SỐ 5
LƯỢC GIẢI NHỮNG PHÁP SỐ CĂN BẢN
Cư Sĩ Hạnh Cơ biên soạn
NĂM ẤM (ngũ ấm)
Cư Sĩ Hạnh Cơ biên soạn
NĂM ẤM (ngũ ấm)
Năm ấm tức là
năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức – xin xem mục “Năm Uẩn” ở dưới). Chữ Hán “ấm”
có nghĩa là che khuất, ngày xưa được
các nhà “cựu dịch” dùng để dịch chữ Phạn “skandha”;
vì quan niệm rằng, năm thứ sắc, thọ, tưởng, hành, thức che lấp chân tính, làm
cho chúng sinh trôi lăn trong sinh tử luân hồi, cho nên năm thứ ấy được gọi là “năm ấm”.
Nhưng chữ “skandha” cũng còn có nghĩa
là chứa nhóm, và các nhà “tân dịch” quan niệm rằng, năm yếu tố sắc, thọ, tưởng,
hành, thức vốn không có tính che lấp, mà chúng chỉ tích tụ lại, hòa hợp lại để
làm nên thân tâm con người; vì vậy, chữ Phạn “skandha” đã được dịch lại là “uẩn” (có nghĩa là tích tụ). Quan niệm này rất hợp lí. Xem như đức Phật, thân tâm của
Ngài cũng do năm yếu tố sắc, thọ, tưởng, hành, thức hòa hợp tạo nên, nhưng
chúng có che lấp chân tính của Ngài đâu! Cho nên, che lấp hay không che lấp, đều
do bởi chính con người, không phải do bản chất của năm yếu tố ấy. Dù vậy, do
thói quen, ngày nay hai từ “ngũ ấm”
và “ngũ uẩn” vẫn được dùng song hành.
NĂM CÁI THẤY
SAI LẠC (ngũ kiến - ngũ ác kiến)
“Kiến” là thấy,
là nhận định, là quan điểm. Vì không tu học Phật pháp, vì không đủ sáng suốt,
người ta thường bị mắc kẹt vào năm quan
điểm sai lầm trong khi nhìn thực tại. Năm quan điểm sai lầm này cũng là năm
trong mười loại phiền não gốc rễ (thập
căn bản phiền não); và cũng là năm động lực
sai khiến nhạy bén (ngũ lợi sử),
đã góp phần mạnh mẽ trong việc tạo khổ đau cho đời sống.
1. Cái thấy sai
lạc về ngã (thân kiến).
Nhìn thân thể, người ta
không thấy được đó là thành phẩm của hợp thể ngũ uẩn, không thấy được tính cách giả tạm của nó mà lại cho rằng
thật có thân, và chính thân này là ta (ngã
kiến). Từ quan điểm cho rằng “có thân
ta” ấy mà nhìn ra chung quanh, người ta lại thấy có rất nhiều những người,
những vật khác là “thuộc về ta” (ngã sở kiến); cái thấy “có thân ta” và “thuộc về ta” ấy là cái thấy
sai lạc về “ngã” – tức là “thân kiến”.
2. Cái thấy cực
đoan (biên kiến).
Do cái thấy sai
lạc về ngã mà sinh ra cái thấy cực
đoan, hoặc cho rằng cái ngã kia sau khi chết là mất hẳn (đoạn kiến); hoặc nó sẽ tồn tại vĩnh viễn,
nếu là người thì muôn kiếp vẫn làm người, con heo con chó thì nghìn đời vẫn là con
heo con chó (thường kiến). Những quan
niệm cho rằng một là thế này, hai là thế nọ, như bảo mọi vật là có thật hay mọi
vật là không; đã thích ai thì cứ cho người đó là hoàn toàn tốt, chỉ theo phục vụ,
ca tụng, tâng bốc, tuyên truyền cho người đó, và coi những người khác là hoàn
toàn xấu, đáng khinh khi v.v..., những cái thấy như thế đều là cực đoan; từ đó mà người ta hay chia
phe, chia đảng, chia bè, chia phái để tranh giành lợi lộc, hơn thua, thị phi, rồi
sinh ra hận thù, ganh ghét, hờn oán, phá hoại.
3. Cái thấy
xuyên tạc, không đúng sự thật (tà kiến).
Một khi đã có quan điểm cố chấp về ngã và về tính cách
thường còn hay mất hẳn của ngã thì người ta sẽ không thấy được lí duyên sinh, luật nhân quả cùng các tính chất khổ,
không, vô thường, vô ngã và bất tịnh
của vạn vật. Và khi đã không được soi sáng bằng các đạo lí trên thì cái thấy sẽ
không thể nào đúng với sự thật; vả chăng, đó chỉ là cái thấy méo mó, xiêu vẹo,
xuyên tạc sự thật. Những quan niệm cho rằng mọi việc ở đời đều đã do trời định,
đều đã được thượng đế an bài sẵn cả rồi; vạn vật trong vũ trụ là do một đấng
sáng tạo sinh ra; đau bịnh, hoạn nạn là do ông thần này hành, bà thần kia phạt v.v...,
đều là tà kiến.
4. Cố chấp vào
những kiến thức đã có (kiến thủ kiến).
Đối với ba cái thấy ở trên (thân, biên và tà kiến), người có tu học Phật pháp, có thực tập quán
chiếu, chắc chắn sẽ thấy được tính cách sai lầm của chúng; ngược lại, người
không tu học Phật pháp sẽ cho đó là những quan điểm chính đáng. Vì cho là đúng
nên họ khư khư ôm giữ lấy, và suốt đời cứ nhìn sự vật bằng các quan điểm ấy;
không có gì làm cho sửa đổi được. Nguy hại này còn có thể lan tràn nếu họ có ý
muốn tuyên truyền để thuyết phục hoặc cưỡng ép người khác phải theo quan điểm của
họ. Thái độ cố chấp ấy gọi là “kiến thủ
kiến”. Dĩ nhiên, những người có tu học thực sự thì nhận thức của họ chắc chắn
sẽ được điều chỉnh, cái thấy của họ không còn sai lạc nữa mà trở nên đúng đắn,
hợp với giáo pháp. Dù vậy, nếu họ lại tự mãn với những kiến thức đó, khư khư ôm
giữ lấy, không chịu học hỏi thêm để tiến tới nữa, thì những kiến thức ấy, dù là
đúng đắn, chính đáng đến đâu, cũng lại hóa thành một thứ kiến thủ kiến; bởi vì, khi mà trí tuệ giác ngộ chưa đạt được thì mọi
kiến thức, dù là chính đáng, đều chưa phải là chân lí tuyệt đối, cần phải vượt
bỏ để tiếp tục học hỏi và tiến tới nữa. Như leo lên bậc cấp, phải bỏ bậc cấp thứ
nhất mới bước lên được bậc cấp thứ hai, và kế tiếp... Nếu không vượt bỏ kiến thức
đã có thì hành giả phải bị mắc kẹt vào kiến
thủ kiến, và sẽ không tiến thêm được trên bậc thang giác ngộ.
5. Cố chấp vào
các giới cấm sai lạc (giới cấm thủ kiến).
Cũng như chữ “thủ”
trong từ “kiến thủ” ở trên, chữ “thủ” ở đây có nghĩa là ôm giữ lấy, bảo
vệ lấy, bị mắc kẹt vào một cái gì. Giới luật,
như chúng ta đã có dịp đề cập tới trong mục “Ba
Môn Học Giải Thoát” ở trước, là một trong ba yếu tố tu học căn bản đưa hành
giả đến thành quả giác ngộ. Nhưng trong
thế giới loài người từ xưa đến nay, kể cả trong thế kỉ trụ thế của đức Phật, chúng
ta thấy nhan nhản những loại giới cấm sai lầm, vô lí mà người ta hoặc bị mê hoặc,
hoặc bị cưỡng bách phải tuân giữ. Ví dụ, có thứ giới cấm bảo rằng, người ta phải
tôn kính con bò, không được ăn thịt hay đánh đập nó – dù nó có phá làng phá xóm
hay húc chết người cũng không được đụng đến nó. Hoặc có thứ giáo điều bảo mọi
người phải tin rằng trái đất hình vuông, hoặc mặt trời quay chung quanh trái đất,
ai nói khác điều đó là phản loạn, phải bị hành hình! v.v... Những luật lệ như vậy
đều là sai lạc, không phải là giới luật của người có trí tuệ. Mặt khác, có những
người tu học Phật pháp, lấy giới luật Phật chế làm kim chỉ nam hành động, nhưng
vì thiếu sáng suốt hay vì tính cố chấp, nông cạn, không thấy được bản chất của
giới luật, nên trong lúc hành trì có thể gây hậu quả tai hại cho chính bản
thân, và còn có khi cho cả những người chung quanh. Ví dụ, có người vì muốn
hành trì giới “bất sát” một cách triệt
để, đã nhịn ăn uống mà chết, vì nghĩ rằng, dù ăn một miếng cơm hay uống một ngụm
nước, cũng đã giết hại không biết bao nhiêu là sinh mạng! Có người lại cho rằng,
tu hành là đừng để tâm đến thế sự, rồi cứ ẩn cư thiền tọa, bỏ mặc cuộc đời đói
khổ, đau thương, quên mất nhiệm vụ độ sinh cao cả của người tu học. Đó đều là thái độ cố chấp vào giới luật của
những người “y ngữ, bất y nghĩa”,
trái ngược với ý thức “y nghĩa, bất y ngữ”
(một trong “Bốn Sự Y Cứ” vừa
trình bày ở trước) của người tu học chân chính, có được cái thấy sáng suốt về bản
chất của giới luật và hành trì một cách thông minh để đem lại lợi lạc cho bản
thân và cho cả môi trường sống chung quanh.
