rồi sinh đẻ, rồi phải dồn hết tâm lực, lo toan biết bao nhiêu công việc
để nuôi nấng, săn sóc một đứa con từ tuổi bé thơ cho đến ngày trưởng thành, thật
vô cùng lao nhọc; ân đức ấy cao lớn vòi vọi, làm con lẽ đương nhiên là phải hết
lòng phụng kính hiếu dưỡng, đâu dám khởi niệm cầu phước! Tuy nhiên, nếu ta cứ
chí thành phụng kính hiếu dưỡng thì tự nhiên được phước đức lớn lao; cho nên mẹ là một trong 8 loại ruộng phước.
8. Người bệnh (bệnh điền). Thấy người bệnh liền thấy ngay sự đau khổ của họ, nếu
ta khởi tâm từ bi, giúp đỡ thuốc thang chữa trị cho họ, lấy lời khéo léo an ủi
họ, làm cho người bệnh thân thì hềt đau đớn, tâm thì an vui, thì được phước đức
lớn; cho nên người bệnh là một trong
8
loại ruộng phước.
Mặt khác, tám việc làm với tâm ý thiện lành
sau đây cũng được coi là “8 loại ruộng phước”:
1. Đào
giếng ở những con đường hẻo lánh ở xa thành phố xóm làng (khoáng lộ nghĩa tỉnh), giúp cho người
qua lại có nước uống đỡ khát. Đó là ruộng phước.
2. Bắc cầu
(kiến tạo kiều lương) qua mương, rạch,
xây cầu ở bến nước bờ sông, v.v... để giúp người qua lại thuận tiện, đỡ bị tai
nạn rơi xuống nước. Đó là ruộng phước.
3. San bằng
những nơi hiểm trở (bình trị hiểm ải), mở rộng những chỗ chật hẹp, để
tránh nguy hiểm cho người qua lại. Đó là ruộng phước.
4. Kính phụng
hiếu
dưỡng cha mẹ (hiếu dưỡng phụ mẫu) để báo đáp công ơn sinh thành dưỡng dục.
Đó là ruộng phước.
5. Cung
kính cúng dường Tam Bảo (cung kính Tam Bảo), đó là ruộng phước.
6. Thương xót,
cung cấp thuốc thang để chữa trị cho người bệnh, an ủi người bệnh (cấp sự bệnh nhân), làm cho họ thân tâm
được an lạc; đó là ruộng phước.
7. Thương xót,
cung cấp vật thực và những nhu cầu thiết yếu cho kẻ nghèo thiếu (cứu tế bần
cùng), đó là ruộng phước.
8. Lập
trai đàn chẩn tế (thiết vô già gội) để cứu độ cho tất cả chúng cô hồn,
hoạnh tử, nhờ Phật lực mà họ thoát được các cảnh giới đau khổ, sinh về các cõi
lành. Đó là ruộng phước.
TÁM THỨC (bát thức)
Thức – hay tác dụng nhận thức, tức là cái BIẾT, là
những dòng tiếp nối của cảm giác hay tri giác phân biệt. Khi các giác quan (CĂN) tiếp xúc với đối tượng của chúng (CẢNH hay TRẦN) thì
liền phát sinh cái biết (THỨC). Vậy thức
được phát hiện từ căn cứ của nó là căn và trần, và nương tựa trên căn cứ đó mà
tồn tại. Theo Duy Thức Học, thức có tám tác dụng – tức là có tám thức:
1. Nhãn thức: cái thấy,
tức là cái biết sinh ra khi mắt (nhãn căn) tiếp xúc với cảnh vật (sắc trần).
2. Nhĩ thức: cái nghe,
tức là cái biết sinh ra khi tai (nhĩ căn) tiếp xúc với âm thanh (thanh trần).
3. Tị thức: cái ngửi,
tức là cái biết sinh ra khi mũi (tị căn) tiếp xúc với mùi (hương trần).
4. Thiệt thức: cái nếm, tức
là cái biết sinh ra khi lưỡi (thiệt căn) tiếp xúc với các thức ăn uống (vị trần).
5. Thân thức: cái cảm xúc,
tức là cái biết sinh ra khi thân thể (thân căn) đụng chạm mọi vật (xúc trần).(1)
Tác dụng nhận thức của năm
thức trên đây hoàn toàn chỉ có tính cách thuần
túy cảm giác, không có tính cách phán đoán, ước lượng và suy luận, cho nên
được gọi là “năm thức cảm giác” –
các nhà duy thức học thường gọi là “năm
thức trước”. Và vì vậy, hình thái nhận thức của chúng là hiện lượng(2); đối tượng nhận thức của
chúng là hữu chất tánh cảnh(3); và tính chất
nhận thức của chúng bao gồm cả thiện, ác,
và vô kí(4).
Để có được tác dụng nhận thức,
năm thức trên đây luôn luôn liên hiệp với 34
hiện tượng tâm lí (tức là những thuộc tính của thức mà Duy Thức Học gọi là
những “tâm sở”), gồm có 5 tâm sở biến
hành (xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư); 5 tâm sở biệt cảnh (dục, thắng giải,
niệm, định, tuệ); 11 tâm sở thiện (tín, tàm, quí, vô tham, vô
sân, vô si, cần, khinh an, bất phóng dật, hành xả, bất hại); và 13 tâm sở bất
thiện (tham, sân, si, vô tàm, vô quí, trạo cử, hôn trầm, bất tín, giải
đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất chánh tri)(5).
