SỐ 2
LƯỢC GIẢI NHỮNG PHÁP SỐ CĂN BẢN
Cư Sĩ Hạnh Cơ biên soạn
HAI CÁI THẤY CỰC ĐOAN (nhị kiến - nhị biên kiến)
Cư Sĩ Hạnh Cơ biên soạn
HAI CÁI THẤY CỰC ĐOAN (nhị kiến - nhị biên kiến)
Do thiếu sáng suốt, không thấu
rõ được tính duyên sinh của vạn pháp, người ta đã có hai cái thấy cực đoan, đối
nghịch nhau về sự vật:
1. Thấy có (hữu
kiến): Có người cho rằng tất cả mọi
sự vật là có thật, cho nên sinh lòng tham đắm, tranh đoạt và giữ chặt.
2. Thấy không
(không kiến): Có người cho rằng tất
cả mọi sự vật đều là tạm bợ, không có thật, cho nên sinh lòng nhàm chán, xa
lánh.
1. Thấy thường
còn (thường kiến): Có người cho rằng
mọi chúng sinh đều có cái TA thường còn, vĩnh viễn. Hễ là người thì muôn kiếp vẫn
là người; đã là thú thì vĩnh viễn vẫn là thú. Vì vậy, làm thiện hay làm ác cũng
không có gì đáng quan tâm.
2. Thấy mất hẳn
(đoạn kiến): Có người quan niệm
ngược lại, cho rằng, thân tâm mọi loài qua hết một đời thì mất hẳn, không còn
gì cả; không có đời sau, không có nhân quả, không có nghiệp báo, vì vậy, làm
thiện hay làm ác cũng vậy thôi.
Thật ra, thấy thường còn là vì đã thấy có,
và thấy mất hẳn là vì đã thấy không;
rốt cục, “thường và đoạn” đã bao hàm trong “hữu và vô”.
Dù thấy có hay thấy không, thấy thường còn hay thấy mất hẳn, cũng đều là cái thấy không chân chính, không đúng sự thật.
Người có tu học Phật và có thực tập thiền quán thì không bao giờ bị lạc vào cái
thấy cực đoan, không sáng suốt như trên; vì vạn hữu không phải có cũng không phải
không, không phải thường còn mà cũng không phải mất hẳn.
Lại nữa, nếu xét theo trình
độ giác ngộ thì cái thấy có là cái thấy
của người chưa tu học, trí tuệ chưa được khai mở. Trong khi đó, cái thấy không là cái thấy của người có tu học,
nhưng theo con đường nhỏ (tiểu thừa),
cho rằng mọi sự vật là vô thường, khổ, vô ngã, và bất tịnh. Vượt trên tất cả, đối
với trí tuệ của Bồ-tát thì tất cả vạn hữu vừa
là KHÔNG, vừa là CÓ. Nhưng tính chất có và không ở đây siêu việt lên trên ý
nghĩa có và không thông thường. Cái không
ở đây là “chân không” (vạn vật không
có bản ngã chân thật chứ không phải là không hiện hữu); và cái có ở đây là cái “có mầu nhiệm” (diệu hữu
– vạn vật hiện hữu và tồn tại theo nguyên lí “một trong tất cả, tất cả trong một”) mà chỉ có công phu thiền quán
mới đạt tới được.
HAI CHƯỚNG
NGẠI (nhị chướng)
Đây là hai thứ luôn luôn làm
trở ngại, khiến cho người tu học không thể tiến đến sự chứng ngộ trí tuệ của
chư Phật.
1. Chướng ngại
của phiền não (phiền não chướng).
“Phiền não” là những hiện tượng tâm
lí xấu, làm động cơ thúc đẩy con người gây ra vô vàn lầm lỗi về cả thân, miệng
và ý. Phiền não có nhiều loại, có những loại thuộc về tình cảm, có những loại
thuộc về trí thức. Lòng tham dục, sự giận hờn, những tâm trạng như buồn phiền,
lo lắng, ghen tức, kiêu mạn, khinh khi v.v..., là những loại phiền não thuộc về
tình cảm; sự si mê, ngu muội, trì trệ, những cái thấy biết sai lầm, những tâm
niệm cố chấp, bảo thủ, thành kiến, những tư tưởng ngông cuồng, tà vọng..., là
những loại phiền não thuộc về trí thức; tất cả mọi thứ, chúng làm cho con người
đau khổ triền miên, không có phút giây nào tỉnh thức để tu tập đạo giác ngộ,
không thể nào tiến lên được địa vị giải thoát, cho nên chúng được gọi là “phiền não chướng”.
2. Chướng ngại
của kiến thức (sở tri chướng). “Sở tri” là những quan điểm, những cái
thấy, những hiểu biết, những khái niệm thu thập được từ sự học hỏi, đọc
sách..., nói chung là những kiến thức mình có được. Những kiến thức này rất cần
thiết cho người tu học để đạt đến trí tuệ, chứ chính chúng không phải là trí tuệ.
Cho nên, nếu chúng ta cứ khư khư ôm giữ lấy những kiến thức ấy và cho rằng chúng
là hay nhất, chúng là chân lí; chúng ta thỏa mãn với chúng, tự thấy không cần
phải học hỏi gì thêm nữa, thì tức là ta đã bị mắc kẹt vào chúng, không thể nào
tiến bộ được nữa; đạo Phật gọi những kiến thức đó là “sở tri chướng” – tức là những kiến thức làm trở ngại cho tiến
trình giác ngộ. Cái gì mà mình vừa biết được và liền cho đó là số một, thì lập
tức con đường tiến thủ của mình bị chận lại, vì vậy, hành giả phải biết phá vỡ,
vượt thoát những kiến thức đã có để có thể đi xa hơn nữa. Có như thế thì tuệ giác
giác ngộ – mục tiêu sau cùng của hành giả
– đến một lúc nào đó mới hiển lộ ra được.