NĂM CON MẮT (ngũ nhãn)
“Con mắt” ở đây
có ý nghĩa trừu tượng nhiều hơn là cụ thể, nhằm trình bày về cái “sức thấy” (nhãn lực) của con mắt thường
thì ít mà của “con mắt trí tuệ” thì nhiều.
1) Con mắt thịt
(nhục nhãn), tức con mắt của kẻ
phàm phu, nhìn thấy mọi sự vật đều sai lầm.
2) Con mắt trời
(thiên nhãn), tức con mắt của chư
thiên cõi Sắc, do tu tập thiền định mà có, thấy thấu suốt mọi vật ở thế gian,
không luận xa gần, không bị chướng ngại bởi ngày đêm, không bị bất cứ vật gì ngăn
cách.
3) Con mắt tuệ
(tuệ nhãn), tức con mắt trí tuệ của
hàng nhị thừa (Thanh-văn và Duyên-giác), thấy được lí chân không vô tướng của các
pháp.
4) Con mắt pháp
(pháp nhãn), tức con mắt trí tuệ
của chư vị Bồ-tát, thấy tất cả vạn pháp bằng cái thấy trung đạo, không thiên có,
không thiên không, và thấu suốt tất cả mọi pháp môn để cứu độ chúng sinh.
5) Con mắt Phật
(Phật nhãn), gồm đủ tất cả bốn loại
mắt ở trên, không dùng trí suy nghĩ mà khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, không
có gì là không thấy, không nghe, không biết; nghe và thấy dung thông.
NĂM CỖ XE (ngũ thừa)
Từ “cỗ xe” (thừa) được dùng để
ví dụ cho giáo pháp của Phật có khả năng chuyên chở chúng sinh vượt biển sinh tử
sang bờ giải thoát. Con đường vượt thoát sinh tử tùy theo căn cơ của chúng sinh
mà có ngắn có dài, có mau có chậm; bởi vậy, giáo pháp của Phật cũng có nhiều pháp
môn để thích ứng với các loại căn cơ đó. Một cách tổng quát, tất cả chúng sinh được
gồm trong 9 cõi (cửu giới), từ thấp lên cao là Địa-ngục, Ngạ-quỉ, Bàng-sinh,
A-tu-la, Người, Trời, Thanh-văn, Duyên-giác, và Bồ-tát. Sáu cõi đầu thuộc trong
vòng ba cõi; ba cõi sau ở ngoài ba cõi. Mục đích cuối cùng của Phật pháp là đưa
chúng sinh vượt ra khỏi ba cõi, đạt đến cảnh giới an lạc giải thoát; nếu chưa
thoát được ra khỏi ba cõi thì tối thiểu cũng phải được sinh vào cõi Người, rồi
từ đó lại tiếp tục tu tập để tiến đến giải thoát. Vậy, giáo pháp của đức Phật có
khả năng làm cho chúng sinh không đọa lạc vào 4 cảnh giới xấu ác đầy đau khổ là
Địa-ngục, Ngạ-quỉ, Bàng-sinh, và A-tu-la; mà tùy theo căn cơ và duyên nghiệp có
thể sinh vào 5 cảnh giới ít đau khổ hoặc hoàn toàn an vui giải thoát là Người,
Trời, Thanh-văn, Duyên-giác, và Bồ-tát. Có 5 pháp môn tu tập khác nhau cho 5 cõi
này, mà thuật ngữ Phật học gọi là “ngũ thừa”:
1. Nhân thừa là giáo pháp bước đầu và căn bản nhất có khả năng giúp
chúng sinh không bị đọa lạc vào 4 đường dữ (tứ ác đạo: A-tu-la, Súc-sinh, Ngạ-quỉ,
Địa-ngục), mà được sinh vào cõi Người (Nhân đạo), đó là thọ trì “ba sự quay về nương tựa” (tam qui) và
giữ gìn “năm điều răn cấm” (ngũ giới).
Đây là điều vô cùng quan trọng, vì chỉ có con người mới có nhiều điều kiện thuận
tiện để tu hành, giúp hành giả tiến lên các cõi cao hơn.
2. Thiên thừa là giáo pháp có khả năng chuyên chở chúng sinh từ cõi
Người tiến lên các cõi Trời (Thiên đạo), hưởng phước báo an vui, thọ mạng lâu dài
hơn cõi người rất nhiều; đó là giáo pháp “mười
nghiệp lành” (thập thiện nghiệp) và
“bốn thiền tám định” (tứ thiền bát định).
3. Thanh-văn thừa là giáo pháp có khả năng chuyên chở chúng sinh vượt
thoát khỏi ba cõi, chấm dứt sinh tử, đạt đến cảnh giới hữu dư niết bàn,
thành bậc A-la-hán; đó là giáo pháp “bốn sự thật cao quí” (tứ diệu đế).
4. Duyên-giác
thừa là giáo pháp có khả năng
chuyên chở chúng sinh vượt thoát khỏi ba cõi, chấm dứt
sinh tử, đạt đến cảnh giới vô dư niết bàn, thành bậc Bích-chi Phật; đó là
giáo pháp “mười hai nhân duyên” (thập nhị
nhân duyên).
5. Bồ-tát thừa là giáo pháp có khả năng chuyên chở chúng sinh không
những vượt thoát khỏi ba cõi, mà còn siêu việt cả các cảnh giới
Thanh-văn, Duyên-giác, đạt đến cảnh giới đại niết bàn, thành tựu quả vị
Bồ-đề
Vô-thượng (tức quả Phật); đó là pháp môn “sáu pháp qua bờ” (lục độ) với sự phát huy tinh thần bi trí để cứu độ
chúng sinh.
NĂM DỤC VỌNG
(ngũ dục)
Tất cả những gì có sức quyến rũ con người trong cõi Dục
này, được giáo lí Phật giáo bao gồm trong 5 thứ. Chúng là đối tượng ham muốn của
con người; và cũng vì lòng tham đắm của con người sâu thăm thẳm, rộng không bờ
bến, dai dẳng không ngưng nghỉ, bám chặt không buông thả, cho nên con người đã
trở nên ích kỉ, mù quáng, ngông cuồng, hiểm ác, dã man, tàn bạo, để từ đó gây
ra không biết bao nhiêu cảnh thống khổ, đau thương cho chính đồng loại, và cả đồng
bào hoặc đồng tộc của mình. Năm thứ dục vọng ấy là:
1. Tiền của
(tài): chỉ cho tất cả những thứ
gì có thể làm thành tài sản vật chất của con người.
2. Sắc dục (sắc): cũng gọi là ái dục, tức là đời sống tình dục, lạc thú
thể xác của con người do sự luyến ái giữa nam nữ đem lại.
3. Danh vị
(danh): danh vọng và địa vị của
con người trong xã hội.
4. Ăn uống (thực): những gì có thể nuôi sống thân mạng con người.
5. Ngủ nghỉ (thụy): sự ngủ nghỉ và tất cả những gì liên quan đến nó.
Mặt khác, trong kinh Hiền Nhân, năm thứ dục vọng được kể ra
như sau:
1. Các thứ hình
sắc tốt đẹp ở trần gian (sắc
– đối tượng tham dục của mắt).
2. Các thứ âm
thanh tuyệt diệu (thanh – đối
tượng tham dục của tai).
3. Các loại mùi
hương thơm quí (hương – đối
tượng tham dục của mũi).
4. Các thức
ngon vị ngọt (vị – đối tượng tham dục của lưỡi).
5. Các sự chạm
xúc êm dịu, đê mê của da thịt (xúc
– đối tượng tham dục của thân).
NĂM ĐỊA VỊ (ngũ vị)
Quá trình tu tập của tiểu thừa
cũng như đại thừa, từ lúc phát tâm tu hành cho đến khi đạt được quả vị tối thượng,
đều trải qua năm địa vị:
A. Năm địa vị của tiểu thừa:
1. Địa vị Tư-lương: cũng tức là địa vị Ba-hiền (xin xem lại mục “Ba-hiền” ở trước). Chữ “tư”
nghĩa là trợ giúp; chữ “lương” nghĩa
là lương thực. Như người đi xa cần có lương thực bên mình để tự nuôi thân, người
tu hành cũng cần phải có lương thực để nuôi lớn huệ mạng; lương thực ở đây là
phước đức và trí tuệ. Tư lương chính
là vốn liếng để đi đến bồ đề niết bàn; vốn liếng ở đây là tất cả mọi pháp lành.
Có bốn loại tư lương: 1) Tư lương phước đức:
Tu tập các hạnh bố thí, trì giới, nhẫn nhục, v.v... 2) Tư lương trí tuệ: Tu tập quán chiếu để phát huy trí tuệ bát nhã.
3) Tư lương đời trước: Tất cả những
nghiệp lành đã tu tập trong đời quá khứ. 4)
Tư lương đời này: Tất cả các nghiệp lành đang tu tập trong đời hiện tại.
2. Địa vị Gia-hạnh: cũng tức là địa vị Bốn-thiện-căn (xin xem lại mục “Bốn Thiện Căn” ở trước).