Vì được phát sinh từ căn và
cảnh, năm thức này luôn luôn liên hệ mật thiết với hai lĩnh vực sinh và vật lí,
và hoạt động một cách gián đoạn,
không liên tục – như trong khi ngủ chẳng hạn, chúng ngưng hoạt động; hoặc nếu
có hoạt động thì cũng ở một cường độ thật yếu ớt, chỉ đủ để tạo nên những cảm
giác vô thức nơi thân thể.
Khi đã giác ngộ thì năm thức cảm giác này được chuyển thành thành
sở tác trí(6).
6. Ý thức: cái biết sinh ra khi ý căn (mạt-na thức)(7) tiếp xúc với
pháp trần(7).
Câu định nghĩa trên có vẻ thật
giản dị, thực ra, phạm vi hoạt dụng của ý
thức rộng rãi vô cùng. Nó có quyền năng rất lớn, có thể trấn ngự các thức
khác, hoạt động tự do tự tại, có thể tạo lập và thay đổi bản chất của đời sống
cá nhân lẫn tập thể. Chính nó xoay con người lưu chuyển trong vòng sinh tử luân
hồi, hay đưa con người thẳng đến bến bờ giải thoát; bởi vì chính nó là ý
nghiệp, là thức đóng vai trò tạo nghiệp, là động cơ chủ yếu đưa tới các
hành động thuộc về thân thể và ngôn ngữ.
Ý thức được
nhận diện dưới hai hình thức: liên hiệp với
năm thức trước (ngũ câu) và đơn độc (độc đầu).
a) Tác dụng
liên hiệp với năm thức cảm giác (ngũ câu ý thức). Cái biết phát sinh từ năm thức trước mới chỉ thuần là cảm giác; khi có thêm tác dụng của ý thức thì cái biết cảm giác sẽ trở
thành tri giác – là cái biết rõ ràng, sáng tỏ. Khi mắt nhìn cái hoa,
nếu không có ý thức thì cái thấy của nhãn thức chỉ là cái thấy lờ mờ, không rõ
ràng; thậm chí, nhiều khi thấy mà hầu như không thấy. Nhưng nếu có mặt của ý thức
thì cái hoa sẽ hiển hiện một cách rõ ràng, và cái biết sẽ trở nên sáng tỏ, tỉ mỉ
hơn: từ hình dáng, đường nét, màu sắc, cho đến một con ong đang sà xuống hút mật,
một ngọn gió thổi qua làm lay động cành lá v.v..., tất cả các chi tiết có liên
hệ đến cái hoa lúc ấy đều được nhận biết một cách cặn kẽ. Khi liên hiệp với năm
thức trước như vậy, ý thức được gọi là ngũ câu ý thức, và tác dụng của nó
là tri
giác. Ở đây chúng ta cần để ý, cái biết “tri giác” về cái hoa vừa nêu ra,
là cái biết thật thuần túy – nghĩa là cái hoa làm sao thì biết làm vậy, mọi chi
tiết liên hệ đến cái hoa thế nào thì biết thế đó, hoàn toàn không có ý niệm nào
khác xen vào; ý thức ngũ câu trong trường hợp này chính là tri giác thuần túy, và vì
vậy, hình thái nhận thức của nó là hiện
lượng(2), đối tượng nhận thức của nó là hữu chất tánh cảnh(3).
Nhưng trong thực tế của đời
sống hằng ngày, chúng ta rất ít khi thấy bằng tri giác thuần túy như vậy; nếu
có thì cũng chỉ trong vài giây phút ngắn ngủi, còn hầu hết là thấy bằng suy tưởng,
đắn đo, so sánh, ước lượng, phán đoán v.v... Do đó, trong chúng ta luôn luôn đầy
ắp những bóng dáng, hình ảnh của thực tại, mà ít khi thấy được cái mặt thật của
thực tại. Bởi vậy, hình thái nhận thức của ý
thức ngũ câu hầu hết là tỉ lượng(2), và đối tượng
nhận thức của nó là đới chất cảnh(3).
Nói chung thì trong đời sống
hằng ngày, mọi cái biết đều được phát hiện từ các giác quan, và đều được ý thức
làm cho sáng tỏ. Cho nên, Duy Thức Tam Thập
Tụng đã gọi cả sáu thức này là “liễu biệt cảnh thức” (cái biết phân
biệt rõ ràng về mọi vật).
b) Tác dụng đơn
độc (độc đầu ý thức). Trong trường hợp này, ý thức chỉ hoạt động độc lập, không liên hiệp với năm thức trước. Trong các hoạt
động như suy tư, hồi tưởng, tưởng tượng, lí luận, so đo, phán đoán... nó được gọi là ý thức tán vị (tán
vị ý thức – nghĩa là ý thức trong trạng thái phân tán), và đó là các hoạt động
phổ thông, thường xuyên nhất của ý thức. Mộng mị trong giấc ngủ cũng là một loại
hoạt động của ý thức độc đầu, và trong trường hợp này nó được gọi là ý thức
trong mộng (mộng trung ý thức).
Ở trường hợp người bị điên loạn thì nó được gọi là ý thức trong cơn điên loạn (loạn trung ý thức). Và khi ở trong trạng thái thiền định thì nó
được gọi là ý thức trong định (định
trung ý thức). Tán vị, độc đầu, mộng, loạn, định, đó là năm trạng thái của
ý thức. Theo đó thì hình thái nhận thức của ý thức độc đầu có khi là hiện lượng(2) (như ý thức trong định), có
khi là phi lượng(2) (đó là ý thức
trong mộng và trong cơn điên loạn), nhưng hầu hết là tỉ lượng(2) (trường hợp ý thức tán vị); còn đối tượng nhận thức của
nó thì hoàn toàn là độc ảnh cảnh(3).