Hai thứ chướng ngại này, có
khi trạng thể rất vi tế, khó nhận thấy; chúng lại luôn luôn liên kết với nhau,
giúp đỡ cho nhau để bám sát theo chúng sinh, hoặc ở trạng thái phát hiện (nổi trên mặt ý thức), hoặc ở trạng thái tiềm ẩn (chủng tử nằm sâu trong tàng thức); trong khi đó thì chúng sinh
cũng mù quáng đeo đuổi theo chúng như người ngủ say để tạo ra các nghiệp xấu,
ngày càng chất chồng. Vì vậy, Duy Thức Học gọi chúng (phiền não chướng và sở
tri chướng) là “tùy miên”.
HAI CON ĐƯỜNG
(hay HAI CỖ XE) (nhị thừa)
Giáo pháp của Phật chỉ có một
con đường duy nhất là đưa đến sự chứng ngộ trí tuệ rộng lớn của chư Phật. Nhưng
vì người tiếp nhận và thực hành giáo pháp ấy có nhiều căn cơ khác nhau, cao thấp
không đều, cho nên đức Phật đã tùy theo mỗi trình độ mà khai thị cho những con
đường khác nhau. Đó là tính cách “khế cơ”
của đạo Phật. Một cách tổng quát thì có hai
con đường (hay hai cỗ xe):
1. Con đường nhỏ
(hay cỗ xe nhỏ – tiểu thừa): là con đường tự độ của những vị quá nhàm chán cõi thế
gian vô thường, vô ngã, đầy khổ não, chỉ muốn chóng giải thoát khỏi ba cõi, đạt
được quả vị A-la-hán hay Bích-chi Phật, rồi nhập niết bàn. Khuynh hướng này về
sau trở thành một trong hai hệ phái lớn của Phật giáo, – sử thường gọi là Phật giáo Tiểu-thừa – được truyền bá
sang các nước phía Nam và Đông Nam Ấn độ (như Tích-lan, Miến-điện, Thái-lan,
v.v...), cho nên cũng được gọi là Phật
giáo Nam-tông (hay Nam-truyền).
2. Con đường lớn
(hay cỗ xe lớn – đại thừa): là con đường của những vị có tình thương rộng lớn, ý
chí dũng mãnh, vừa nỗ lực giúp cho chính mình đạt được an lạc giải thoát mà cũng
vừa giúp đời kiến tạo hạnh phúc. Họ luôn luôn vì mọi người và mọi loài mà tu tập
và thực hiện hạnh bồ-tát. Mục đích của họ là hoàn thành sự nghiệp giác ngộ toàn
vẹn của chư Phật. Khuynh hướng này về sau trở thành một trong hai hệ phái lớn của
Phật giáo, – sử gọi là Phật giáo Đại-thừa
– được truyền bá sang các nước phía Bắc và Đông Bắc Ấn-độ (như Nepal, Tây-tạng,
Trung-hoa, v.v...), cho nên cũng được gọi là Phật giáo Bắc-tông (hay Bắc-truyền)
Ở một mặt khác, “hai con đường” (hay “hai cỗ xe) cũng còn được dùng để chỉ
cho hai bậc Thanh-văn (Thanh-văn thừa) và Duyên-giác (Duyên-giác thừa). Giáo pháp căn bản của người tu học theo con đường
Thanh-văn là “bốn sự thật” (tứ đế), và quả vị cuối cùng của họ là
A-la-hán. Trong khi đó, những người tu học theo con đường Duyên-giác (hay Độc-giác)
thì chuyên quán sát cái vòng nhân quả “mười
hai nhân duyên” (thập nhị nhân
duyên) mà giác ngộ được chân lí và đạt được quả vị Phật Bích-chi. Trong
kinh Đại Niết Bàn (Phẩm 22), đức Phật
bảo BồTát Lưu Li Quang: “Chớ nghĩ rằng,
tôi nghe pháp rồi trước tự độ mình, sau sẽ độ người; trước tự giải thoát rồi
sau sẽ giải thoát cho người; ... Trước phải vì người, sau mới vì mình. Nên vì đại thừa chứ không nên vì nhị thừa...” Chữ “đại thừa” ở đây đức Phật dùng để chỉ
cho cỗ xe Bồ-tát; còn chữ “nhị thừa”
là chỉ cho các cỗ xe Thanh-văn và Duyên-giác. Vậy theo ý nghĩa này thì cả
Thanh-văn và Duyên-giác đều được gọi chung là tiểu thừa.
Tóm tắt lại, danh số “Hai Cỗ Xe” (nhị thừa) có thể dùng trong
hai trường hợp: một là để chỉ cho cỗ xe
nhỏ (tiểu thừa) và cỗ xe lớn (đại
thừa); hai là để chỉ cho cỗ xe Thanh-văn
(Thanh-văn thừa) và cỗ xe Duyên-giác
(Duyên-giác thừa).