3. Địa vị Kiến-đạo: tức quả Dự-lưu, hay nói chính xác hơn, đó là bước đầu
của quả Dự-lưu, gọi là Dự-lưu-hướng. Kiến-đạo
là một địa vị trong quá trình tu tập của hàng tiểu thừa. Dùng trí tuệ vô lậu
quán chiếu thấy rõ nguyên lí bốn sự thật, gọi là “kiến đạo”. Hành giả, sau khi tu tập hoàn mãn địa vị Ba-hiền, rồi địa
vị Bốn-gia-hạnh, thì trí vô lậu phát sinh, vượt khỏi địa vị phàm phu, tiến lên
địa vị Kiến-đạo. Vậy, Kiến-đạo là bước đầu tiên trên con đường thánh nhân. Các
phiền não cần đoạn trừ để đạt được địa vị Kiến-đạo, gọi là “kiến hoặc”.
4. Địa vị Tu-đạo: tức là hai quả Nhất-lai và Bất-hoàn, hay nói chính
xác hơn, đó là địa vị bao gồm các hạng Dự-lưu-quả, Nhất-lai-hướng, Nhất-lai-quả,
Bất-hoàn-hướng, Bất-hoàn-quả, và A-la-hán-hướng. Địa vị này hoàn toàn đoạn dứt phần “tư hoặc cõi Dục”.
5. Địa vị Vô-học: tức là quả A-la-hán, hay nói chính xác hơn, đó là hạng
A-la-hán-quả. “Vô học” là đối lại với “hữu
học”. Hành giả đã thông đạt cùng cực chân lí, không còn pháp nào để học nữa;
đã đoạn trừ hết các kiến, tư hoặc trong ba cõi, không còn thứ mê hoặc nào để đoạn
trừ nữa; cho nên gọi là bậc Vô-học.
Ghi
chú:
Từ “Vô-học” trong kinh luận thường
được dùng để chỉ cho quả vị A-la-hán
của Thanh-văn thừa, hay quả vị Bích-chi
Phật của Duyên-giác thừa, hoặc quả vị Diệu-giác
(Phật) của Bồ-tát thừa.
B. Năm địa vị của đại thừa:
1. Địa vị Tư-lương: (Xin xem
ý nghĩa từ “tư lương” vừa trình bày ở trên.) Địa
vị đầu tiên trên quá trình tu tập của Bồ-tát thừa cũng có tên là Tư-lương, tức “Tư-lương vị”. Địa vị này, từ thấp lên
cao, gồm có 4 cấp: Mười-tín (10 bậc Tín), Mười-trụ (10 bậc Trụ), Mười-hạnh (10
bậc Hạnh), và Mười-hồi-hướng (10 bậc Hồi-hướng) (1). Hành giả ở địa vị này, trải
qua bốn mươi bậc, tu tập mọi pháp lành để tích tụ phước đức và phát triển trí
tuệ, chuẩn bị hành trang trên đường đi đến quả vị vô thượng bồ đề. – Xin nói
thêm: Mười bậc Tín (tức cấp Mười-tín) vốn được chia nhỏ ra từ bậc Phát-tâm-trụ,
là bậc đầu tiên của cấp Mười-trụ. Vì vậy, nếu thu mười bậc Tín ấy vào lại trong
bậc Phát-tâm-trụ, thì 4 cấp thuộc địa vị Tư-lương chỉ còn 3 cấp Mười-trụ, Mười-hạnh
và Mười-hồi-hướng. Ba cấp này, nếu được gộp chung lại thì gọi là địa vị Ba-hiền.
Do đó, địa vị Tư-lương cũng tức là địa vị Ba-hiền.
2. Địa vị Gia-hạnh: Sau khi hoàn mãn địa vị Tư-lương, hành giả cần gia
công tu tập, trải qua thêm bốn bậc Noãn, Đảnh, Nhẫn, và Thế-đệ-nhất,(2) phát sinh
trí vô lậu, gọi là địa vị Gia-hạnh (cũng tức là địa vị Bốn-gia-hạnh). Từ địa vị
này, hành giả tiến vào bậc Sơ-địa Bồ-tát.
3. Địa vị
Thông-đạt (cũng gọi là địa vị Kiến-đạo):
Đây là địa vị thứ ba trên quá trình tu tập của Bồ-tát thừa. Hành giả, sau khi đã
trải qua một a tăng kì kiếp tu tập hoàn mãn địa vị Tư-lương, rồi địa vị Bốn-gia-hạnh,
thì trí vô lậu phát sinh, thể hội thể tánh chân như bình đẳng, thấy được lí
trung đạo, vượt khỏi địa vị phàm phu, bước lên bậc Sơ-địa Bồ-tát – nói chính xác
hơn là giai đoạn “nhập tâm”(3) của Sơ-địa Bồ-tát.
4. Địa vị Tu-tập: là địa vị của hành giả đại thừa từ giai đoạn “trụ tâm”
(xin xem chú thích số 3 ở dưới) của bậc Sơ-địa cho đến bậc Đẳng-giác Bồ-tát. Ở địa vị
này, dù đã chứng đắc lí thể chân như, hành giả cũng vẫn tiếp tục tinh cần đoạn
trừ hoặc chướng, chuyên tâm tu tập để phát huy căn bản trí – cho nên cũng gọi là
địa vị Tu-đạo.
5. Địa vị Cứu-cánh: tức địa vị Diệu-giác, cũng tức là quả vị Phật-đà. Bồ-tát tu tập tiến đến địa
vị Đẳng giác, về trình độ giác ngộ thì tương đồng với Phật, nhưng trên thực tế
tu hành thì vẫn còn vướng một phẩm vô minh vi tế. Thánh giả đã trải qua 2 a- tăng-kì
kiếp để tu tập hoàn mãn địa vị Tu-tập, khi vừa đoạn trừ tuyệt sạch phẩm vô minh
vi tế cuối cùng này thì hạnh giác ngộ hoàn toàn viên mãn, trí tuệ viên diệu, cùng
cực thanh tịnh, không còn gì hơn nữa, cho nên gọi là “Cứu-cánh”, trở thành một
đức Phật. Vậy, Diệu-giác chỉ là một tên gọi khác của Phật; và đó là địa vị rốt
ráo, nấc thang tột cùng của tiến trình tu hạnh Bồ-tát.
(1) Xin xem các
mục “Mười Tín”, “Mười Trụ”, “Mười Hạnh”, “Mười Hồi Hướng” ở sau.
(2) Xin xem lại
mục “Bốn Thiện Căn” ở trước.
(3) Từ bậc Sơ-địa
cho đến bậc Thập-địa Bồ-tát, mỗi địa đều gồm 3 giai đoạn, gọi là “ba tâm”: - Giai
đoạn đầu, “nhập tâm”: mới bước vào,
chưa an trụ; - Giai đoạn giữa, “trụ tâm”:
thời gian an trụ ở địa đó; - Giai đoạn chót, “xuất tâm”: thời gian cuối cùng, lúc sắp ra khỏi địa đó đề bước lên
địa bên trên.
NĂM ĐỘN SỬ (ngũ độn
sử)
Chữ “độn” nghĩa là ngu đần, ám độn; chữ “sử” nghĩa là sai khiến. “Sử” là một tên gọi khác của “căn bản phiền não”. 5 thứ phiền não căn
bản tham,
sân, si, mạn, nghi chính là 5 động lực sai khiến chúng sinh tạo vô số ác
nghiệp để phải trôi lăn mãi trong dòng sinh tử; bản tính của chúng ngu độn, ù lì,
rất khó dứt trừ, cho nên gọi là “5 độn sử”. (Xin xem các mục “Sáu Phiền Não Gốc Rễ” và
“Mười Động Lực Sai Khiến” ở sau.) 5 độn sử cũng
được gọi là “5 hoặc”, nghĩa là 5 tâm mê vọng.
NĂM KHẢ NĂNG
và NĂM SỨC MẠNH (ngũ căn, ngũ lực)
“Căn” là gốc
rễ (như trong từ “căn bản”), là điểm
tựa (như trong từ “căn cứ”). “Ngũ
căn” là năm nền tảng, năm điểm tựa, từ đó các pháp lành được phát sinh;
hay nói cách khác, đó là năm khả năng phát sinh và nuôi lớn các thiện pháp. Năm
khả năng đó là:
1. Lòng tin tưởng sâu đậm vào Ba Ngôi Báu (tín căn).
2. Chí kiên trì tu học và hành đạo (tinh tấn căn).
3. Thường trực sống trong tỉnh
thức (niệm căn).
4. Tâm ý tập
trung, tĩnh lặng (định căn).
5. Quán chiếu để thấy rõ chân
lí (tuệ căn).
Khi “năm khả năng” (ngũ căn)
trở nên lớn mạnh thì chúng sẽ là “năm sức mạnh” (ngũ lực) có thể đánh
tan mọi phiền não, chướng ngại. Vì vậy, năm
khả năng và năm sức mạnh bao giờ cũng liên quan mật thiết với nhau. Có được
năm khả năng là có được năm sức mạnh:
1. Khi lòng tin
tưởng vào Ba Ngôi Báu trở nên lớn mạnh (tín lực) thì có thể đánh tan được mọi tin tưởng sai lầm.
2. Khi chí kiên
trì tu học và hành đạo trở nên lớn mạnh (tinh tấn lực) thì có thể đánh tan tính lười biếng, buông lung, hôn
trầm của bản thân.
3. Khi nếp sống
tỉnh thức đã trở nên lớn mạnh (niệm lực) thì không còn những tư tưởng sai quấy, không nghĩ đến
những điều vô ích.
4. Khi sự tập
trung của tâm ý trở nên lớn mạnh (định lực) thì mọi loạn tưởng sẽ tan biến hết.
5. Khi trí tuệ
quán chiếu trở nên lớn mạnh (tuệ lực) thì
mọi phiền não, kiến chấp, vô minh đều bị bật hết gốc rễ.
