SỐ 10
LƯỢC GIẢI NHỮNG PHÁP SỐ CĂN BẢN
Cư Sĩ Hạnh Cơ biên soạn
MƯỜI BA LA MẬT
(thập ba la mật)
Mười ba la mật
tức mười độ, hay mười pháp qua bờ, cũng gọi là mười
thắng hạnh, tức là 10 đức thù thắng mà các hành giả Bồ-tát thừa phải có đầy
đủ trước khi đạt được thành quả giác ngộ hoàn toàn. 10 thắng hạnh này gồm sáu
pháp qua bờ, và thêm vào bốn pháp qua
bờ nữa là phương tiện, nguyện, lực và trí, được phối hợp với tiến
trình tu tập của hàng Bồ-tát cấp Mười-địa. Nói cách khác, mười ba la mật là mười
thành quả mà hàng Bồ-tát ở cấp Mười-địa đạt được do công năng tu tập, theo thứ
tự như sau:
1. Thí ba la mật: Gồm tài, pháp và vô úy thí; là thành quả của Bồ-tát bậc
Sơ-địa (Hoan-hỉ-địa).
2. Giới ba la mật: Không hại sinh mạng, hành trì giới luật để thường tự
tỉnh sát; là thành quả của bậc Nhị-địa (Li-cấu-địa);
3. Nhẫn ba la mật: Dứt hết giận hờn, không hủy nhục chúng sinh, nhẫn nhục
trước mọi hoàn cảnh cần phải nhẫn; là thành quả của bậc Tam-địa (Phát-quang-địa);
4. Tinh tấn ba
la mật: Tinh cần tu tập không
phút nào xao lãng; là thành quả của bậc Tứ-địa (Diễm-tuệ-địa);
5. Thiền ba la
mật: Thường giữ chánh niệm cho
tâm an định; là thành quả của bậc Ngũ-địa (Nan-thắng-địa);
6. Bát nhã ba
la mật: Trí tuệ thấy rõ thật tướng
của các pháp, thấu suốt diệu lí bình đẳng; là thành quả của bậc Lục-địa (Hiện-tiền-địa);
7. Phương tiện
ba la mật: Dùng mọi phương pháp để
khai mở trí tuệ, hiểu rõ mọi cách thức giúp ích cho chúng sinh; là thành quả của
bậc Thất-địa (Viễn-hành-địa);
8. Nguyện ba la
mật: Thường giữ tâm nguyện cứu độ
chúng sinh, nói pháp vi diệu, biện tài vô ngại; là thành quả của bậc Bát-địa (Bất-động-địa);
9. Lực ba la mật: Có năng lực phân biệt rõ chân ngụy, tu dưỡng các hạnh
lành thực tiễn, giúp chúng sinh dứt bỏ tà kiến; là thành quả của bậc Cửu-địa
(Thiện-tuệ-địa);
10. Trí ba la mật: Trí tuệ biết rõ tất cả các pháp, giữ vững trung đạo,
không chán sinh tử, không ham niết bàn, có lòng xả rộng lớn; là thành quả của bậc
Thập-địa (Pháp-vân-địa).
MƯỜI BẬC
THÁNH (thập thánh)
10 bậc Bồ-tát ở cấp Mười-địa
(từ Sơ-địa cho đến Thập-địa), được gọi là “10 bậc thánh”. (Xin xem mục
“Mười Địa” ở dưới.)
MƯỜI BỨC
TRANH CHĂN TRÂU (thập ngưu đồ - thập mục
ngưu đồ)
Đây là mười bức họa trâu biểu tượng cho hành trình tu chứng của người tu học,
rất được phổ biến trong các chùa, am, thiền viện, Phật học viện và viện đại học
Phật giáo ở các nước Phật giáo Bắc truyền.