Một cách tổng quát, hình
thái nhận thức của ý thức (cũng gọi là thức thứ sáu) bao gồm cả ba lượng(2); đối tượng nhận thức của nó
bao gồm cả ba cảnh(3) – tức là “pháp
trần”; và tính chất nhận thức của nó thì có đủ cả ba tính(4) (thiện, ác và vô kí). Để có được tác dụng nhận thức,
ý thức luôn luôn liên hệ với tất cả 51 tâm sở(5).
Cũng như năm thức trước, ý
thức liên hệ mật thiết với cả hai lĩnh vực sinh lí (căn) và vật lí (cảnh). Tất
cả sáu thức này đều được phát sinh theo luật nhân duyên (có điều kiện: khi căn
tiếp xúc với cảnh) như bất cứ một hiện tượng sinh vật lí nào khác, cho nên cũng
có tính cách chuyển biến, không đồng nhất, và hoạt động có lúc bị gián đoạn,
không liên tục. Khi đã giác ngộ thì ý thức được chuyển thành diệu
quan sát trí(6).
Duy Thức Học cũng có khi gọi
chung thức thứ sáu và năm thức cảm giác là “sáu
thức trước”.
7.
Mạt-na thức (tức là ý, hay ý căn, cũng gọi là “thức thứ
bảy”): cái biết chấp ngã, cái biết phân biệt ngã với phi ngã. Mạt-na vừa là
thức mà cũng vừa là căn (làm chỗ nương tựa cho ý thức). Nó được
phát sinh từ thức thứ tám là a-lại-da, nương tựa trên a-lại-da để tồn tại, rồi lại
lấy a-lại-da làm đối tượng nhận thức. Vì vậy, thức a-lại-da vừa là căn
mà cũng vừa là đối tượng của thức mạt-na. Khi lấy a-lại-da làm đối tượng nhận thức,
mạt- na đã bám sát lấy a-lại-da và cho đó là cái ngã chân thật; do đó, tính
chất của mạt-na là chấp ngã – Duy Thức
Học gọi là “tư lương”, tức là suy
tư, đo lường, tính toán, ôm ghì, bám chặt. Tính chất chấp ngã này đã từng tích tụ
rất sâu dầy từ vô thỉ, và đã cùng sinh ra một lần với thân mạng, cho nên ta
cũng có thể gọi nó là bản năng chấp ngã.
Thật ra, không hề có một cái gọi là “ngã”, chẳng qua chỉ vì thức mạt-na đã từng
bị vô minh che lấp, nên đã có nhận thức sai lầm (tà kiến) về ngã; và, theo Duy
Thức Học, đó là đầu dây mối nhợ cho tất cả mọi sai lầm về nhận thức. Với nhận thức
sai lầm về ngã này, thức mạt-na luôn luôn có ảo tưởng rằng, thân mạng là thật
ngã, là chủ thể, và tất cả những gì ở bên ngoài thân mạng là thật pháp, là đối
tượng của ngã; và rằng, ngã và pháp (hay chủ thể và đối tượng) là hai hiện tượng
độc lập với nhau. Vì vậy, mạt-na tuy là một thứ trực giác – trực giác chấp ngã – nhưng chỉ là một thứ
công dụng tợ hiện lượng(2), cho nên
hình thái nhận thức của nó luôn luôn là phi
lượng(2). Lại nữa, cũng vì tính chất chấp ngã mà mạt-na không
bao giờ tiếp xúc được với thế giới tánh cảnh(3), cho nên đối
tượng nhận thức của nó chỉ hoàn toàn là đới
chất cảnh(3). Về tính của mạt-na, Duy Thức Học cho rằng, nó không
phải là thiện, cũng không phải là ác, mà là vô
kí(4); nhưng vì bị vô minh che lấp (hữu phú), cho nên phải nói đầy đủ tính chất
của nó là hữu phú vô kí.
Trong tác dụng nhận thức, mạt-na
liên hệ với 18 tâm sở, gồm có: 5 tâm
sở biến hành, tâm sở “tuệ” của 5 tâm sở biệt cảnh, và 12 tâm sở bất thiện
(tham, si, mạn, tà kiến, trạo cử, hôn trầm, bất tín, giải đãi, phóng dật, thất
niệm, tán loạn, bất chánh tri)(5).
Bốn tâm sở bất thiện tham, si, mạn và tà kiến, theo thứ tự tức
là ngã ái, ngã si, ngã mạn và ngã kiến, là
bốn loại phiền não gốc rễ(8) tác động thường xuyên trên thức mạt-na. Chúng được
coi là chính bản thân của mạt-na, và đó là tất cả những gì mà ta gọi là vọng nghiệp, là nguyên nhân chính của
sinh tử luân hồi.