Do tính chất đó, năm khả năng và năm sức mạnh đã trở
thành những trợ lực quan trọng cho hành giả trên tiến trình giác ngộ.
NĂM GIAI ĐOẠN
TÂM BIẾT VẬT (ngũ tâm)
Khi tâm thức tiếp xúc và nhận
biết đối tượng, phải trải qua năm giai đoạn theo thuận tự như sau:
1. Suất nhĩ, nghĩa là đột nhiên hiện khởi. Ví dụ, khi nhãn thức tiếp
xúc với cảnh vật, thì sự khởi động của tâm ở cái sát na đầu tiên là sự phát khởi
mặc ý một cách đột nhiên, chưa có niệm phân biệt tốt xấu nào; tâm thức ở giai đoạn
đó được gọi là “suất nhĩ tâm”.
2. Tầm cầu, nghĩa là muốn biết rõ đối tượng. Sau giai đoạn đột
nhiên phát khởi, tâm thức muốn tìm kiếm, suy xét để biết đối tượng là vật gì. Tâm
thức ở giai đoạn này đã sinh khởi cái biết phân biệt, và được gọi là “tầm
cầu tâm”.
3. Quyết định, nghĩa là thẩm định tốt xấu. Sau khi đã có cái thấy phân
biệt về đối tượng, đây là giai đoạn mà tâm thức thẩm định đối tượng ấy là tốt
hay xấu, được gọi là “quyết định tâm”.
4. Nhiễm tịnh, nghĩa là thích hay không thích. Sau khi đã thẩm định đối
tượng là tốt hay xấu, đây là giai đoạn tâm thức tỏ rõ tình cảm yêu ghét đối với
đối tượng, được gọi là “nhiễm tịnh tâm”.
5. Đẳng lưu,
nghĩa là giữ mãi tình cảm yêu ghét. Đã có tình cảm yêu ghét phân biệt đối với đối
tượng tốt xấu, tâm thức sẽ tiếp tục giữ mãi mối tình cảm phân biệt ấy: đã yêu
thích đối tượng tốt thì cứ tiếp tục giữ niệm yêu thích ấy đối với đối tượng tốt
ấy; đã ghét bỏ đối tượng xấu thì cứ tiếp tục giữ niệm ghét bỏ đối với đối tượng
xấu ấy; được gọi là “đẳng lưu tâm”.
Trong năm giai đoạn của tâm
biết vật trên đây, chỉ có giai đoạn đầu là kéo dài trong một niệm, còn cả bốn giai đoạn sau thì kéo dài hơn một niệm.
NĂM GIỚI (ngũ giới)
Ý nghĩa của “giới”
đã được đề cập tới trong mục “Ba Môn Học
Giải Thoát” ở trước. Năm giới sau
đây được dành riêng cho chúng tại gia. Dù vậy, chẳng những chúng làm căn bản đức
hạnh cho chúng tại gia mà còn làm căn bản đức hạnh cho cả chúng xuất gia.
1. Không sát hại (bất sát
sinh).
Không được giết hại sinh mạng,
không được tán thành sự chém giết. Phải tìm mọi cách có thể để bảo vệ sinh mạng.
Phải chọn một nghề nghiệp không gây tàn hại cho con người, muôn vật và thiên
nhiên.
2. Không trộm cướp (bất đạo).
Không được lấy làm tư hữu những
tiền bạc và của cải không phải do mình tạo ra, hoặc do người khác biếu tặng. Phải
biết ngăn ngừa những kẻ tích trữ và làm giàu bất lương không kể gì đến sự đau
khổ của những kẻ bị áp bức và thua thiệt.
3. Không tà dâm (bất tà
dâm).
Không được ăn nằm với những
người không phải là vợ hay chồng mình. Phải ý thức được những đau khổ mà mình
có thể gây ra cho kẻ khác vì hành động bất chính của mình. Muốn bảo vệ hạnh
phúc của mình và của người khác thì phải biết tôn trọng những cam kết của mình
và của người khác.
4. Không vọng
ngữ (bất vọng ngữ).
Không được nói những điều
sai với sự thật. Không được nói những lời gây chia rẽ và căm thù. Không được
loan truyền những tin tức mà không biết chắc là có thật. Không được phê bình và
lên án những điều mình không biết chắc. Không được nói những điều có thể tạo
nên sự bất hòa trong gia đình và trong đoàn thể, những điều có thể làm tan vỡ
gia đình và đoàn thể. Phải nói những lời chân thật và có giá trị xây dựng sự hiểu
biết và hòa giải.
5. Không uống
rượu và dùng các chất ma túy (bất ẩm tửu).
Không được uống rượu và dùng
các chất ma túy. Phải ý thức được rằng thân thể mình là do tổ tiên và dòng họ
trao truyền lại, và tàn hại thân thể mình bằng rượu và các chất ma túy là một tội
bất hiếu đối với tổ tiên và dòng họ.
NĂM HẠNH (ngũ hạnh)
Hành giả tu hạnh Bồ-tát, cần
tu tập 5 hạnh sau đây:
1. Thánh hạnh. Chữ “thánh”
ở đây ý nói là chân chính. Các hành động của Bồ-tát đều nương vào giới định tuệ
làm chuẩn mực, gọi là “thánh hạnh”.
2. Phạm hạnh. Chữ “phạm”
có nghĩa là thanh tịnh. Bồ-tát không vướng mắc vào hai cực đoan có và không, cho nên không bị nhiễm ô, tâm thường thanh tịnh. Bằng tâm
thanh tịnh này mà vận dụng đức từ bi, cứu giúp chúng sinh hết đau khổ được an
vui, gọi là “phạm hạnh”.
3. Thiên hạnh. Chữ “thiên” ở đây tức là thiên nhiên. Bồ-tát thể hội được
cái lí tánh của thiên nhiên, tức tánh không của vạn pháp, mà thành tựu được diệu
hạnh, gọi là “thiên hạnh”.
4. Anh nhi hạnh. Chữ “anh nhi”
nghĩa là trẻ con, ở đây dùng ví dụ cho trời, người và các hành giả tiểu thừa. Với
tâm từ bi, Bồ-tát tự coi mình đồng như trời, người và Thanh-văn, Duyên-giác, không
có việc thiện nhỏ nào mà không làm, gọi là “anh
nhi hạnh”.
5. Bệnh hạnh. Chữ “bệnh” ý
nói là phiền não, bệnh khổ. Vì cứu độ chúng sinh, Bồ-tát vận dụng tâm đại bi bình
đẳng, thị hiện các thân tướng phiền não, bệnh khổ đồng như chúng sinh, gọi là “bệnh hạnh”.
NĂM HOẶC (ngũ hoặc)
(Xin xem lại mục “Năm
Độn Sử” ở trên.)
NĂM LỢI SỬ (ngũ lợi sử)
Chữ “lợi”
ở đây nghĩa là mạnh mẽ, nhạy bén. “5 lợi sử” là tên gọi khác của “5
cái thấy sai lạc” (ngũ kiến – cũng
tức là “ác kiến” trong 6 loại phiền não căn bản). Đó là 5 thứ kiến chấp
độc hại, khiến cho chúng sinh mê muội, không nhận chân được chân lí của vạn pháp,
từ đó mà gây bao ác nghiệp để phải mãi mãi trầm luân; tính chất của chúng mạnh
mẽ, nhạy bén, tuy không nặng nề bằng 5 thứ “độn
sử”, nhưng cũng khó dứt trừ tuyệt sạch, nên gọi là “5 lợi sử”. (Xin xem lại mục “Năm Cái Thấy Sai Lạc” ở
trên, và hai mục “Sáu Phiền Não Gốc Rễ”, “Mười Động Lực Sai Khiến” ở sau.)
NĂM PHÉP
QUÁN (ngũ quán)
Có ba pháp số về “Năm Phép Quán”:
A. Năm Phép Quán Ngưng Loạn Tưởng (ngũ đình tâm
quán).
Năm phép quán niệm này có
công năng chận đứng loạn tưởng, dập tắt phiền não, làm cho tâm ý được định
tĩnh, sáng suốt, là bước đầu của tiến trình tu định.
1. Quán niệm thân thể và vạn vật đều là nhiễm ô, không trong sạch (bất tịnh
quán), do đó mà chận đứng được tâm
tham dục.
2. Quán niệm để thấy mọi người và mọi loài đang phải sống
khổ đau vì vô minh, do đó phát khởi tình
thương rộng lớn (từ bi quán),
và nhờ vậy mà dứt bỏ được tâm sân hận,
oán thù.
3. Quán niệm về đạo lí duyên khởi trong quá trình sinh diệt của vạn hữu (nhân duyên
quán) để thấy rõ chân tướng của thực tại, nhờ đó mà dứt bỏ được tâm ngu si, tà kiến, cố chấp.
4. Quán niệm về 6
nguyên tố (lục đại: rắn chắc, lưu nhuận, viêm nhiệt, chuyển động, trống rỗng,
tâm thức) tạo thành bản thân, hoặc về 18 khu vực (thập bát giới) của thân (6 căn), cảnh (6 trần), và nhận thức
(6 thức). Sự phân tích này giúp ta thấy được sự giả hợp của thân tâm mà ta thường
cho đó là cái “ta”, nhằm đánh tan tâm chấp ngã (ngã kiến). Danh từ Phật học
Hán Việt gọi phép quán niệm này là “giới
phân biệt quán”. (“Giới” nghĩa là
khu vực.)
5. Quán niệm hơi thở bằng cách đếm hơi thở vô, hơi thở ra (sổ tức quán), nhằm “cột” tâm
lại, không để giây phút nào bị tán loạn, xao lãng.