– Lấy đề tài “chăn
trâu” để biểu trưng cho công phu tu tập của người tu học, đó không phải là sự
kiện mới lạ, mà đã từng được chính đức Thế Tôn sử dụng trong khi Ngài còn tại
thế; về sau, khi Thiền tông hưng thịnh, nó lại trở thành một trong những thiền
án mà quí vị tổ sư thường dùng để khai thị cho các đệ tử. –
Những bức tranh chăn trâu
này xuất hiện ở Trung-hoa, không biết đích xác là vào thời nào, chỉ biết chắc
chắn là chúng đã được thịnh hành từ thế kỉ XII (dưới triều đại nhà Tống). Tranh
chăn trâu xuất hiện rất nhiều bộ, bộ nào cũng gồm có mười bức. Tất nhiên, những
bộ tranh này không phải do một người vẽ, mà đã do nhiều người, nhưng người vẽ đầu
tiên là ai thì không biết được. Tuy có rất nhiều bộ tranh chăn trâu khác nhau,
nhưng tựu trung có thể xếp thành hai loại: loại theo khuynh hướng Đại thừa và
loại theo khuynh hướng Thiền tông.
A. Tranh Đại Thừa.
Bộ tranh chăn trâu có khuynh hướng đại thừa được truyền
tụng nhất hiện nay là bộ bắt đầu bằng bức “Chưa
Chăn” (vị mục) và kết thúc bằng bức “Vắng
Hết” (song dẫn). Tranh vẽ con trâu đen (tượng trưng cho tâm mê vọng) và người
chăn trâu (tượng trưng cho hành giả). Lần lượt qua từng bức tranh, màu đen của
trâu sẽ chuyển biến dần thành màu trắng, trước tiên là cái đầu, lan dần đến
thân mình, và cuối cùng là đuôi trâu, nói lên rằng, nhờ trải qua nhiều công phu
tu tập mà cái tâm vọng động, cấu nhiễm của hành giả dần dần được gạn lọc mà
sáng dần lên trên nấc thang giác ngộ. Tóm lại, mười bức tranh chăn trâu ở đây là một đường biểu diễn của công
trình điều phục tâm ý của hành giả trên đường giải thoát, giác ngộ. Mười bức
tranh đó chắc chắn là do các thiền sư vẽ, nhưng, như trên đã nói, không biết
đích xác là của ai, chỉ biết rằng, thiền sư Phổ-Minh (? - ?) là người đã sáng
tác mười bài thi tụng (mỗi bài cho một
bức tranh) để nói lên ý nghĩa sâu xa của chúng.
1. Chưa chăn (vị mục).
Tranh vẽ một con trâu toàn
đen đang chạy nhảy lung tung, và chú mục đồng vừa đuổi theo vừa đưa nắm cỏ non
để dụ nó. Lúc này hành giả mới bắt đầu phát tâm tu học, tâm ý hãy còn buông
lung theo trần cảnh, nên phải cố gắng tìm cách “bắt” tâm lại.
2. Mới chăn (sơ điều).
Tranh vẽ người chăn trâu đã
dùng dây thừng xỏ và cột được mũi trâu, và bắt đầu “trị” cho trâu thuần; mũi trâu đã chuyển màu đen thành trắng. Lúc
này hành giả biết quay về nương tựa nơi Ba
Ngôi Báu, nguyện gìn giữ giới luật và tu học nghiêm túc để cho tâm ý không
còn xao lãng, phóng túng theo dục vọng.
3. Chịu phép (thọ chế).
Tranh vẽ con trâu đã hết
hung hăng và chịu khuất phục, trọn cái đầu của trâu đã chuyển thành trắng; và
chú mục đồng dắt trâu đi nhẹ nhàng, không còn phải dùng sức lực lôi kéo hay roi
vọt đánh đập nữa. Tuy vậy, chú vẫn giữ chắc sợi dây xỏ mũi và tay chưa dám bỏ
cây roi. Nhờ quyết lòng tu tập, giới hạnh nghiêm túc mà giờ đây hành giả thấy
tâm ý mình có phần định tĩnh, sáng suốt, nhẹ nhàng hơn. Được vậy là nhờ hành giả
thường trực quán sát và nhận diện dòng tâm ý đang trôi chảy của mình.
4. Quay đầu (hồi thủ).
Tranh vẽ con trâu đã chuyển
sang màu trắng đến nửa thân mình. Nhờ chăn giữ lâu ngày, bây giờ trâu đã dần dần
thuần thục, không còn giống như trâu “hoang” nữa. Chú mục đồng không còn phải mệt
nhọc “trị” nó nữa, mà có thể cột nó vào gốc cây và hưởng được chút nhàn hạ.