Ý thức, tuy phạm vi hoạt động vô cùng rộng rãi, nhưng vì nó lấy thức mạt-na
làm “căn”, nên hoàn toàn tùy thuộc vào bản chất của mạt-na trong mọi tác dụng nhận
thức. Nói cách khác, thức mạt-na là nền tảng cho mọi hành động (dù mang tính
cách ô nhiễm hay thanh tịnh) của ý thức – và của cả năm thức trước nữa. Như vậy,
ý
(thức mạt-na) là điểm trung tâm, là cái động lực làm phát hiện nhận thức; và do
ảnh hưởng của ý mà ý thức cũng mang lấy tà kiến phân biệt chấp ngã, cũng thấy
biết, suy đoán, phán xét, suy nghĩ sai lầm, và đã dựng nên không biết bao nhiêu
cái khung (phạm trù) tư tưởng – như ta,
người, có, không, cao, thấp, trên, dưới, tốt, xấu, trong, ngoài, sinh, diệt
v.v..., để từ đó tạo nên biết bao nghiệp nhân xấu ác, bao hành động vô minh, tà
dục, và cứ thế, những nghiệp nhân này cứ tiếp tục nuôi dưỡng, bồi đắp cho bản
chất sai lầm của mạt-na trong suốt quá trình sinh mạng. Dù hoạt động của sáu thức
trước có lúc bị gián đoạn, nhưng bản năng chấp ngã của thức mạt-na thì luôn
luôn liên
tục. Cái mà người ta gọi là “bản
năng tự tồn”, đó chính là thức mạt-na. Sự tồn tục của nó không những chỉ có
trong một quá trình sinh mạng, mà nó đã hiện hữu từ trước khi cá nhân được thác
sinh (từ vô thỉ) và cả sau khi cá nhân đã chết.
Nếu ý thức
đã có khả năng tạo ra nghiệp nhân xấu để tiếp tục bồi đắp cho bản chất sai lầm của
thức mạt-na, thì chính ý thức cũng có khả năng làm cho mạt-na trở nên trong sạch,
thánh thiện. Ý thức có thể quán chiếu tính KHÔNG của ngã và pháp để ngăn chận bốn
loại phiền não gốc rễ (si, kiến, mạn, ái),
không cho hiện hành và tác động trên mạt-na, làm cho thức này mất dần sức mạnh
chấp ngã – tức là làm trong sạch dần bản chất ô nhiễm. Và nếu công phu cứ được
tiếp tục mãi thì đến một lúc nào đó, mạt-na sẽ hoàn toàn được trong sạch hóa,
không còn bám lấy thức a-lại-da làm đối tượng chấp ngã nữa, rồi cái ảo tưởng về
“thật pháp ở bên ngoài ngã” cũng tiêu mất, lúc đó, từ cái bản chất là một thức, mạt-na sẽ chuyển thành một loại tuệ
giác gọi là bình đẳng tánh trí.(6)
8. A-lại-da thức: cái biết chứa đựng, gìn giữ và biến hiện – cũng gọi
là “thức thứ tám”.
Thức
a-lại-da là nền tảng của mọi tác dụng nhận thức và mọi hiện tượng tâm sinh vật
lí. Nó không phải là cái mà người
ta thường gọi là “linh hồn” (được chứa đựng
trong một thể xác). Nó không có hình thái, không có dung tích, và không có
một nơi nhất định nào dung chứa nó. Hoạt dụng của nó rất thâm mật, trí óc phàm
tục không thể nào rõ thấu được. Cái mà Tâm Lí Học hiện đại gọi là “tiềm thức”, “vô thức”, hay “đà sống” mới chỉ là những khái niệm gần
gũi với a-lại-da; vì thực ra, a-lại-da còn sâu kín, rộng lớn và sinh động hơn
nhiều. Nó chính là bản thể, là bản chất hiện hữu của sinh mạng và của cả môi
trường trong đó sinh mạng tồn tại.
Thức a-lại-da được nhận biết
qua ba tác dụng: chứa đựng, gìn giữ và biến hiện.
a) Tác dụng chứa đựng. Thức a-lại-da, trong trường hợp này được gọi là
“tàng thức”, vì tác dụng của nó ở đây
là chứa
đựng (tàng), được miêu tả bằng ba đặc tính:
- Đặc tính thứ nhất, nó
chính là khả năng chứa đựng (năng tàng).
- Đặc tính thứ hai, nó chính
là nội dung chứa đựng (sở tàng).
- Đặc tính thứ ba, nó chính
là đối tượng chấp ngã của thức mạt-na (ngã ái chấp tàng).
Những gì chứa đựng trong a-lại-da
đều gồm trong ba lĩnh vực: tâm lí
(các thức và các tâm sở), sinh lí (cơ
thể và các giác quan), và vật lí (thế
giới vật chất); hay nói cách khác, đối tượng của thức a-lại-da, theo danh từ Phật
học, gồm có danh (tinh thần) và sắc (vật chất)(9); hoặc tổng
quát hơn, đó là tất cả mọi hiện tượng trong vũ trụ – tất cả các pháp(5). Các pháp này luôn luôn ở một
trong hai trạng thái: hoặc là trạng thái phát hiện (Duy Thức Học gọi là hiện hành, tức là thế giới hiện tượng);
hoặc là trạng thái tiềm ẩn (Duy Thức Học gọi là chủng tử, tức là hạt giống).
Như vậy, tự thân của thức
a-lại-da luôn luôn gồm đủ hai phần chủ thể (năng tàng) và đối tượng (sở tàng).
Hai phần này không ngừng biến chuyển linh động: các chủng tử từ a-lại-da phát
hiện thành hiện hành, các hiện hành rơi trở lại vào a-lại-da thành chủng tử...