GHI
CHÚ: Tiểu-thừa và Đại-thừa đã là hai thực thể đối nghịch
nhau rong suốt hai ngàn năm qua trong lịch sử truyền bá và phát triển của Phật
giáo. Thật ra, Tiểu-thừa hay Đại-thừa, chỉ nói lên cái tình hình chuyển biến của
tư tưởng Phật giáo theo nhu cầu phát triển của trí tuệ qua các giai đoạn lịch sử
mà thôi. Ngày nay, Phật giáo không phải chỉ đóng khung ở các nước Tích-lan, Miến-điện,
Thái-lan, hay Tây-tạng, Việt-nam, Nhật-bản v.v... nữa, mà nó đang có mặt như
ánh sáng mặt trời ở khắp năm châu bốn biển. Tinh thần tu học Phật pháp của con
người hiện đại cũng không còn câu nệ vào Tiểu thừa hay Đại thừa nữa. Ở Việt-nam
chẳng hạn, từ thập niên 50, Phật giáo Nam-tông đã song hành phát triển với Phật
giáo Bắc-tông một cách chính thức và nhịp nhàng. Các quốc gia Tây phương gần
đây đã và đang tiếp nhận nhiều dòng Phật học khác nhau đến từ Tây-tạng,
Tích-lan, Trung-hoa, Đại-hàn, Việt-nam, Nhật-bản, Thái-lan v.v... Cho nên ý thức
phân biệt cực đoan giữa Tiểu-thừa và Đại-thừa đã đến lúc phải được tẩy xóa khỏi
tâm thức của người tu học trong thời đại ngày nay. Trong cái nhìn mới, Phật
giáo không có sự mâu thuẫn quyết liệt giữa tiểu thừa và đại thừa, mà chỉ có những
pháp môn hành trì khác nhau đưa đến những trình độ tu chứng khác nhau, chỉ có
những sự phát tâm mạnh yếu khác nhau đưa đến những thành quả phụng sự lớn nhỏ
khác nhau; vả chăng chỉ có một nền PHẬT GIÁO NGUYÊN THỈ (chỉ cho nền Phật học tối
cổ thời Phật tại thế) và một nền PHẬT GIÁO PHÁT TRIỂN (chỉ cho nền Phật học từ
sau thời Phật tại thế cho đến ngày nay); mà nền Phật giáo Nguyên thỉ luôn luôn là nền tảng căn bản cho nền Phật
giáo Phát triển.
HAI DÒNG (nhị lưu)
“Hai dòng” là
dòng thuận và dòng nghịch.
1. Dòng thuận
(thuận lưu), tức là xuôi thuận
theo dòng sinh tử, khởi hoặc tạo nghiệp, trôi lăn trong sáu đường chúng sinh.
2. Dòng nghịch
(nghịch lưu), tức là đi ngược lại
với dòng sinh tử, tinh cần tu tập, dứt trừ phiền não để hướng tới đạo quả giải
thoát niết bàn.
HAI ĐỨC NHẪN
(nhị nhẫn)
Chữ “nhẫn” ở đây tức là nhẫn nại, an nhẫn. Có hai đức nhẫn mà Bồ-tát luôn
luôn tu tập: Sinh nhẫn và Pháp nhẫn.
1. “Sinh nhẫn”, cũng gọi là “chúng
sinh nhẫn”, tức là Bồ-tát đối với tất cả chúng sinh không bao giờ sinh tâm
sân hận, buồn phiền. Dù cho chúng sinh đem lòng ám hại mình, gieo tai họa, gây
bao nhiêu điều xấu ác cho mình, Bồ-tát không bao giờ oán trách, vẫn nhẫn nại chịu
đựng. Dù chúng sinh kính quí, khen ngợi mình, đem bao nhiêu của cải trân quí cúng
dường, Bồ-tát vẫn không vui mừng, không tự cao, tham đắm. Như thế gọi là “sinh nhẫn”.
2. “Pháp nhẫn”, cũng gọi là “vô
sinh pháp nhẫn” tức là Bồ-tát an trú (an nhẫn) trong pháp thậm thâm bất
sinh bất diệt, tâm không còn quái ngại, không giao động, không thối chuyển, gọi
là “pháp nhẫn”.
HAI HOẶC (nhị hoặc)
Chữ “hoặc” ở đây là một tên khác của phiền não, chẳng những thế, nó còn
chỉ cho những phiền não gốc rễ, làm cho chúng sinh trôi lăn trong vòng sinh tử
luân hồi. Có hai loại hoặc căn bản nhất, mà nếu dứt trừ tận gốc thì tức khắc xa
lìa ba cõi, giải thoát sinh tử:
1. Kiến hoặc. “Kiến” tức
là suy nghĩ, thấy biết, đoán định về những lí lẽ của cuộc đời. “Kiến hoặc” tức là cái thấy sai lầm, cái
thấy xuyên tạc về sự thật cuộc đời. Vì vô minh che lấp nên không thấy được vạn
pháp là vô thường, vô ngã v.v..., khiến nên kẻ phàm phu lúc nào cũng đầy dẫy tà
tri tà kiến. Một cách tổng quát, có 5 cái thấy sai lạc như vậy (xin xem mục “Năm Cái Thấy Sai Lạc” ở sau). Những cái thấy này cũng chính là những kiến thức, những
hiểu biết (sở tri) của phàm phu, làm
chướng ngại cho thánh đạo, nên Duy Thức Học gọi chúng là “sở tri chướng” (xin xem lại mục “Hai Chướng Ngại” ở trên). Những cái thấy này vì không được trí tuệ soi sáng, nên
hoàn toàn không đúng sự thật, trái với chân lí, nên cũng gọi là “lí
hoặc” (sai lầm về lí). Hành giả tu học Phật, khi đã hoàn toàn chuyển hóa
được năm cái thấy sai lạc này, trí truệ hoàn toàn tương ưng với chân lí, thì vượt
thoát được thân phận phàm phu mà bước vào
dòng thánh (nhập lưu); từ đó tiến tu mãi cho đến khi thành đạt quả vị Vô
thượng Bồ đề.