Hành giả ngày càng sống với chánh niệm thường xuyên hơn, theo sát và thấy rõ
tâm ý mình hơn, không một hoạt động nào của tâm mà qua lọt được con mắt quán niệm
của hành giả.
5. Ngoan ngoãn (tuần phục).
Tranh vẽ trâu đã trắng đến hết
lưng và bụng, đã được chú mục đồng cởi bỏ sợi dây, vì trâu đã hoàn toàn thuần
thục, không còn lo lắng gì nữa. Hành giả lúc này đã hoàn toàn điều phục tâm ý
mình, hoàn toàn sống trong tỉnh thức. Tâm ý đã thanh tịnh, nhẹ nhàng, thanh
thoát, hành giả thật an lạc, thấy được sự mầu nhiệm của cuộc sống, chung quanh
mình cái gì cũng tươi đẹp, dễ thương.
6. Không ngại (vô ngại).
Tranh vẽ người chăn trâu ngồi
thổi sáo nơi gốc tùng, trâu ngoan ngoãn nằm nghe, khắp thân mình đã chuyển sang
màu trắng; chỉ có cái đuôi là còn đen. Hành giả lúc này hoàn toàn tĩnh lặng,
không cần dụng công điều phục mà tâm ý an nhiên tự tại.
7. Mặc ý (nhậm vận).
Tranh vẽ chú mục đồng thản
nhiên nằm ngủ dưới gốc cây, còn trâu thì mặc tình rong chơi gặm cỏ, toàn thân
trắng toát, từ chóp mũi đến chót đuôi không còn một vết đen nào. Bởi tâm đã an
nhiên tự tại, không còn bị chướng ngại, nên tất cả những kiến chấp sai lạc về
ngã (tức bốn thứ phiền não: ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái) nơi hành giả giờ
đây cũng bị gột sạch; tuy nhiên, những tà kiến về pháp vẫn còn, sự giải thoát
chưa được trọn vẹn.
8. Quên nhau (tương
vong).
Trong tranh vẫn còn có trâu
và mục đồng, nhưng trâu đã quên mất sự có mặt của mục đồng, mà mục đồng cũng
quên mất sự có mặt của trâu. Hành giả cố gắng tiến lên mãi, và giờ đây thì tất
cả mọi tà kiến vô thức về sự tồn tại của ngã cũng như của pháp đều dứt sạch.
9. Chiếc bóng (độc chiếu).
Con trâu trong tranh không
còn trông thấy nữa, người chăn trâu một mình đứng giữa thiên nhiên. Tâm hành giả
bây giờ đã trở thành “vô tâm”, mọi niệm phân biệt đều dứt sạch, không còn có
trong - ngoài, có - không, sinh - diệt, tâm - cảnh, dơ - sạch v.v...; tự tính
chân như của vạn hữu tỏ lộ ra trước mắt.
10. Vắng hết (song dẫn).
Tranh không còn gì cả, chỉ
xuất hiện một hình tròn đầy đặn và trống rỗng. Tuệ giác hoàn toàn sáng tỏ, giải
thoát trọn vẹn, không còn lời gì có thể nói về mức chứng ngộ tột cùng của hành
giả, chỉ diễn tả tượng trưng bằng một hình tròn viên mãn.