Sự hoạt động đó hoàn toàn vô thức, ý thức của chúng ta không thể nào biết được.
b) Tác dụng gìn
giữ. Đã có khả năng hàm chứa, thức a-lại-da lại còn có khả năng duy trì và
bảo tồn tất cả những gì được chứa trong nó. Duy Thức Học gọi tác dụng này là trì
chủng – tức là gìn giữ mọi hạt giống. Với tác dụng này, a-lại-da còn được
gọi là “trì chủng thức”. Nhờ có khả năng này mà các pháp không bao giờ
bị tiêu mất, mà vẫn luôn luôn tồn tại, hoặc ở trạng thái chủng tử, hoặc ở trạng
thái hiện hành. Cũng vậy, những nghiệp nhân do ta tạo ra không bao giờ mất đi,
mà chúng sẽ tồn tại và chờ điều kiện thuận tiện để phát hiện thành quả báo. Quả
báo đó như thế nào là do tổng thể những giá trị của các nghiệp nhân. Rốt cuộc,
a-lại- da là tổng thể của nghiệp; hay nói khác đi, a-lại-da là chính bản thân của nghiệp, – bởi vậy, nó cũng được gọi
là “nghiệp
quả thức”.
c) Tác dụng biến hiện. Biến
hiện là một tác dụng vô cùng quan trọng của thức a-lại-da. Đó là khả năng làm
chuyển biến các chủng tử của các pháp, làm cho chúng chín muồi, chờ có điều kiện
thuận tiện là phát hiện thành hiện tượng. Duy Thức Học gọi đó là tác dụng “dị
thục”, và do đó, thức a-lại-da cũng còn được gọi là “dị thục thức”.
Chủng tử của vạn pháp được chứa đựng và gìn giữ ở a-lại-da
bằng cách “huân tập” (hun đúc và chồng
chất). Theo cách này, đối tượng của sáu thức trước, sau khi xuất hiện trên mặt ý
thức, liền rơi xuống kho chứa a- lại-da và tồn tại ở đó trong trạng thái chủng
tử. Các hành động tạo nghiệp của thân, khẩu, ý cũng y như vậy. Trong khi huân tập,
chứa đựng và gìn giữ, a-lại-da gồm thâu vào tự thân nó tất cả mọi pháp thiện và
ác, do đó, theo Duy Thức Học, tính chất của nó là vô phú vô kí (vô phú: không
bị ngăn che; vô kí: không thiện cũng
không ác). Mặt khác, trong diễn trình nhận thức, tác dụng của a-lại-da là thuần túy trực giác, cho nên hình thái
nhận thức của nó là hiện lượng(2) (nhưng rất
thâm mật, ý thức phàm tục không thể biết được), và chỉ liên hệ với 5 tâm sở biến hành(5) trong 51 tâm sở.
Trong thời gian được chứa đựng và duy trì (tức là ở trạng
thái tiềm ẩn) ở thức a-lại-da, các chủng tử vẫn không ngừng chuyển biến dưới định
luật nghiệp báo. Nếu chúng không được tiếp tục nuôi dưỡng thì sẽ bị yếu dần đi,
khó phát hiện thành hiện hành, hoặc có thể bị đồng hóa bởi các chủng tử khác mạnh
hơn, để cuối cùng bị tiêu mất, không còn hiện hành nữa. Nhưng nếu cứ được nuôi
dưỡng, tăng cường và phát triển (nghĩa là cái quá trình chủng tử sinh hiện hành - hiện hành sinh chủng tử... được lặp đi lặp
lại thường xuyên), thì một lúc nào đó chúng sẽ chín muồi để có thể phát hiện thành
các hiện tượng. Các tác dụng huân tập, cất chứa, duy trì và làm chín muồi các
chủng tử của thức a-lại-da được thực hiện vô cùng sâu kín, cái thấy của ý thức
không thể nào soi thấu được.
Tính chất của chủng tử là chuyển biến không ngừng, và
vì a-lại-da chính là tổng thể của các chủng tử, nên a-lại-da cũng không ngừng chuyển
biến. Tuy biến chuyển như vậy, a-lại-da vẫn luôn luôn là một dòng liên tục, hoạt
động không
bao giờ gián đoạn. Vì vậy, Duy Thức Học nói bản chất của a-lại-da là hằng
chuyển (vừa liên tục vừa thay đổi). Đó là tính chất căn bản và vô cùng
quan trọng của thức a-lại-da, bởi vì, nếu không có tính chất này thì sẽ không có
gì cả, không có vạn pháp, không có vũ trụ, không có sự sống...
Vì a-lại-da – cũng
tức là chủng tử – là hằng và chuyển, cho nên vạn pháp cũng là một dòng liên
tục, không có gì mất đi. Sự sinh diệt của một
đời sống (hữu tình hoặc vô tình) chẳng qua chỉ là một lần thay đổi trong
quá trình biến chuyển của cả dòng sống. Khi một cá nhân chết đi,
những nghiệp nhân (chủng tử) hàm chứa trong a-lại-da vẫn tiếp tục chuyển biến,
và sẽ chín muồi vào một lúc nào đó, rồi từ a-lại-da chúng sẽ hiện hành thành một
sinh mạng (chánh báo) mới, trong một môi trường sống (y báo) mới. Tùy theo bản
chất và giá trị của tổng thể nghiệp lực, sinh mạng có thể được sinh ra ở một
trong ba cõi (tam giới)(10), hoặc ở vào một trong mười địa (thập địa) của Bồ-tát hạnh(11). Khi có một
đoạn sinh diệt như vậy xảy ra – nghĩa là khi có sự chuyển đổi từ một sinh mạng
này sang một sinh mạng khác, thức a-lại-da lúc nào cũng bỏ đi sau cùng (sau khi
các thức khác đã bỏ đi), và tới trước tiên (để an lập và phát hiện
các thức khác); vì theo Duy Thức Học, a-lại-da là thức nền tảng, là “chủ nhân ông” của mọi thức khác.