Có chỗ lại cho rằng, vì phép
quán niệm thứ tư (giới phân biệt quán)
có cùng tính chất với phép quán niệm thứ ba (nhân
duyên quán), nên gom lại thành một – chỉ có nhân duyên quán; và phép
quán niệm thứ tư được thay bằng Phật quán, tức là quán niệm về thân
tướng trang nghiêm, thanh tịnh và các đức tính cao thượng của đức Phật, từ đó
mà bao nhiêu phiền não, nghiệp chướng đều bị tiêu trừ.
B. Năm Phép Quán Trước Khi Ăn (thực thời ngũ
quán).
Ăn cơm có quán niệm là ăn
cơm trong chánh niệm, ăn cơm trong tỉnh thức. Quán niệm như sau:
1. Nhìn bát cơm, hãy quán niệm về những nguồn lực đã làm cho có bát cơm,
như: bác nông phu, con trâu, cái cày, hạt giống, đất, nước, ánh sáng, nhà máy
xay lúa, phương tiện chuyên chở v.v... Quán niệm như vậy để thấy rằng, bát cơm
đến với ta không phải là chuyện giản dị; không phải chỉ cần bỏ ra đồng bạc là
có được bát cơm. Sự hiện hữu của bát cơm trước mặt ta đồng thời là sự hiện hữu
của cả vũ trụ, trong đó có sự hiện hữu của ta. Bát cơm nuôi sống ta, đồng thời
bảo cho ta biết là ta đang mang một nguồn ơn nghĩa vô tận mà ta có nhiệm vụ phải
đáp đền.
Khi đã thực tập thuần thục,
ta có thể quán niệm điều này bằng một ý tưởng ngắn gọn: “Thức ăn này là tặng phẩm của đất
trời và công phu lao tác.”
2. Nhìn bát cơm, hãy quán niệm về bản thân ta, xem có tư cách xứng
đáng để ăn bát cơm ấy không. Ta nên lặp lại câu nói ở trên: “không phải chỉ cần bỏ ra đồng bạc là có được
bát cơm.” Có những người giàu có tiền muôn bạc triệu nhưng không có tư cách
xứng đáng để ăn bát cơm, hoặc có lúc không có được bát cơm để ăn. Trong thiền
môn có câu châm ngôn: “Bất tác bất thực”
(không làm thì không ăn). Ý nghĩa của
câu châm ngôn này là chính ta phải bỏ công sức ra để góp phần vào việc làm cho
có bát cơm, để ta không phải hổ thẹn khi bưng bát cơm lên đưa vào miệng. Bưng bát cơm lên mà không thấy hổ thẹn tức là
ta được ăn cơm trong an lạc. Như trên vừa nói, sự hiện hữu của bát cơm trước mặt
ta cũng đồng thời là sự hiện hữu của cả vũ trụ, vì vậy, không cứ gì phải trực
tiếp cày cấy, xay lúa giã gạo mới là đóng góp công sức vào bát cơm, mà ta có thể
cống hiến bất cứ khả năng nào mà ta có, cùng với thì giờ và tâm lực cho cuộc đời,
là ta đã góp phần vào việc làm cho có bát cơm rồi vậy.
Khi đã thực tập thuần thục,
ta có thể quán niệm điều này bằng một ý tưởng ngắn gọn: “Xin nguyện sống xứng đáng để thọ
nhận thức ăn này.”
3. Nhìn bát cơm, dù ta đã quán niệm và tự biết mình có tư cách xứng đáng
để ăn bát cơm, nhưng không vì thế mà cho rằng “ta có quyền ăn cho thỏa thích!”
Ta nên tiếp tục quán niệm để biết xót thương những người đang chịu đói khát ở
khắp nơi trên thế giới. Quán niệm như thế ta sẽ bỏ được tính tham lam và phát triển
tình thương trong ta, để một ngày nào đó, có thể lắm, ta sẽ làm được một cái gì
để góp phần vào việc thay đổi tình trạng bất công của cuộc sống hiện nay.
Khi đã thực tập thuần thục,
ta có thể quán niệm điều này bằng một ý tưởng ngắn gọn: “Xin nhớ ngăn ngừa những tật xấu,
nhất là tật tham lam.”
4. Ngồi trước bát cơm mà lòng tham đã bị dập tắt thì hành giả sẽ thấy được
rằng, bát cơm quả thật là phương thuốc mầu nhiệm để nuôi dưỡng
và trị bệnh gầy yếu cho cơ thể. Khi đã thấy rõ như vậy, hành giả sẽ biết quí trọng
thức ăn, và càng cẩn trọng trong việc chọn lựa thức ăn – nghĩa là chỉ ăn những
thức ăn nào có tính chất nuôi dưỡng mà không gây tật bệnh cho cơ thể. Cẩn trọng
như thế là vì hành giả luôn luôn có ý thức rằng, nếu hành giả khỏe mạnh, an vui
thì những người liên hệ chung quanh cũng khỏe mạnh, an vui; nếu hành giả bệnh tật,
đau khổ thì họ cũng bị ảnh hưởng y như vậy.
Khi đã thực tập thuần thục,
ta có thể quán niệm điều này bằng một ý tưởng ngắn gọn: “Chỉ xin ăn những thức ăn có tác
dụng nuôi dưỡng và ngăn ngừa tật bệnh.”
5. Nếu sự đam mê ăn uống không làm cho hành giả tu học và hành đạo được
thì đói khát cũng không thể nào làm cho hành giả tu học và hành đạo được. Cho
nên, khi nhìn bát cơm để trước mặt, hành giả hãy quán niệm để thấy đó là nguồn
năng mầu nhiệm để nuôi sống và bảo vệ thân mạng. Thân mạng có được bảo vệ thì đạo nghiệp mới
viên thành. Không riêng gì cho hành giả, mà bát cơm cũng còn là nguồn năng mầu
nhiệm để nuôi sống và bảo vệ thân mạng của bao nhiêu triệu người đang bị đói khổ
trên thế giới, cũng như của muôn loài chúng sinh khác. Bệnh đói là một chứng bệnh
vô cùng thê thảm trong đời sống nhân loại và mọi loài chúng sinh! Nếu ngồi trước
bát cơm mà thấy được điều đó thì hành giả sẽ phát khởi tình thương rộng lớn và
tâm nguyện vì đời phụng sự, đem khả năng và tâm lực giúp người cứu vật, cho đến
khi thành tựu đạo nghiệp.
Khi đã thực tập thuần thục,
ta có thể quán niệm điều này bằng một ý tưởng ngắn gọn: “Vì muốn thành tựu đạo nghiệp nên
thọ nhận thức ăn này.”
C. Năm Phép Quán của Bồ Tát Quán Thế Âm (Quán Âm ngũ
quán).
Sở dĩ được gọi là “năm phép quán của Bồ Tát Quán Thế Âm” là
vì năm phép quán niệm này được ghi trong kinh Pháp Hoa (phẩm “Phổ Môn”),
khi đức Phật tán dương hạnh nguyện độ sinh của đức Bồ Tát Quán Thế Âm.
1. Chân quán: Quán chiếu về tính không của vạn hữu để trừ
khử mọi kiến chấp và tư tưởng sai lạc, từ đó thấy rõ thật tướng bình đẳng của vạn
hữu.
2. Thanh tịnh
quán: Quán chiếu về tính giả
của vạn hữu để diệt trừ tận gốc rễ mọi phiền não, dù là những loại phiền não vi
tế nằm trong sâu thẳm tận cùng của tàng
thức (a-lại-da), nhờ đó mà tâm thức hoàn toàn thanh tịnh.
3. Trí tuệ
quán: Khi mọi gốc rễ thâm sâu của
vô minh đã bị bật tung hết rồi, khi mà mọi chủng tử ô nhiễm đã chuyển hóa sang
trạng thái thanh tịnh hết rồi, thì tuệ giác bừng sáng, chiếu rọi mười phương,
diệu dụng tự tại vô ngại.
4. Bi quán: Do tâm nguyện độ sinh, Bồ-tát dùng ba phép quán ở
trên quán chiếu mọi khổ não của chúng sinh để giúp họ diệt khổ.
5. Từ quán: Do tâm nguyện độ sinh, Bồ-tát dùng ba phép quán ở
trên quán chiếu mọi khổ não của chúng sinh để đem niềm an vui đến cho họ.
Nếu đem so sánh, ta thấy ba
phép quán đầu của năm phép quán này có phần phù hợp với ba phép quán của tông
Thiên Thai(1):
- chân quán - - - - - - - - -
- - - - - - - không quán
- thanh tịnh quán - - - - -
- - - - - - - giả quán
- trí tuệ quán - - - - - - -
- - - - - - - - trung quán
Nhưng khác nhau ở chỗ, ba phép quán của tông Thiên Thai chỉ đề cập đến thành quả giác ngộ mà không đề cập
đến hạnh nguyện độ sinh như ở năm phép
quán của Bồ Tát Quán Thế Âm.
Mặt khác, nếu so sánh với bốn trí tuệ của bậc giác ngộ(2), ta có thể
coi chân quán là bình đẳng tánh trí, thanh tịnh
quán là đại viên cảnh trí, trí tuệ quán là diệu quan sát trí, và bi quán
cùng với từ quán là thành sở tác trí.
(1) Xin xem lại
mục “Một Tâm Ba Phép Quán” ở trước.
(2) Xin xem lại
mục “Bốn Trí Tuệ” ở trước.