2. Tư hoặc. Vì tâm ý mê muội, nên kẻ phàm phu luôn luôn khởi niệm
tham đắm đối với mọi sự mọi vật ở thế gian; cái gì vừa ý thì tham lam muốn có,
cái gì không vừa ý thì giận hờn oán trách, khiến nên con người gây ra bao nhiêu
tội lỗi, đau khổ trong đời sống, đó gọi là “tư hoặc” (cũng gọi là “tu hoặc”). Một cách tổng quát, loại hoặc
này có 5 thứ căn bản, là tham (lòng
tham lam đối với mọi thứ mình yêu thích), sân
(lòng giận hờn oán trách đối với những gì mình không vừa ý), si (tâm mê mờ không thấy rõ được sự thật),
mạn (tâm kiêu mạn, tự cao tự đại,
cho mình là hơn hết rồi khinh khi người khác), nghi (nghi ngờ, không tin tưởng điều chân thật, nhất là không tin
Tam Bảo). Từ 5 thứ hoặc căn bản này mà sinh ra bao nhiêu tính xấu ác khác, như
tham lam, ích kỉ, bỏn sẻn, đua đòi, trộm cắp, tà dâm, giận dữ, hờn trách, mắng
chưởi, nói năng thô bạo, phỉ báng người hiền, nói xấu kẻ khác, tự thị khinh người,
ngu dốt mà cứ cố chấp v.v... 5 thứ hoặc này phát khởi do vì mê đắm sự vật, thuộc
về tình cảm, cho nên cũng gọi là “sự hoặc” (sai lầm về sự). Lại nữa,
5 thứ hoặc ấy là những phiền não gây ra đau khổ triền miên, làm cho chúng sinh
không thể tu tập để tiến đến bến bờ giải thoát, cho nên Duy Thức Học cũng gọi
chúng là “phiền não chướng” (xin
xem lại mục “Hai Chướng Ngại” ở trên). Hành
giả tu học Phật, khi đã đoạn trừ sạch hết 5 loại hoặc này thì chứng quả A-la-hán, giải thoát ba cõi.
HAI KIẾN CHẤP
VỀ NGÃ (nhị ngã kiến)
1. Tất cả phàm
phu vì mê lầm, không thấy được rằng con
người là do năm uẩn giả hợp mà thành, cho nên cố chấp cho rằng con người có
quyền chủ tể, có tự thể thường nhất, chân thật, đó gọi là “ngã kiến về con người” (nhân
ngã kiến).
2. Đối với mọi
sự vật (pháp) chung quanh mình cũng vậy, kẻ phàm phu không thấy được chúng
là do bốn nguyên tố (bốn đại) giả hợp mà có, nên cho chúng là thật có, rồi tham
đắm, bám giữ. Ngay cả các hành giả ở hai thừa Thanh-văn và Duyên-giác cũng vậy,
tuy có trí tuệ thấy rõ con người không có ngã (nhân vô ngã kiến), nhưng lại không thấy được tánh KHÔNG của vạn pháp,
cho nên cố chấp cho rằng tất cả các pháp đều có thể tánh chân thật, sợ sệt pháp
sinh tử, bám giữ pháp niết bàn, gọi là “pháp ngã kiến” (ngã kiến về vạn pháp).
HAI LẬU (nhị lậu)
“Lậu” nghĩa
là lọt xuống, rỉ ra, rịn ra; đó là tính chất của phiền não, cho nên “lậu” cũng là một tên gọi khác của phiền não. Các pháp trên thế gian có thể
chia làm hai loại: hữu lậu và vô lậu.
1. “Hữu lậu” là còn có thể lọt xuống, rơi rớt lại. Các pháp hữu lậu
là các pháp còn nằm trong thế giới sinh diệt khổ đau, là những nguyên nhân làm
cho còn vướng mắc trong sinh tử luân hồi.
2. “Vô lậu” là không còn lọt xuống, hay rơi rớt lại nữa. Các pháp
vô lậu là các pháp trong thế giới bất sinh bất diệt, là những nguyên nhân đưa đến
giải thoát, niết bàn.
Thật ra, hữu lậu và vô lậu không phải là hai pháp
riêng biệt, mà chỉ là hai “tính chất” của một pháp. Khi chúng ta nhìn sự vật và
thấy có sinh, có diệt, có hơn, có thua, có trắng, có đen, có dơ, có sạch
v.v..., thì đó là cái thấy hữu lậu –
tức là cái thấy của thế giới khổ đau, của sinh tử luân hồi; còn nếu nhìn sự vật
mà thấy không có sinh diệt, không có hơn thua, không có dơ sạch v.v..., thì đó
là cái thấy vô lậu – tức là cái thấy
của giác ngộ, giải thoát, an lạc. Một hành động bố thí chẳng hạn, nếu chúng ta
bố thí để cho có danh tiếng với đời, bố thí để cho người kia phải chịu ơn ta, bố
thí để được hưởng phước báo tốt đẹp ở kiếp sau..., thì hành động bố thí đó được
gọi là hữu lậu, vì tuy có phước đức –
dù là phước đức ở cõi trời đi nữa, nhưng vẫn là thứ phước đức nằm trong sinh tử
luân hồi. Mặt khác, cũng thì hành động bố thí như vậy, nhưng khi bố thí, tâm
chúng ta không vì mong cầu gì cả, không vì danh tiếng, không vì được đền ơn,
không vì phước báo..., bố thí là vì bố thí, bố thí một cách vô tâm, thì hành động bố thí đó được gọi
là vô lậu – nó không làm cho ta bị vướng
mắc, nó đưa ta tới tự do, giải thoát, không rơi rớt lại trong vòng sinh tử luân
hồi.
HAI LOẠI CHẤP
NGÃ (nhị ngã chấp)
“Chấp ngã” là
cố chấp có cái ngã chân thật, và có các vật sở hữu của ngã. Có hai loại:
1. Tâm chấp ngã
vốn có (câu sinh ngã chấp). Đó là
tâm chấp ngã vốn có từ bao đời kiếp trước, khi một người vừa sinh ra đời thì tâm
chấp ngã ấy cũng đi liền theo mà có mặt cùng lúc với thân mạng.
2. Tâm chấp ngã
do vọng tưởng phân biệt mà có (phân biệt ngã chấp). Sau khi sinh ra đời, do vọng tưởng phân biệt, do ảnh
hưởng các ngoại duyên từ hoàn cảnh xã hội, do hấp thụ sự giáo dục của tà sư tà
giáo v.v... mà sinh ra tâm chấp ngã.