Đường lối theo đó thức a-lại-da
thác sinh vào các môi trường sống (3 cõi và 10 địa) cũng rất thâm diệu, ý thức
không thể nào rõ thấu được.
Vì thức a-lại-da là hằng chuyển, cho nên theo phương pháp tu
tập của giáo lí Duy Thức, hành giả có thể vừa không tiếp tục cho huân tập các
chủng tử ô nhiễm (vô minh, tà dục) vào a-lại-da, vừa ngăn ngừa không cho các chủng
tử ô nhiễm có sẵn trong a-lại-da tái hiện hành. Trong lúc đó, hành giả tiếp tục
cho huân tập vào a-lại-da các chủng tử thanh tịnh (thiện, trong sáng, vươn tới
từ bi, giác ngộ) và thường xuyên tạo điều kiện thuận lợi cho các chủng tử trong
sạch có sẵn trong a-lại-da có dịp hiện hành. Các chủng tử ô nhiễm nếu không được
nuôi dưỡng, bồi đắp thì dần dần sẽ bị yếu đi, bị lấn áp, thay đổi, đồng hóa và
tiêu diệt bởi các chủng tử thiện. Bằng cách đó, a-lại-da sẽ không tiếp tục bị ô
nhiễm mà dần dần sẽ được chuyển đổi sang trạng thái hoàn toàn thanh tịnh. Theo
Duy Thức Học, khi hành giả tu tập và đạt đến
địa thứ bảy (trong 10 địa) của Bồ-tát hạnh thì ý thức sẽ an trú được trong
sự thông suốt về tính không của ngã
và pháp, tà kiến vô thức về sự tồn tại của
ngã hoàn toàn bị tiêu diệt, và lúc đó thức mạt-na liền được tách rời
ra khỏi a-lại-da; hay nói cách khác, a-lại-da bấy giờ được thoát khỏi vòng tay
của mạt-na, không còn làm đối tượng chấp ngã cho thức này nữa. Tuy nhiên, phải
đợi đến khi đạt được địa thứ tám thì
ý thức mới đủ khả năng tiêu diệt hoàn
toàn tà kiến vô thức về sự tồn tại của pháp; theo đó, mọi vô minh và tà dục
hoàn toàn tan biến, mọi chủng tử trở nên thuần túy thanh tịnh, và các thức đều
chuyển
thành tuệ giác giác ngộ: thức a-lại-da
chuyển thành đại viên cảnh trí, thức mạt-na
chuyển thành bình đẳng tánh trí, ý thức
chuyển thành diệu quan sát trí, và năm
thức cảm giác chuyển thành thành sở tác trí.(6)
Trong tám thức như vừa trình
bày trên thì thức a-lại-da là thức nền
tảng, căn bản, Duy Thức Học gọi nó là “căn bản thức”; bảy thức còn lại: mạt-na,
ý, nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt và thân, đều được chuyển hiện, sinh khởi từ căn bản thức,
cho nên chúng được gọi là “chuyển thức”. Mặc dù có tám thức
nhưng về tác dụng thì chúng có ba tác dụng
chính yếu: - Tác dụng chứa đựng, gìn giữ hạt giống và chuyển biến, phát hiện
thành hiện hành – tức là tác dụng DỊ THỤC, là vai trò của thức a-lại-da, cho
nên thức này cũng được gọi là TÂM; -
Tác dụng suy nghĩ, so đo, tính toán, chấp ngã – tức là tác dụng TƯ LƯƠNG, là
vai trò của thức mạt-na, cho nên thức này cũng được gọi là Ý; - Tác dụng tri giác, phân biệt đối với trần cảnh – tức là tác dụng
LIỄU BIỆT CẢNH, là vai trò của sáu thức trước, cho nên sáu thức này
còn được gọi là THỨC.
Sự phân chia có tám thức như trên chỉ là một phương tiện để dễ tìm hiểu những mặt
khác nhau của thức; nó không phải là cố định như thế. Thực ra, tám thức ấy chỉ
là tám tác dụng, tám hành trạng, hay tám cách biểu hiện của nhận thức, chứ
không phải là “tám cái tâm” riêng rẽ, biệt lập. Tuy là có tám thức, nhưng mỗi
thức đều liên hệ mật thiết đến các thức khác; tuy một mà là tám, tuy tám mà là một, cho nên chúng cũng có thể thu
về một mối, đó là THỨC – tức là CĂN BẢN THỨC, hay A-LẠI-DA THỨC. Một cách tổng
quát, chúng ta có thể nói: Thức có ba tác dụng: tác dụng thứ nhất là tàng (hay dị thục), tác dụng thứ hai là
tư lương, và tác dụng thứ ba là liễu biệt cảnh. Các kinh luận không
chuyên về “duy thức”, thường dùng những tên gọi như TÂM, Ý, THỨC, hay NGHIỆP THỨC
để chỉ cho phần “tinh thần” – khác với
phần “thân thể” – của chúng sinh.
(1) Xin xem mục
“Sáu Giác Quan, Sáu Đối Tượng của Giác Quan, và Sáu Thức” ở trước, và mục “Một
Trăm Pháp” ở sau.
(2) Xin xem lại
mục “Ba Hình Thái Nhận Thức” ở trước.
(3) Xin xem lại
mục “Ba Cảnh” ở trước.
(4) Xin xem lại
mục “Ba Tính” ở trước.
(5) Xin xem mục
“Một Trăm Pháp” ở sau.
(6) Xin xem lại
mục “Bốn Trí Tuệ” ở trước.
(7) Xin xem lại
mục “Sáu Giác Quan, Sáu Đối Tượng của Giác Quan, và Sáu Thức” ở trước.