NĂM THỜI
THUYẾT GIÁO (ngũ thời giáo)
Năm thời thuyết giáo không
phải là một chương trình bố giáo của đức Phật do chính Ngài vạch ra sau khi
thành đạo. Thực tế thì trong suốt cuộc đời giáo hóa, đức Phật chỉ sử dụng cách
thức “quán cơ và đối cơ thuyết pháp”.
Năm
thời thuyết giáo chỉ là một cách xét đoán, một cách hệ thống hóa của
truyền thống Phật giáo Trung-hoa về công trình bố giáo của đức Phật trong suốt
cuộc đời hoằng hóa. Có ít ra là 4 thuyết về “ngũ thời giáo” trong
truyền thống Phật giáo Trung-quốc, là các thuyết của Tuệ Quán (đời Lưu-Tống),
Lưu Cầu (đời Nam-Tề), Trí Khải (đời Tùy) và Pháp Bảo (đời Đường), trong đó, thuyết của đại
sư Trí Khải (được trình bày sau đây) là được phổ biến thịnh hành nhất. Thánh điển mà đức Thích Tôn đã giảng nói trong suốt cuộc
đời hóa độ, đại sư đã theo thuận tự thời gian mà phân định làm năm thời kì như
sau:
1. Thời
Hoa-nghiêm: chỉ cho khoảng thời
gian 21 ngày đầu tiên sau ngày thành đạo, ngay tại Bồ-đề đạo tràng, đức Phật
nói kinh Hoa Nghiêm, nội dung cao sâu
huyền diệu, thính chúng gồm toàn chư vị đại Bồ-tát. Kinh Hoa Nghiêm gồm có hai phần rõ rệt: phần đầu và phần sau. Phần đầu
là phần Phật nói trong thời Hoa-nghiêm này. Đó là trí tuệ Phật, là cảnh giới nội
chứng mà đức Thích Tôn vừa thành tựu viên mãn, liền đem giảng nói ngay. Bởi vậy
trong thời pháp này chưa có thính chúng thuộc hàng Thanh-văn, mà chỉ toàn là
hàng Bồ-tát pháp thân. Về sau, tại rừng Thệ-đa (tức vườn Cấp-cô-độc, thành Xá-vệ),
đức Phật nói phần sau của kinh Hoa Nghiêm
(tức phẩm “Nhập Pháp Giới”), mới có
chúng Thanh-văn tham dự. Với đặc điểm như vừa nói, thời Hoa-nghiêm cũng được gọi
là thời “Nhật chiếu cao sơn” (mặt trời mới lên, soi sáng những ngọn núi
cao trước nhất). Thời Hoa-nghiêm cũng là thời pháp mà đức Phật muốn thử nghiệm
xem giáo pháp của Ngài có thích hợp với căn cơ chúng sinh hay không, cho nên
cũng được gọi là thời “Nghĩ nghi”. Trong kinh điển đức Phật
thường đem năm vị của sữa để ví dụ cho tính chất cao thấp của các pháp môn. Đại
sư Trí Khải cũng áp dụng, đem năm vị sữa ấy mà ví dụ cho thuận tự của năm thời
giáo; theo đó, thời Hoa-nghiêm được ví như “nhũ vị” (vị sữa tươi nguyên chất mới
vừa được vắt ra khỏi thân con bò).
2. Thời Lộc-uyển: chỉ cho khoảng thời gian 12 năm sau ngày thành đạo.
Trong suốt khoảng thời gian này, đức Phật đã du hóa khắp trên 16 nước lớn (của Ấn-độ
lúc bấy giờ), nói bốn bộ kinh A Hàm
là loại giáo pháp tiểu thừa, hóa độ cho chúng sinh căn cơ yếu kém. Khởi đầu cho
thời kì này là bài pháp Tứ Đế Phật nói đầu tiên tại vườn Lộc-uyển, cho nên gọi
là thời Lộc-uyển. Kinh điển chính yếu Phật nói trong thời kì này là bốn
bộ A Hàm, cho nên cũng được gọi là thời
A-hàm.
Giáo pháp trong thời kì này chỉ dành cho người có căn cơ thấp kém, giống như mặt
trời đã lên hơi cao, soi sáng tới những hang tối nơi sườn núi, cho nên cũng được
gọi là thời “Nhật chiếu u cốc”. Về ý nghĩa giáo hóa, đức Phật chọn những
người căn cơ thấp kém làm đối tượng giáo hóa, để từ đó dần dần hướng dẫn họ tiến
lên đạo Nhất-thừa, cho nên thời kì này cũng được gọi là thời “Dụ dẫn”.
Về thuận tự giáo hóa, thời Lộc-uyển này được ví như “lạc vị” (vị sữa đặc
được chế biến từ sữa tươi).
3. Thời
Phương-đẳng: chỉ cho khoảng thời
gian 8 năm sau thời Lộc-uyển. Trong thời kì này Phật nói các kinh điển đại thừa
như Duy Ma Cật, Thắng Man, Tư Ích v.v...,
được coi như buổi đầu của con đường hoằng dương giáo pháp đại thừa, cho nên gọi
là thời Phương-đẳng. Nội dung của giáo pháp trong thời kì này nhằm đả
phá những kiến chấp thiên lệch, những quả vị chứng đắc thấp kém ở thời Lộc-uyển
trước; đồng thời đề cao giáo pháp cao sâu mầu nhiệm đại thừa, nhằm khai mở trí
tuệ lớn cho hàng tiểu thừa, khuyến khích họ từ bỏ cái địa vị thấp kém để tiến
lên đạo quả cao thượng. Vì vậy, thời kì này cũng được gọi là “Đàn
ha thời” (trách cứ tiểu thừa). Thời kì này cũng giống như mặt trời đã
lên khá cao, chiếu sáng tới những nơi đất bằng, cho nên được gọi là thời “Nhật
chiếu bình địa”. Về thuận tự giáo hóa, thời kì này được ví như “sinh
tô vị” (vị kem được chế biến từ sữa đặc).
4. Thời
Bát-nhã: chỉ cho khoảng thời gian
22 năm sau thời Phương-đẳng. Trong thời kì này đức Phật nói kinh hệ Bát Nhã, xiển dương giáo nghĩa vạn pháp
đều không, nhằm đào thải các tư tưởng thiên chấp, phân biệt về đại thừa, tiểu
thừa; dung hợp tiểu thừa và đại thừa thành “một
vị”, cho nên cũng được gọi là “Đào-thải thời”. Thời Bát-nhã này giống
như lúc mặt trời ở vào giờ Tị (10 giờ trưa), cho nên cũng được tông Thiên Thai
gọi là “Ngung trung thời”; và đối với thuận tự giáo hóa, nó được ví
như “thục
tô vị” (vị bơ được chế biến từ kem).
5. Thời
Pháp-hoa Niết-bàn: chỉ cho khoảng
thời gian 8 năm sau thời Bát-nhã và trước giờ phút Phật nhập diệt. Giáo pháp Phật
nói trong thời kì này thuộc loại liễu nghĩa thượng thừa, khiến cho người nghe
có được năng lực tiến đến cảnh giới tối cao, chứng nhập tri kiến Phật; đó là
giáo pháp Nhất-thừa, giáo pháp tuyệt đỉnh, giống như mặt trời ở vào giờ Ngọ (giữa
trưa), cho nên cũng được gọi là thời “Nhật luân đương Ngọ”. Về thuận tự
giáo hóa, thời kì này được ví như “đề hồ vị” (vị phó-mát được chế biến từ
bơ, ngon nhất, bổ nhất trong năm vị của sữa).
Năm thời kì thuyết giáo như
trên, cộng lại cả thảy là 50 năm. Đó là chiếu theo thuyết cũ về niên đại của đức
Phật: 19 tuổi xuất gia, 30 tuổi thành đạo, 80 tuổi nhập diệt; theo đó, thời
gian giáo hóa độ sinh của Phật là 50 năm.
NĂM THỨ CHE
LẤP (ngũ cái)
Đây là năm loại phiền não
thường che lấp tâm tính của chúng sinh, khiến cho các pháp lành không thể phát
sinh được:
1. Tham dục: Tham đắm ngũ dục không biết chán, do đó mà tâm tính bị
che lấp.
2. Sân hận: Gặp hoàn cảnh không vừa ý thì sinh cáu giận bực tức,
do đó mà tâm tính bị che lấp.
3. Hôn miên: Hôn trầm và ham ngủ, làm cho tâm tính trì trệ, lười
biếng, không tỉnh táo, không tích cực hoạt động, tu tập.
4. Trạo hối: Tâm chao động lăng xăng, tán loạn, mãi ôm giữ những
việc xấu đã qua rồi sinh phiền muộn, làm cho không định tĩnh, thảnh thơi, nhẹ
nhàng.
5. Nghi pháp: Đối với giáo pháp thì nghi ngờ, do dự, khiến cho tín
tâm không phát khởi được.
NĂM THỨ DƠ BẨN
(ngũ trược)
Chữ “trược”
nghĩa là dơ bẩn, nhưng tính chất “dơ bẩn”
ở đây không phải chỉ cho sự dơ bẩn vật chất như thân thể đầy cáu ghét, quần áo
dính đầy bùn đất, bàn ghế đầy bụi bặm v.v..., mà chỉ cho đời sống đau khổ, tính
tình xấu ác, không trong sạch của tất cả chúng sinh phàm phu. Năm thứ dơ bẩn đó
là:
1. Kiếp dơ bẩn
(kiếp trược). Kiếp sống của chúng
sinh phàm phu cứ tăng dài giảm ngắn, luôn luôn bất an, đến thời kì nhất định thì
xảy ra các tai nạn, nhỏ thì có đói khát, dịch bệnh, đao binh; lớn thì có lửa cháy
thiêu đốt, nước dâng cao tràn khắp, gió bão vùi dập; làm cho không thứ gì là không
bị hủy hoại, tiêu diệt; cho nên nói là “kiếp
dơ bẩn”.