HAI LOẠI HẠT
GIỐNG (nhị chủng chủng tử)
Tàng thức của
chúng ta chứa đựng mọi loại hạt giống của thế gian. Tất cả những hạt giống ấy
có thể chia làm hai loại:
1. Hạt giống sẵn
có (bản hữu chủng tử), là những
loại hạt giống vốn có gốc rễ sẵn từ đời vô thỉ. Ngay sau khi thành đạo, đức Phật
liền nói: “Lạ thay! Tất cả mọi chúng sinh
đều có sẵn khả năng giác ngộ, hạnh phúc và an lạc, nhưng họ không biết, cứ để
mình trôi lăn trong chốn khổ đau từ kiếp này sang kiếp khác!” Vậy, giác
tánh là một trong vô số hạt giống đã có sẵn trong chúng ta từ vô thỉ.
2. Hạt giống
trao truyền (tân huân chủng tử),
là những loại hạt giống được nhận được do sự trao truyền từ ông bà tổ tiên nhiều
đời, từ cha mẹ, dòng họ, từ bạn bè, học đường, xã hội, từ sách vở, phim ảnh
v.v...
Sự phân biệt có hai loại hạt
giống như trên chỉ là nhắm giúp ta dễ hiểu, dễ nhận thấy theo sự hiểu biết
thông thường, và nhất là để tu tập trong những bước bắt đầu; sự thật thì bất cứ loại hạt giống nào chứa đựng trong
tàng thức cũng sẵn có gốc rễ từ vô thỉ.
HAI LOẠI
NGHIỆP (nhị nghiệp)
Có nhiều pháp số về “nhị nghiệp”:
A. Dẫn nghiệp và Mãn nghiệp.
1. “Dẫn nghiệp”, là hành động đưa đẩy chúng sinh đi đến một phương hướng
nào đó – tức là sẽ sinh ra ở một loài nào đó trong các loài chúng sinh (Địa-ngục,
Ngạ-quỉ, Súc-sinh v.v...). Khi một chúng sinh sinh vào loài Người chẳng hạn,
thì chúng sinh ấy phải mang lấy thân thể, hình dáng, các giác quan, tâm ý, cách
thức sinh hoạt, đi đứng, nằm ngồi, ăn uống, ngủ nghỉ v.v... giống như bao nhiêu
chúng sinh khác của loài Người; vì vậy, “dẫn
nghiệp” cũng còn được gọi là “tổng
báo nghiệp”.
2. “Mãn nghiệp”, là hành động tự làm cho chính nó trở nên đầy đặn,
chín muồi trong hướng đi tới của nó. Đã đành là khi sinh ra làm Người thì chúng
sinh đó phải mang lấy thân thể, hình dáng v.v... của chung loài Người, nhưng
trong cái thế giới loài Người đó, có người giống nam, có người giống nữ, có người
xinh đẹp, có người xấu xí, có người thông minh, có người ngu dốt, có người hiền
lành, có người ác độc, có người dễ thương, có người khó thương v.v..., có thể
nói là “chẳng ai giống ai”, đó là cái
kết quả của “mãn nghiệp”, và vì vậy,
nó cũng còn được gọi là “biệt báo nghiệp”.
B. Cộng nghiệp và Biệt nghiệp
1. “Cộng nghiệp” là do tạo những nghiệp nhân giống nhau mà nhiều chúng
sinh sẽ sinh ra và cùng sống chung trong một hoàn cảnh (quả báo) giống nhau: những
người cùng sinh ra trong một gia đình thì cùng thụ hưởng, chia xẻ nếp sống
chung của gia đình ấy; một quốc gia đang ở trong tình trạng chiến tranh thì tất
cả nhân dân trong quốc gia ấy đều phải chịu chung những bất hạnh, những tang
tóc, những khổ đau cùng cực do chiến tranh gây ra; dân chúng ở những nước tân
tiến thì sẽ hưởng được những tiện nghi vật chất đầy đủ hơn dân chúng ở những nước
bán khai; v.v...
2. “Biệt nghiệp” là mỗi chúng sinh phải nhận chịu nghiệp báo riêng của
mình khi đang cùng sống chung với những chúng sinh khác trong cộng nghiệp như vừa
nói trên. Do đã tạo những nghiệp nhân khác nhau mà những người dân của một nước
đang trong thời kì chiến tranh, có người thì giàu sang nhờ chiến tranh, có người
thì tán gia bại sản vì chiến tranh; có người thì phải vào sinh ra tử không trốn
thoát được, nhưng cũng có người cứ ngày ngày ăn chơi phè phỡn như ở một nơi
thanh bình; có người thì suốt đời lăn lóc trong trận mạc mà vẫn sống khỏe mạnh,
nhưng cũng có người vừa đụng trận lần đầu đã mạng vong; có nhiều gia đình mà mọi
người đã bị hi sinh hết trong chiến tranh, nhưng cũng có nhiều gia đình được an
toàn trọn vẹn; v.v...
C. Định nghiệp và Bất định nghiệp
1. “Định nghiệp” là những nghiệp nhân chắc chắn phải đưa tới quả báo.
2. “Bất định
nghiệp” là những nghiệp nhân
không nhất định phải đưa tới quả báo. Trường hợp một ý niệm vừa khởi lên liền bị
dập tắt ngay – tức là bị cho chìm xuống đáy tàng
thức ngay – và từ đó, ý niệm ấy không bao giờ được có dịp hiện hành (tái xuất hiện trên mặt ý thức) nữa, có thể vì nó đã bị các chủng tử khác lấn áp làm cho tiêu hao,
hoặc nó có thể đã bị chuyển hóa hoàn toàn, thì cái ý niệm ấy (nghiệp nhân) sẽ không
đưa tới một quả báo nào cả.
D. Thiện nghiệp và Ác nghiệp
1. “Thiện nghiệp” là những hành động mang tính chất từ bi, trí tuệ, sẽ
đưa đến an lạc, giải thoát, giác ngộ.
2. “Ác nghiệp” là những hành động phát xuất từ tham, sân, si v.v...,
sẽ đưa đến sinh tử luân hồi.