(8) Xin xem lại
mục “Bốn Phiền Não” ở trước.
(9) Chỉ ở hai
cõi Dục và Sắc thì đối tượng của a-lại-da mới gồm đủ danh và sắc, còn ở cõi
Vô-sắc thì chỉ có danh mà thôi.
(10) Xin xem
lại mục “Ba Cõi” ở trước.
(11) Xin xem
mục “Mười Địa” ở sau.
TÁM TÔNG PHÁI
ĐẠI THỪA (đại thừa bát tông)
Phật giáo Trung-quốc gọi tám
tông phái của họ: Thiền, Tịnh Độ, Luật, Hoa Nghiêm, Tam Luận, Mật, Pháp Tướng
(Duy Thức), và Thiên Thai, là “tám tông phái đại thừa” (đại thừa bát
tông).
Nguyên lai, Trung-quốc có cả
thảy 13 tông phái: Thành Thật, Câu Xá, Nhiếp Luận, Địa Luận, Niết Bàn, Tam Luận,
Duy Thức, Luật, Thiên Thai, Hoa Nghiêm, Thiền, Mật, và Tịnh Độ. Hai tông Thành
Thật và Câu Xá thuộc tiểu thừa; mười
một tông còn lại thuộc đại thừa. Về
sau, tông Địa Luận sát nhập vào tông Hoa Nghiêm; tông Nhiếp Luận sát nhập vào
tông Duy Thức; tông Niết Bàn sát nhập vào tông Thiên Thai; cho nên còn lại cả
thảy là tám tông phái đại thừa.
TÁM TRAI GIỚI
(bát trai giới - bát giới trai - bát quan
trai giới)
Chữ “trai” nghĩa là làm cho tâm ý được thanh tịnh; chữ “giới” nghĩa là ngăn ngừa không để cho
thân khẩu ý gây điều lầm lỗi. Có cả thảy tám
giới. Những giới này giúp cho hành giả đóng bớt được những cánh cửa giác
quan để ngăn chận các phiền não, tội lỗi, đó là ý nghĩa của chữ “quan”. Tám trai giới là một phương tiện lập ra để giúp người cư sĩ tại gia
có cơ hội sống 24 giờ đồng hồ (trọn một ngày đêm) trong chùa theo cuộc sống li
dục, thanh tịnh, chánh niệm của người xuất gia. Trong 24 giờ đó, Phật tử phải
ăn chay và giữ gìn tám giới sau đây:
1. Không giết
hại.
2. Không trộm
cắp.
3. Không dâm
dục (khác với “không tà dâm” của Năm
Giới).
4. Không nói
dối.
5. Không uống
rượu và dùng các chất ma túy.
6. Không
dùng dầu thơm, son phấn.
7. Không nằm
giường nệm sang quí.
8. Không ăn
ngoài giờ ấn định.
TÁM TƯỚNG THỊ
HIỆN (bát tướng thị hiện - bát tướng
thành đạo)
Đức Thích Ca Mâu Ni thị hiện
thành Phật ở cõi Ta-bà, từ lúc giáng trần cho đến ngày nhập diệt, đã thị hiện 8
tướng trọng đại nhất ở thế gian:
1. Đâu-suất
giáng trần (giáng Đâu-suất tướng). Khi sắp giáng trần, từ cung trời Đâu-suất, đức Bồ Tát
quán sát cõi Diêm-phù-đề, thấy thành Ca-tì-la-vệ là nơi tối thắng, từ xưa chư
Phật đều giáng trần tại đó. Lúc bấy giờ đức Bồ Tát liền hiện ra năm điềm báo hiệu:
phóng ra ánh sáng rộng lớn, cõi đất chấn động, các cung điện của ma vương đều bị
che lấp, mặt trời mặt trăng và tinh tú đều mất ánh sáng, các chúng trời rồng thảy
đều kinh sợ. Hiện ra các điềm báo hiệu ấy rồi, đức Bồ Tát liền hạ sinh.
2. Gá thai (thác thai
tướng). Lúc sắp gá thai, đức Bồ Tát
quán sát thấy vua Tịnh Phạn là bậc nhân ái hiền đức, hoàng hậu Ma Da 500 đời trước
đã từng là mẹ của Bồ Tát; đó là nơi nên gá thai. Đức Bồ Tát liền cỡi voi trắng
sáu ngà, có vô lượng thiên chúng tấu nhạc, xuống hoàng cung vua Tịnh Phạn, nhập
vào hông bên phải của hoàng hậu Ma Da.
3. Đản sinh (giáng sinh
tướng). Buổi sáng ngày Trăng Tròn tháng
Vesaka (lịch Ấn-độ), tại vườn Lam-tì-ni, khi hoàng hậu Ma Da đưa cánh tay phải
lên vin cành hoa vô ưu, đức Bồ Tát liền từ hông bên phải của hoàng hậu mà xuất
hiện ở thế gian, trở thành một vị thái tử. Lúc đó, từ gốc cây vô ưu, 7 đóa hoa sen lớn hiện trên
mặt đất, thái tử bước đi bảy bước trên bày hoa sen đó, rồi nhìn khắp bốn phương,
tay phải chỉ lên trời, tay trái chỉ xuống đất, dõng dạc tuyên bố rằng: “Ta là bậc tối tôn tối thắng trong khắp cả
trời người.”