B. Tranh Thiền Tông.
Thiền tông chủ trương “chỉ thẳng vào chân tâm, thấy được tính là tức khắc thành Phật” (trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật),
cho nên, khác với tranh đại thừa ở trên, tranh Thiền tông vẽ con trâu trước sau
chỉ có một màu: trắng hoặc đen. Tuy nhiên, tranh trâu trắng thì hiếm thấy vì ít
được thưởng thức, trong khi đó, tranh trâu đen được phổ cập hơn, vì nó có vẻ
hùng mạnh nhưng mộc mạc, gần gũi với cuộc sống hơn. Bộ tranh chăn trâu được mọi
người thưởng thức nhiều nhất là của thiền sư Thanh Cư (? - ?), diễn tả tiến
trình tu tập của hành giả, bắt đầu bằng công việc “tìm trâu” và kết thúc bằng “cả
trâu và người đều mất” (biểu trưng bằng hình vẽ một vòng tròn trắng). Như
thế là chỉ có tám bức họa. Sau đó, thiền sư Tắc Công (? - ?) vẽ thêm bức thứ
chín là “Trở về nguồn cội” (phản bổn
hoàn nguyên); rồi cuối cùng, thiền sư Từ Viễn (? - ?) lại vẽ nốt bức thứ mười
là “Thõng tay vào chợ” (nhập triền
thùy thủ). Cả bộ tranh mười bức này về sau lại được thiền sư Quách Am (đời thứ
15 dòng Lâm Tế) làm cho mỗi bức một bài thi tụng, có kèm lời dẫn giải để nói
lên ý nghĩa của mỗi bức tranh.
Ghi chú: Những dẫn giải về mỗi bức họa sau đây
(phần in chữ nghiêng) là của chính thiền sư Quách Am (Tuệ Sỹ dịch – trích từ
sách Thiền Qua Tranh Chăn Trâu của Trúc Thiên và Tuệ Sỹ).
1. Tìm trâu (tầm ngưu).
Trâu chưa xuất hiện trong bức
tranh mở đầu này, mà chỉ có hình ảnh chú mục đồng đang đi tìm trâu. Tâm của
hành giả vẫn có đó, nhưng lâu nay cứ rong ruổi chạy theo dục vọng trần cảnh, sống
buông trôi trong quên lãng; bây giờ bắt đầu cuộc đời tu tập theo hạnh tỉnh thức,
hành giả mới trở lại đi tìm “tâm” của mình. Nhưng, xưa nay đâu có mất, săn tìm chi? Bởi, quay lưng với Giác mà thành ra lỏng
lẻo; sấn bước vào Trần nên mới bị mất đi. Từ đó, quê hương càng lúc càng diệu vợi,
mà đường sá lại gập ghềnh. Cái lẽ được và mất đã cháy bừng bừng; phải và quấy mọc
lên tua tủa.
2. Thấy dấu (kiến
tích).
Đến đây người chăn trâu vừa
phát hiện ra dấu chân của trâu. Hành giả đang ở những bước đầu của công phu thiền
quán; vì biết “dừng lại”, biết nắm giữ hơi thở, nên đã có được vài giây phút sống
với chánh niệm. Mò kinh để thấy nghĩa, học
giáo để tìm ra tung tích. Rõ, bao khí dụng chỉ một chất vàng, hết thảy tạo vật
là chính ta cả. Chính tà khỏi lựa, chân ngụy khỏi phân. Bởi chưa vào được cửa
đó, nên mượn tiếng kêu là “thấy dấu”.
3. Thấy trâu (kiến
ngưu).
Lúc này người chăn trâu đã
trông thấy được con trâu. Hành giả đã có tiến bộ trong công phu tu tập, sống với
nếp sống tỉnh thức thường xuyên hơn, đã cảm thấy vững chắc hơn trên con đường
giới định tuệ. Theo tiếng mà vào, ghé mắt
là thấy. Cửa sáu căn tỏ rõ không nhầm; ngay nơi động dụng rành rành hiển lộ. Chất
mặn trong nước, chất xanh trong màu. Vén lông mày lên, là nó chứ ai!
4. Được trâu (đắc ngưu).
Người chăn trâu đã bắt được
trâu. Hành giả đang nỗ lực điều phục và làm chủ tâm ý mình, không để bị níu kéo
theo những vọng tưởng tà kiến. Ông cố gắng nhận diện tất cả những tâm sở phiền
não để tìm cách chuyển hóa chúng, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho những chủng
tử giác ngộ có nhiều cơ hội hiện hành. Từ
lâu, vùi lấp ngoài đồng hoang, hôm nay đã gặp mi. Bởi cảnh đẹp nên khó lòng đuổi,
đắm say cỏ non hoài mãi không thôi. Cứng đầu còn quá lắm, tính buông lung chưa
hết. Muốn cho chịu phép mọi bề, cần cho roi vọt.