HAI LOẠI
SINH TỬ (nhị chủng sinh tử)
Từ “sinh tử” ở đây có nghĩa là cái giai đoạn của mạng sống từ khi sinh
cho đến lúc chết; có hai loại: sinh tử của chúng sinh phàm phu thì gọi là “phần
đoạn sinh tử”, và sinh tử của thánh nhân thì gọi là “biến dịch sinh tử”.
1. Phần đoạn
sinh tử. Tất cả chúng sinh trong
ba cõi, do những nghiệp hữu lậu (thiện, ác) làm nhân, do phiền não làm duyên, mà
luân chuyển trong sáu đường, thọ nhận quả báo tốt xấu. Phần chính yếu của các
quả báo này là cái nhục thân thô trọng, hoặc cao lớn hoặc bé nhỏ, và cái mạng sống
có hạn kì nhất định, hoặc lâu dài hoặc ngắn ngủi; được gọi là “phần đoạn thân”. Và sự sinh tử (sinh
ra và chết đi) của cái thân phần đoạn này được gọi là “phần đoạn sinh tử”. Chúng sinh ở các cõi trời Vô-sắc, dù thân thể
không có hình sắc vật chất như chúng sinh ở cõi Dục và cõi Sắc, nhưng vẫn có thọ
mạng với hạn kì nhất định, vẫn còn trong phạm vi sinh tử, cho nên vẫn thuộc loại
“phần đoạn sinh tử”. Tóm lại, “phần đoạn
sinh tử” là sự sinh tử của tất cả mọi loài chúng sinh phàm phu trong ba cõi sáu
đường. Dứt được phần đoạn sinh tử là giải thoát 3 cõi.
2. Biến dịch
sinh tử. Các bậc A-la-hán, Bích-chi
Phật và Bồ-tát lớn (từ bậc Sơ-địa trở lên) đã lìa thoát ra ngoài ba cõi, thọ nhận
thân thể vi diệu thù thắng, tùy ý hóa sinh. Các ngài lại dùng cái thân này trở
lại trong ba cõi để tu Bồ-tát hạnh, hóa độ chúng sinh, cho đến khi thành Phật.
Trong thời gian này, vì nguyện lực từ bi mà nhục thể của các ngài có thể tùy ý
tự do biến hóa đổi khác, thọ mạng cũng không bị hạn kì nhất định, cho nên gọi là
“biến dịch thân”. Trong thời gian tu
tập hạnh Bồ-tát này, cứ mỗi khi có sự chuyển biến từ nấc thang này lên nấc
thang khác trong tiến trình tu chứng thì được coi như là một lần sinh tử, cho nên
gọi là “biến dịch sinh tử”. Lại nữa,
mỗi lần sinh tử như thế, Bồ-tát tự cảm nhận được trạng thái kì diệu trong tâm
trí, không thể nghĩ bàn, cho nên cũng gọi là “bất tư nghị biến dịch sinh tử”.
HAI NGHIỆP
BÁO (nhị báo)
“Nghiệp báo”
hay “nghiệp quả” là kết quả của các
hành động (nghiệp nhân) mà chúng sinh đã tạo ra; có hai loại:
1. Chánh báo, tức là kết quả chính của nghiệp, gồm có một thân thể
và tất cả các hiện tượng tâm sinh lí được phát hiện trong thân thể đó.
2. Y báo, tức là hoàn cảnh, môi trường trong đó chánh báo đang
sống, gồm có gia đình và những điều kiện thiên nhiên, chính trị, xã hội, kinh tế,
văn hóa, v.v...
HAI NGƯỜI
LÀM CHẢY MÁU THÂN PHẬT (nhị nhân xuất Phật
thân huyết)
Đó là hai người đã làm cho
thân của đức Phật Thích Ca Mâu Ni bị chảy máu, hồi thời Phật còn tại thế. Hai
trường hợp này đã xảy ra với tính chất khác nhau: một đàng thì do ác tâm, muốn ám
hại Phật; một đàng thì do thiện tâm, vì để chữa bệnh cho Phật.
1. Tì kheo Đề
Bà Đạt Đa, vì ganh tị với Phật,
muốn hại Phật để chiếm địa vị lãnh đạo giáo đoàn, đã nhiều lần tìm cách sát hại
Phật, trong đó, có một lần ông đứng trên đỉnh núi Linh-thứu, thấy đức Phật và tôn
giả A Nan đang đi ở dưới chân núi, bèn xô một tảng đá lớn cho lăn xuống ngay chỗ
Phật; rất may là tảng đá đã bị lệch đi, nhưng một mảnh nhỏ của nó đã văng trúng
vào một ngón chân Phật, làm cho chảy máu, bị thương. Do tội nghịch này mà ông bị
quả báo đọa địa ngục Vô-gián.
2. Y
sĩ Kì Bà, người chuyên lo chăm sóc sức khỏe cho Phật và tăng đoàn. Có lần
Phật bị bệnh, ông phải dùng kim châm để chữa trị. Do châm kim mà thân Phật bị
chảy máu, nhưng việc này là do thiện tâm, vì để chữa bệnh cho Phật, nên ông được
phước báo.
HAI PHƯƠNG
TIỆN (nhị phương tiện)
1. Phương tiện
thiện xảo thế gian (thế gian thiện xảo phương tiện). Bồ-tát vì muốn lợi
mình và lợi người mà thi thiết mọi
thứ phương tiện, bởi vậy, trong lúc thực hiện các hạnh tự lợi và lợi tha ấy, Bồ-tát
vẫn còn chấp trước, vẫn còn thấy có “sở đắc”, cho nên gọi là “phương tiện thiện xảo thế gian” – hay nói
tắt là “phương tiện thế gian”.