4. Xuất gia tìm đạo giải thoát (xuất gia tướng). Năm 29 tuổi, vì nhận chân được
những nỗi đau khổ to lớn sinh, già, bệnh, chết mà chúng sinh phải nhận chịu triền
miên, không làm sao thoát khỏi được, mà cũng chưa có ai giúp cho thoát khỏi được,
nên thái tử khởi tâm từ bi, quyết chí xuất gia tìm đạo giải thoát để cứu độ chúng
sinh. Thái tử xin phép đi xuất gia nhưng vua Tịnh Phạn cương quyết không chấp
thuận, bởi vậy, để thực hiện quyết tâm của mình, một đêm kia, chờ cho tất cả mọi
người ngủ say, thái tử cưởi ngựa, cùng với người hầu cận, lẳng lặng vượt ra khỏi
hoàng thành, tiến về phương Nam, theo các vị đạo sĩ Bà-la-môn tu hành.
5. Hàng phục ma quân (hàng ma tướng). Khi đức Bồ Tát sắp thành đạo
ở cội cây bồ đề, ánh sáng chiếu tỏa rộng lớn, đại địa chấn động, các ma cung bị
che khuất. Lúc bấy giờ ma Ba-tuần thống lĩnh ma nữ đến quấy nhiễu mong làm loạn
tịnh hạnh của đức Bồ Tát, nhưng Ngài đã dùng thần lực làm cho các ma nữ đều biến
thành các bà già. Ma vương rất căm giận, huy động khắp các bộ chúng ra sức làm
hại đức Bồ Tát; như thiên lôi thì cho mưa xuống nào hòn sắt nóng, nào guơm đao,
nào vòng sắt, gậy sắt v.v..., nhưng tất cả các vũ khí ấy đều bị chận lại trên
không trung; nào giương cung bắn tên, nhưng cung tên cũng dừng lại giữa hư không
và đều biến thành hoa sen... Cuối cùng ma vương cùng quyến thuộc không còn cách
nào có thể làm hại được đức Bồ Tát, đành bỏ cuộc, bỏ chạy tứ tán hết.
6. Thành bậc Tối Chánh Giác (thành đạo
tướng).
Sau khi đã hàng phục tất cả ma quân, đức Bồ Tát phóng áng sáng rộng lớn, rồi nhập
vào thiền định, biết tất cả các việc thiện ác đã làm từ quá khứ xa xưa, thấy rõ
bao nhiêu đời trước từng chết chỗ này sinh chỗ khác; màn vô minh hoàn toàn bị rách
tung, khi sao mai vừa mọc thì tuệ giác bừng sáng trọn vẹn, Ngài chứng Đạo Vô Thượng,
thành bậc Tối Chánh Giác.
7. Chuyển pháp luân và hóa độ chúng sinh (thuyết pháp tướng). Đức Bồ Tát đã thành Phật. Ngài muốn thuyết pháp độ
sinh, nhưng lại suy nghĩ rằng: “Giáo pháp
mà ta vừa chứng ngộ, thật quá thậm thâm vi diệu, chúng sinh không thể nào tin
nhận được. Nếu ta trụ thế cũng đâu có ích lợi gì. Vậy ta hãy nhập vô dư niết
bàn!” Lúc bấy giờ trời Phạm Thiên liền đến trước Phật bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Hôm nay biển giáo pháp đã đầy,
cờ giáo pháp đã dựng, trống giáo pháp đã làm xong, đuốc giáo pháp đã chiếu
sáng; vậy đã đúng thời, sao Thế Tôn lại muốn bỏ chúng sinh mà nhập vô dư niết
bàn!” Đức Phật liền chấp thuận lời thỉnh cầu của trời Phạm Thiên. Ngài sang
vườn Lộc-uyển, nói bài pháp Tứ Đế đầu
tiên để hóa độ cho nhóm 5 vị đạo sĩ do sa môn Kiều Trần Như lãnh đạo; rồi từ đó
Ngài không ngừng nói giáo pháp tiểu và đại thừa để hóa độ vô số trời, người giải
thoát cái khổ sinh tử luân hồi.
8. Nhập diệt (niết bàn tướng). Đức Thế Tôn hóa độ chúng
sinh suốt 45 năm từ sau ngày thành đạo, bấy giờ đã 80 tuổi đời, đến lúc sắp phải
xả bỏ báo thân, Ngài đến ngự trong rừng cây ta-la ở ngoại ô thành Câu-thi-na; tại
đây, đức Thế Tôn đã nhập niết bàn. Sau lễ trà tì, xá lợi của Ngài được phân làm
8 phần, chia cho 8 nơi xây tháp thờ phượng, cúng dường.
Đó
là thuyết phổ thông về 8 tướng thị hiện của đức Phật; riêng trong luận Đại Thừa Khởi Tín thì không nói tới tướng
“hàng ma”, mà có tướng “trụ
thai” (tức là, sau tướng “thác
thai” là tướng “trụ thai”).
Tám
tướng thị hiện của đức Phật trên đây là chủ thuyết của Phật giáo Bắc-truyền; còn
Phật giáo Nam-truyền thì chủ trương chỉ có 4 sự việc trọng đại (tứ đại sự) trong
cuộc đời đức Phật mà thôi. Bốn sự việc trọng đại đó là: Đản sinh, Thành đạo, Chuyển pháp
luân, và Nhập niết bàn. Bốn nơi đã xảy ra bốn sự việc trọng đại đó được
gọi là “bốn thánh địa” (tứ đại thánh địa), là 4 địa điểm: vườn Lam-tì-ni,
Bồ-đề đạo tràng, vườn Lộc-uyển, và rừng Ta-la song-thọ.
Nhận xét
Đăng nhận xét