2. Thấy biết dơ
bẩn (kiến trược). Tất cả năm phương
diện thấy biết (ngũ kiến, hay ngũ lợi sử:
thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến) của chúng
sinh phàm phu đều sai lầm, không đúng với chân tướng vạn pháp, cho nên nói là “thấy biết dơ bẩn”.
3. Phiền não dơ
bẩn (phiền não trược). Chúng sinh
phàm phu đầy dẫy ái dục, xan tham, hư dối v.v..., nói tổng quát là bị năm loại
tính tình xấu ác độc hại căn bản nhất là tham
lam, sân hận, si mê, kiêu mạn, nghi ngờ, thường xuyên làm não loạn tâm thần;
cho nên nói là “phiền não dơ bẩn”.
4. Chúng sinh
dơ bẩn (chúng sinh trược). Chúng
sinh phàm phu rất nhiều tính xấu, không hiếu kính cha mẹ, không tôn trọng sư trưởng,
không tin nhân quả, thường gây nghiệp ác, không sợ ác báo, không làm việc thiện,
không tạo phước đức, không tu trí tuệ, không giữ gìn cấm giới, v.v...; cho nên
nói là “chúng sinh dơ bẩn”.
5. Thọ mạng dơ
bẩn (mạng trược). Từ buổi xa xưa,
mạng sống con người rất dài, đến tám vạn tuổi; nhưng rồi, vì tính tình càng ngày
càng ác độc, cho nên mạng sống cứ giảm ngắn dần, cho đến nay rất ít người được
sống đến trăm tuổi; cho nên nói là “thọ mạng
dơ bẩn”.
NĂM THỨ TRÓI
BUỘC (ngũ kết - ngũ kết sử)
“Kết” là một
tên gọi khác của phiền não. Vì phiền não luôn luôn trói buộc, khiến chúng sinh
mãi mãi luân chuyển trong ba cõi, không bao giờ thoát khỏi được, cho nên gọi là
“kết”, hay “kết sử”. Có 5 thứ phiền não trói buộc, thuật ngữ Phật học gọi là
“ngũ kết”, gồm có:
1. Tham kết:
lòng tham dục trói buộc
2. Sân kết: lòng sân hận trói buộc
3. Mạn kết: lòng kiêu mạn trói buộc
4. Tật kết: lòng ganh ghét trói buộc
5. Xan kết: lòng keo kiệt trói buộc
NĂM TỘI NGHỊCH (ngũ nghịch tội) - NĂM NGHIỆP VÔ GIÁN
(ngũ
vô gián nghiệp)
Đây là năm hành động xấu xa
nhất, độc ác nhất, tội lỗi nặng nề nhất mà con người có thể làm. Chỉ cần gây một
trong năm loại tội lỗi này cũng đủ để đọa vào địa ngục Vô-gián. Có hai loại
“năm tội nghịch”:
a) Theo tiểu thừa giáo, năm tội
nghịch gồm có: giết cha, giết mẹ, giết bậc A-la-hán, có ác ý làm cho thân Phật
chảy máu, và phá hoại sự hòa hợp của tăng đoàn.
Cần chú ý đến tội thứ tư, “có
ác ý làm cho thân Phật chảy máu”. Trong tiểu sử của đức Phật Thích Ca,
chúng ta thấy có hai trường hợp thân Phật bị làm cho chảy máu được ghi lại: Trường
hợp thứ nhất, đại đức Đề Bà Đạt Đa khởi ác tâm hại Phật, đã xô đá từ trên đỉnh
núi Linh-thứu cho lăn xuống chân núi, một mảnh đá bể văng trúng, làm chân Phật
chảy máu. Trường hợp thứ hai, y sĩ Kì Bà, vì chữa trị vết thương cho Phật, phải
dùng kim châm làm thân Phật chảy máu. Trong hai trường hợp ấy, Đề Bà Đạt Đa làm
thân Phật chảy máu do ác tâm, phạm một trong năm tội nghịch; Kì Bà làm thân Phật
chảy máu do thiện tâm, đã không phạm tội còn được phước báo. Lại nữa, đời nay
không có Phật tại thế thì không có trường hợp phạm tội này sao? Chúng tôi nghĩ,
dù không có Phật tại thế, nhưng những biểu tượng về Phật (tức tất cả các loại
tượng, hình Phật) cũng tức là thân Phật. Nếu có ác ý phỉ báng, chà đạp, đập
phá, hủy hoại các biểu tượng ấy, đều được coi là phạm tội “có ác ý làm cho thân Phật chảy máu”. Trong Thiền tông, câu “Xuất Phật thân huyết” chuyên được dùng
để chỉ cho ý niệm chấp trước vào thân thanh tịnh của Phật; bởi vì, Phật tánh vốn
thanh tịnh, nhưng kẻ phàm phu lại mê muội vọng chấp, bám dính vào đó, cuồng si
không sáng suốt, bị coi như làm thân Phật bị chảy máu.
Về tội “phá hoại sự hòa hợp của tăng
đoàn”, có hai trường hợp: Trường hợp thứ nhất, tách khỏi tăng đoàn mà
mình đang sinh hoạt để thành lập tăng đoàn mới, thực hành các pháp bố-tát, yết-ma
v.v... riêng, gọi là phá “yết-ma-tăng”.
Trường hợp thứ hai, tách khỏi tăng đoàn để lập tăng đoàn mới, tự mình xưng làm
giáo chủ (hoặc thờ một nhân vật tà đạo khác làm giáo chủ), đề xướng học thuyết
mới sai trái với chánh pháp, gọi là phá “pháp-luân-tăng”.
Ngoài ra, những trường hợp khác như dùng thủ đoạn để li gián những người trong
tăng đoàn, làm cho họ lập phe phái chống đối nhau; làm cho người này nghi kị,
hiềm khích người kia; làm cho một hay nhiều người chán nản, thối chí trên bước
đường tu học, thậm chí phải hoàn tục; v.v..., nói chung, tất cả những trường hợp
làm mất cái không khí thanh tịnh, hòa hợp, gây rối loạn, bất an trong tăng
đoàn, đều được coi là phạm tội “phá hoại sự hòa hợp của tăng đoàn”.
Có người cân phân tính nặng
nhẹ của năm tội nghịch trên, và cho rằng, tội “phá hòa hiệp tăng” là nặng
nhất, thứ đến là “xuất Phật thân huyết”,
nhẹ hơn là “sát A-la-hán”, kế đó là “sát mẫu”, nhẹ nhất là “sát phụ”. Nhưng sự cân phân này xét ra
vô ích; bởi vì, phạm bất cứ tội nào trong năm tội trên cũng đều sa vào địa ngục
vô-gián, thì cân phân làm gì!
b) Năm tội nghịch theo đại
thừa gồm có: - phá hoại chùa tháp, thiêu hủy kinh tượng, cưỡng đoạt của
cải của thường trụ; - hủy báng giáo pháp cùng các bậc thánh đức; - làm trở ngại
sự tu hành của người xuất gia, hoặc sát hại những người xuất gia; - phạm một
trong năm tội nghịch của tiểu thừa (nói trên); - chủ trương không có nhân quả
nghiệp báo rồi mặc tình gây tội ác, và sai sử người khác gây tội ác.
NĂM UẨN (ngũ uẩn)
“Uẩn”(1) là nhóm, là tích tụ. Năm uẩn là năm yếu tố kết hợp tạo nên bản thân con người, gồm có:
1. Sắc (sắc uẩn), là tất cả các bộ phận sinh lí, nói chung là thân thể
của con người.
2. Thọ (thọ uẩn), là cảm giác sinh lí sinh ra khi các giác quan của
thân thể tiếp xúc với đối tượng của chúng. Cảm giác có thể là dễ chịu (lạc thọ), khó chịu (khổ thọ), hoặc không
dễ chịu cũng không khó chịu (xả thọ).
3. Tưởng (tưởng
uẩn), là tri giác, tức là sự nhận
biết đối tượng của nhận thức con người. Ví dụ, nhìn tượng Phật thì biết là tượng
Phật, nghe tiếng chuông thì biết là tiếng chuông, ngửi mùi nhang thì biết là
mùi nhang v.v...
4. Hành (hành uẩn), là chỉ chung cho tất cả mọi
hiện tượng, mọi sự vật được hình thành do nhân
và duyên, tức là vạn pháp trong vũ trụ (ở cả ba lĩnh vực: tâm, sinh, và vật
lí). Riêng hành uẩn ở đây là chỉ cho “tâm
hành”, tức là tất cả những hiện tượng tâm lí của con người. Duy Thức Học
nói, có cả thảy 51 hiện tượng tâm lí – gọi là 51 tâm sở, trong đó có hai uẩn thọ và tưởng ở trên; nhưng vì phạm
vi hoạt động của thọ và tưởng quá quan trọng – gần như suốt ngày, lúc nào ta cũng sống với thọ và tưởng – nên ở đây hai
hành này được tách riêng thành ra hai
uẩn, và 49 hành còn lại thì được
gộp chung trong một uẩn là “hành
uẩn”.