2. Phương tiện
thiện xảo xuất thế gian (xuất thế gian thiện xảo phương tiện). Bồ-tát dùng nhiều thứ phương tiện thiện xảo chỉ vì lợi người, hoàn toàn không có ý
niệm lợi mình, bởi vậy, trong lúc thực hiện các hạnh lợi tha ấy, Bồ-tát không
chấp trước, không thấy có “sở đắc”, cho nên gọi là “phương tiện thiện xảo xuất thế gian” – nói tắt là “phương tiện xuất thế gian”.
HAI SỰ BẢO
TRÌ (nhị trì)
Từ “bảo trì” ở đây chỉ cho sự bảo trì giới thể, là hai hạnh tổng quát
của giới luật.
1. Chỉ trì. Chữ “chỉ”
nghĩa là chế ngự, ngăn chặn, tức ngăn chặn thân, ngữ, ý không làm các điều ác (chư ác mạc tác). Do thực hành “chỉ”
mà bảo trì được giới thể, gọi là “chỉ
trì”.
2. Tác trì. Chữ “tác”
nghĩa là tạo tác, sách tấn thân, ngữ, ý làm các điều thiện (chúng thiện phụng hành). Do thực hành “tác” mà bảo trì được giới
thể, gọi là “tác trì”.
HAI SỰ THẬT (nhị đế)
1. Sự thật tương đối (tục đế), tức là sự thật do phân biệt, khái
niệm mà có.
2. Sự thật tuyệt
đối (chân đế), tức là sự thật
siêu việt khỏi khái niệm, sự thật được nhìn thấy từ bản tính không phân biệt.
“Hai sự thật”
là một phương pháp về nhận thức của tông Tam Luận, nhằm đả phá lối nhận thức thực
tại bằng khái niệm, bằng ý thức phân biệt, so sánh, đối đãi; bởi vì nhận thức
theo kiểu đó thì không thể nào nhìn thấy được bản tính chân thực của thực tại.
Như vậy, theo phương pháp này của tông Tam Luận thì sự thật tương đối bao giờ cũng phải bị phủ nhận, phá đổ, cho đến
khi hành giả đạt được sự thật tuyệt đối,
tức là sự chứng ngộ về bản chất chân thật của thực tại bằng con đường trung dung – tức là siêu việt khỏi khái
niệm. Phương pháp ấy như sau:
1.
a) Tất cả mọi người đều cho rằng mọi sự vật trước mắt đều
có thật. (“Có thật” là sự thật tương đối.)
b) Nhưng hành giả thấy rằng, mọi sự vật tuy là có, nhưng
đều do nhân duyên hòa hợp mà có, chứ tự chúng không có bản tính chân thật – tức là “không”. (“Không có bản tính
chân thật” là sự thật tuyệt đối.)
2. Nhưng, nếu cái thấy “không”
của hành giả lại trở thành một khái niệm
“không” để đối lập với khái niệm “có”,
thì:
a) Cả “có” và “không” là sự thật tương đối. Cái thấy nhị nguyên này phải bị phá đổ để tiến tới
sự thật tuyệt đối – tức là thấy rằng:
b) Mọi sự vật là “không
phải có cũng không phải không” – “có” và “không” vốn chỉ là hai mặt của
cùng một thực tại.
3. Nếu cái thấy “không phải có cũng
không phải không” lại trở thành một khái niệm để đối lập với khái niệm “có - không” thì:
a) Cả “có - không”
và “không phải có cũng không phải không” đều trở thành sự thật tương đối, phải bị đả phá để tiến tới cái thấy:
b) Mọi sự vật là “không
phải không phải có, cũng không phải không phải không”, là sự thật tuyệt đối.
4. Lại nữa, nếu cái thấy “không phải
không phải có, cũng không phải không phải không” vừa rồi lại bị khái niệm
hóa, thì:
a) Cả “có - không,
không phải có cũng không phải không” và “không phải không phải có cũng không phải
không phải không” đều trở thành sự
thật tương đối, phải bị phủ nhận để hành giả tiến tới cái thấy:
b) Mọi sự vật “không
phải là không phải chẳng có, cũng không phải là không phải chẳng không”, là
sự thật tuyệt đối.
5. (...)
Sự phủ nhận như trên sẽ dần
dần đưa đến chỗ không thể dùng lời nói để diễn đạt, không thể dùng trí năng để
suy nghĩ, tức là hoàn toàn siêu việt khỏi mọi khái niệm, mọi vọng tưởng phân biệt
để thấy rõ được chân diện mục của thực tại. Tông Hoa Nghiêm gọi phương pháp nhận
thức trên đây là “bốn lớp của hai sự thật”
(tứ trùng nhị đế), mục đích là để
phá trừ mọi chấp trước và hiển thị con đường trung dung.
HAI THẾ GIAN
(nhị thế gian)
Chữ “thế” là các pháp hữu vi trôi chảy khắp ba đời quá khứ, hiện tại, vị
lai; chữ “gian” là giữa mọi sự mọi vật
đều có khoảng cách phân biệt. Một cách tổng quát, có hai loại thế gian:
1. Tình thế
gian (tức hữu tình thế gian): là
thế gian do năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức – xin xem mục “Năm Uẩn” ở sau) giả tạm
hợp lại làm thành các loài có tình thức,
như trời, người, súc sinh v.v...
2. Khí thế gian
(tức vô tình thế gian): là thế
gian do bốn đại (đất, nước, gió, lửa – xin xem mục “Bốn Nguyên Tố” ở sau) tích
tụ mà làm thành các vật không có tình thức
như đất liền, sông, núi, nhà cửa v.v... để dung chứa các loài có tình thức.
Tình thế gian là chánh báo của
các loài hữu tình; khí thế gian là y báo của các loài hữu tình.