5. Thức (thức uẩn), là tâm thức, nói tổng quát, đó là căn bản
thức (Duy Thức Học gọi là thức
a-lại-da), và nói chi tiết thì đó là tám
thức: nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý, mạt-na và a-lại-da – Duy Thức Học gọi
chúng là tâm vương, các kinh luận thường gọi một cách tổng quát là tâm,
ý hay thức. Sở dĩ thức được
gọi là “tâm vương” là vì ta nhìn thức ở phương diện căn bản, trong khi
đó, nếu nhìn thức ở phương diện hành tướng, hiện khởi hay hoạt động thì ta có
những hiện tượng tâm lí mà Duy Thức Học gọi là tâm sở – tức là nội dung của tâm
vương. Tâm vương cũng giống như đại dương, còn tâm sở cũng giống như những
ngọn sóng trên mặt đại dương. Ba uẩn trên kia: thọ, tưởng và hành, là thuộc về “tâm
sở”.
Năm yếu tố kết hợp thành bản thân con người như trên
chỉ là cách phân chia cho dễ thấy. Trong năm yếu tố đó thì yếu tố đầu (sắc) là vật chất, còn cả bốn yếu tố sau đều là tinh thần; vì vậy mà có chỗ chỉ phân chia con
người làm hai phần, là danh (tinh thần, gồm cả 4 uẩn: thọ,
tưởng, hành và thức) và sắc (thể xác, là sắc uẩn). Hai phần
đó, nói theo cách thông thường tức là thân (sắc) và tâm (danh). Lại nữa, theo
tinh thần Duy Thức Học thì thức (tức
là tàng thức hay a-lại-da thức) là nơi sinh khởi ra mọi
hiện tượng; cho nên rốt cuộc, năm uẩn cũng chỉ là một uẩn
duy nhất mà thôi: đó là THỨC.
Mặt khác, khi ta nói về “bốn nguyên tố” (tứ đại: địa, thủy, hỏa, phong) cấu thành thân thể con
người, thì cả bốn nguyên tố này đều thuộc về “sắc uẩn”. Khi ta nói đến
“sáu nguyên tố” (lục đại) tạo thành bản
thân con người thì 5 nguyên tố đầu (địa,
thủy, hỏa, phong, không) thuộc về sắc uẩn, còn nguyên tố thứ sáu (thức) thì bao gồm cả 4 uẩn là thọ, tưởng, hành và thức.
(1) “Uẩn”
cũng còn được gọi là “ấm”, nghĩa là ngăn che, tức là năm yếu tố này làm cho con
người không thể thấy được thực tướng của vạn hữu – xin xem lại mục “Năm Ấm” ở
trên.
NĂM UẨN VÔ LẬU (vô lậu ngũ uẩn)
Giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn,
giải thoát uẩn, và giải thoát tri kiến uẩn, là năm thứ công đức vô lậu tập hợp
thành cảnh giới giác ngộ cao tột của bậc Vô-học (tức là quả vị A-la-hán của tiểu
thừa và quả vị Phật-đà của đại thừa), cho nên chúng được gọi là “năm
uẩn vô lậu”.
A. Theo sự giải thích của Phật giáo tiểu thừa:
1. Giới uẩn tức là hai nghiệp thân và ngữ vô lậu.
2. Định uẩn tức là ba thứ tam muội không, vô tướng và vô nguyện.
3. Tuệ uẩn tức là chánh tri, chánh kiến của bậc Vô-học.
4. Giải thoát uẩn tức là sự thắng giải tương ưng với chánh kiến.
5. Giải thoát
tri kiến uẩn tức là tận trí (đoạn
tận phiền não mà chứng nhập trí tuệ vô lậu của bậc Vô-học) và vô sinh trí (trí
tuệ biết rõ là trí tuệ của mình không bị thối thất).
Đối lại với năm uẩn vô lậu là năm uẩn hữu lậu, tức sắc,
thọ, tưởng, hành, thức, là năm yếu tố làm thành hữu tình chúng sinh.
B. Năm uẩn vô lậu
là cách gọi khác của “năm phần pháp
thân” (ngũ phần pháp thân), là
năm thứ công đức vốn có đầy đủ trong tự thể của Phật. Theo sự giải thích của Phật
giáo đại thừa, tự thể của Phật vốn đầy đủ năm thứ công đức, đó là:
1. Giới thân tức là giới pháp thân, là thân ngữ ý của Phật đều
thanh tịnh, không bao giờ có lầm lỗi nhỏ nhặt nào.
2. Định thân tức là định pháp thân, là chân tâm tịch tịnh của Phật,
tự tánh bất động, hoàn toàn xa lìa mọi vọng niệm.
3. Tuệ thân tức là tuệ pháp thân, cũng là căn bản trí, là chân
tâm rỗng sáng của Phật, tự thể không hôn ám, thấu suốt pháp tánh.
4. Giải thoát
thân tức là giải thoát pháp thân,
là tự thể không hệ lụy của Phật, giải thoát tất cả mọi ràng buộc.
5. Giải thoát
tri kiến thân tức là giải thoát
tri kiến pháp thân, là tuệ giác của Phật chứng biết tự thể xưa nay vốn không
nhiễm ô, đã thật sự giải thoát.
C. Năm phần
pháp thân ở trên, xét theo thứ tự nhân quả, thì do giới mà sinh định, do định mà phát tuệ, do tuệ mà được giải thoát, do giải thoát mà có giải thoát tri kiến. Nếu
xét tổng quát hơn thì cả ba phần trước là giới,
định và tuệ là nhân, còn hai phần
sau là giải thoát và giải thoát tri kiến
là quả. Nhưng dù nhân hay quả thì
cũng phải đầy đủ cả năm thứ công đức trên mới làm nên thân Phật.
D. Và nếu quán sát mối liên quan giữa năm uẩn hữu lậu
với năm uẩn vô lậu (hay năm phần pháp thân), ta sẽ thấy, năm uẩn vô lậu (hay năm phần pháp thân)
chính là năm uẩn hữu lậu đã được chuyển hóa; theo đó:
- sắc uẩn chuyển thành giới uẩn,
hay giới thân;
- thọ uẩn chuyển thành định uẩn,
hay định thân;
- tưởng uẩn chuyển thành tuệ uẩn,
hay tuệ thân;
- hành uẩn chuyển thành giải
thoát uẩn, hay giải thoát thân;
- thức uẩn chuyển thành giải
thoát tri kiến uẩn, hay giải thoát tri kiến thân.
Đ. Có khi HƯƠNG được đem dùng để ví dụ cho pháp thân, cho nên năm phần
pháp thân được gọi là “năm phần hương” (ngũ phần hương), tức
giới hương, định hương, tuệ hương, giải
thoát hương, và giải thoát tri kiến hương.
NĂM VIỆC KHÔNG
THỂ NGHĨ BÀN (ngũ bất khả tư nghị)
Có năm sự việc không thể
dùng lời nói để trình bày, cũng không thể dùng tâm trí để suy lường được:
1. Các loài
chúng sinh luôn luôn tăng giảm không gián đoạn, số lượng nhiều ít bao
nhiêu, là điều không thể nghĩ bàn.
2. Chúng
sinh nương nơi nghiệp lực mà biến hiện; quả
báo của nghiệp là điều không thể nghĩ bàn.
3. Thần
thông nương nơi định lực mà xuất hiện; sức mạnh của người thiền định là điều
không thể nghĩ bàn.
4. Chỉ một
giọt nước của con rồng mà gây nên trận mưa lớn; thần lực của loài rồng là
điều không thể nghĩ bàn.
5. Nương vào
Phật pháp mà chứng đắc đạo quả niết bàn; sức oai thần của chư Phật là điều
không thể nghĩ bàn.
NĂM VÓC CHẤM ĐẤT (ngũ thể đầu địa)
Đây là một cách lạy của Phật
giáo. Năm vóc (ngũ thể, hay ngũ luân)
là đầu, hai tay và hai đầu gối, đều chạm đất. Cách lạy “ngũ thể đầu địa” (cũng gọi là ngũ luân đầu địa, đầu địa lễ,
tiếp túc lễ, đầu diện lễ, đảnh lễ) này nguyên được coi là cách lạy tôn kính
nhất trong các cách lạy của người Ấn-độ. Sau đó, Phật giáo cũng dùng cách lạy
này để biểu lộ niềm tôn kính sâu xa nhất của mình đối với Tam Bảo. Cách lạy này
có thể khiến cho người ta dứt bỏ tâm kiêu mạn mà tỏ lộ lòng thành kính đối với
đối tượng mình đang lạy. Khi lạy, người Phật tử cần quán niệm năm ý nghĩa như
sau:
1. Khi đầu gối
phải chạm đất, quán niệm rằng, tất cả chúng sinh sẽ đạt đạo quả giác ngộ.
2. Khi đầu gối
trái chạm đất, quán niệm rằng, tất cả ngoại đạo sẽ không còn khởi tà kiến,
mà chắc chắn sẽ được đưa về con đường chánh.
3. Khi tay
phải chạm đất, quán niệm rằng, nguyện được như đức Thế Tôn, ngồi trên
tòa kim cương, hiện ra tướng lành, đại địa chấn động, chứng nhập quả vị đại
giác.
4. Khi tay
trái chạm đất, quán niệm rằng, mong cho mọi người rời xa ngoại đạo,
nguyện dùng bốn cách điều phục (tứ nhiếp
pháp) để khuyến hóa những kẻ ương ngạnh nhất, khiến cho tất cả đều trở về
chánh đạo.
5. Khi đầu mặt
chạm đất, quán niệm rằng, mong cho tất cả mọi người đều dứt trừ tâm
kiêu mạn, và sẽ có được tướng quí ở đỉnh đầu mà mắt thường khó thấy (vô kiến đỉnh tướng).
Nhận xét
Đăng nhận xét