HAI TRÍ TUỆ (nhị trí)
Ở đây là chỉ cho trí tuệ xuất thế gian của chư thánh giả,
chư Phật. Có nhiều pháp số về “hai trí tuệ”:
1. Căn bản trí (hay vô phân biệt trí là loại trí tuệ do đoạn tận các hoặc chướng mà
trực tiếp chứng nhập lí thể chân như, thấy rõ nhân không và pháp không, không còn
niệm phân biệt nào đối với vạn pháp) và hậu đắc trí (do đã thành tựu căn bản trí mà có được hậu đắc trí, là loại trí tuệ có phân biệt,
là các loại phương tiện thiện xảo mà chư Phật dùng để hóa độ chúng sinh).
2. Tận trí (trí tuệ vô lậu của bậc vô học do tận diệt phiền não) và vô
sinh trí (trí tuệ biết rõ mình không còn bị thối chuyển vào vòng sinh tử).
3. Thật trí (trí tuệ khế hợp với lí thể chân thật) và quyền trí (trí tuệ quyền
xảo, thông suốt các phương tiện độ sinh).
4. Như lí trí (trí tuệ chiếu soi rõ ràng chân lí đệ nhất nghĩa, thuộc chân đế) và như
lượng trí (trí tuệ chiếu soi rõ ràng sum la vạn tượng trong vũ trụ, thuộc
tục đế).
5. Nhất thiết chủng trí (tương đương với như lí trí, thật trí) và nhất
thiết trí (tương đương với như lượng trí, quyền trí).
6. Quán sát trí (trí tuệ thấu suốt nhân không và pháp không, lí thể chân như hiển hiện,
hoàn toàn bình đẳng, không phân biệt năng chứng cùng sở chứng) và thủ
tướng trí (trí tuệ thấy rõ và giữ lấy tướng trạng sai biệt của vạn pháp,
đối với các pháp sự và lí hoàn toàn viên dung vô ngại).
Nhìn
chung thì tận trí, căn bản trí, thật trí, như lí trí, nhất thiết chủng trí, và
quán sát trí, đều là những tên gọi khác nhau của cùng một trí thể, chẳng qua là
tùy từng trường hợp mà gọi tên này hay tên kia; đó là loại trí tuệ căn bản, trí
tuệ bản thể, hiển nhiên, thường nhiên của chư Phật, là mặt “thể” của trí tuệ Phật. Trong
khi đó, vô sinh trí, hậu đắc trí, quyền trí, như lượng trí, nhất thiết trí, và
thủ tướng trí, cũng là những tên gọi khác nhau của cùng một lực dụng; đó là loại
trí tuệ phương tiện Phật dùng để độ sinh, là mặt “dụng”của trí tuệ Phật.
HAI VÔ NGÃ (nhị vô ngã)
“Vô ngã” là
không có một bản ngã tồn tại. Đó là một ý niệm mà đức Phật đã phương tiện nói
ra để phá bỏ cái ý niệm sai lầm là “có một bản ngã tồn tại” (ngã) mà mọi người
đều chấp chặt. Có hai thứ vô ngã:
1. Con người là
vô ngã (nhân vô ngã). Ý niệm này
nói rằng, con người do năm uẩn hợp lại
mà thành, không có một bản ngã chân thực tồn tại. Khi năm uẩn tan rã thì con
người cũng không còn nữa. Ý niệm này nếu được thực tập bằng thiền quán thì hành
giả có thể diệt trừ được “phiền não chướng”.
2. Sự vật là vô
ngã (pháp vô ngã). Ý niệm này nói
rằng, mọi sự vật trong vũ trụ đều do nhân
duyên hòa hợp và nương nhau mà có, chứ tự nó không có bản ngã tồn tại. Khi
nhân duyên tan rã thì sự vật cũng tan rã. Ý niệm này nếu được thực tập bằng thiền
quán thì hành giả có thể diệt trừ được “sở
tri chướng”.
Kinh Niết Bàn nói: “Tất cả sự vật
đều không có bản ngã và cũng không có gì là sở hữu của bản ngã. Hành giả tu tập
được phép quán niệm này thì dứt trừ được tính ngã mạn, chứng được niết bàn.”
Thực ra, “vô ngã” chỉ là một khái niệm mà đức Phật
đưa ra để đả phá tâm “chấp ngã” của
con người, chứ không phải đó là mục đích cuối cùng để cho người tu học đạt tới.
Nói cách khác, “vô ngã” chỉ là một
phương tiện giúp cho hành giả khai mở tuệ giác. Kinh Niết Bàn nói: “Người trí nên
biết, Như Lai vì người chấp ngã mà nói phép quán vô ngã, và muốn cho các tì
kheo tu tập phép quán vô ngã.”
Vì “vô ngã” chỉ là một khái niệm cho nên nó chỉ có giá trị như một trợ
lực cho công phu thiền tập, và rồi nó phải bị phá bỏ thì tuệ giác mới tỏ lộ ra
được. Nếu nó không bị phá bỏ thì sẽ trở thành một thứ “sở tri chướng”. Trong kinh Niết
Bàn, Phật dạy: “Nếu cho rằng vạn hữu
đều không có ngã thì là đoạn kiến; nếu cho rằng vạn hữu có ngã thì là thường kiến...
Người trí nên quán niệm rằng, ‘vô ngã’ chỉ là giả danh, chẳng thật...”
HAI VÔ THƯỜNG
(nhị vô thường)
Hiện hữu chỉ là một dòng
sinh diệt liên tục. Tất cả vạn pháp không có một thực thể bất biến, mà luôn
luôn chuyển đổi không ngừng. Danh từ Phật học gọi trạng thái sinh diệt, biến
chuyển ấy là “vô thường”, và phân biệt
có hai loại:
1. Khoảnh khắc
vô thường (sát na vô thường), là
trạng thái sinh diệt, biến chuyển đang xảy ra liên tục trong từng giây phút của
sự sống, không lúc nào gián đoạn.
2. Kiếp sống vô
thường (nhất kì vô thường), là sự
chuyển đổi từ một giai đoạn sinh mệnh này sang một giai đoạn sinh mệnh khác.
Nhận xét
Đăng nhận xét