5. Chăn trâu (mục ngưu).
Người chăn trâu đã bắt được
trâu, dùng dây thừng xỏ mũi và dắt nó đi theo mình. Hành giả lúc này đã hoàn
toàn có được chánh niệm trong lúc thiền tập. Hành giả quán chiếu và thấy rõ một
cách thường xuyên dòng tâm ý đang trôi chảy của mình; hay nói cách khác, đây là
giai đoạn “dùng tâm quán sát tâm”. Trong những khi đi đứng nằm ngồi, không lúc
nào hành giả đánh mất chánh niệm. Niệm
trước vừa khởi, niệm sau tiếp theo. Bởi đã Giác nên thành Chân. Bởi tại mê, hóa
ra vọng. Chẳng phải do cảnh mà có, nhưng chính do tâm mà sinh. Xỏ mũi, cùm đầu,
không chần chờ gì nữa.
6. Cưỡi trâu về
nhà (kị ngưu qui gia).
Người chăn trâu ngồi trên
lưng trâu, khoan thai thổi sáo, thong thả trở về nhà. Lúc này hành giả đã hoàn
toàn làm chủ được tâm ý mình, không lay động, không chướng ngại. Con đường giác
ngộ dẫn về “bản lai chân diện mục” đã được thắp sáng và bày ra trước mặt, hành
giả cứ hướng theo đó mà trở về. Đã hết cuộc
can qua, đã rồi câu được mất. Hát bài ca đồng của anh đốn củi, thổi điệu khúc
quê của chú bé con. Vắt mình trên trâu, mắt mở nhìn mây vời vợi. Kêu réo, không
quay đầu; kéo lôi, cũng chẳng dừng bước.
7. Quên trâu
còn người (vong ngưu tồn nhân).
Trâu đã mất dạng, chỉ còn
người chăn. Sau khi đã trở về với “bản lai chân diện mục”, hành giả thường trực
an trú trong tuệ giác về tính “không” của vạn hữu; tâm của hành giả cũng tức là
hành giả, đâu có gì khác nhau! Thân, Tâm chỉ là một. Pháp không là pháp phân hai, mắt trâu là tông chỉ. Mượn tiếng “bẫy thỏ”
để dụ cho dị danh; lấy chữ “dò cá” để nêu cái sai biệt. Như vàng ròng rút ra từ
đáy quặng; như trăng tỏ vén khỏi cụm mây. Một đạo hàn quang qua khỏi kiếp Uy Âm
vô thỉ.
8. Người trâu đều
quên (nhân ngưu câu vong).
Cả trâu và người chăn trâu đều
mất dạng. Hành giả thường trực an trú trong tuệ giác về tính “không” của vạn hữu,
và tiến đến nấc thang cao tột của tuệ giác giác ngộ: những tà kiến vô thức về sự
tồn tại của NGÃ và PHÁP hoàn toàn bị tiêu diệt. Buông bỏ tình phàm thì ý thánh cũng không. Chỗ có Phật cũng không thèm
rong chơi, chỗ không Phật cũng không thèm ngó lại. Không vướng đầu này hay đầu
nọ, không liếc xéo nơi này hay nơi kia. Hàng trăm con chim ngậm hoa, thẹn sao
là thẹn!
9. Trở về nguồn
cội (phản bản hoàn nguyên).
Tuệ giác siêu việt đã đạt được,
hành giả trở về an trú trong trạng thái “niết bàn tịch tịnh”, giải thoát trọn vẹn
khỏi mọi ý niệm có không, sinh diệt, đến đi, thêm bớt, khổ vui, mê ngộ, chứng đắc
và đối tượng chứng đắc. Bản lai thanh tịnh,
không vướng một mảy trần. Quán sát vẻ tươi và héo của những gì là hữu tướng, an
thân trong cảnh ngưng tịch của đạo vô vi. Không đồng với huyễn hóa, cần gì phải
tu, phải trị. Nước biếc, non xanh, ngồi mà xem cuộc thành bại.
10. Thõng tay
vào chợ (nhập triền thùy thủ).
Với hạnh nguyện độ sinh của
một vị Bồ-tát, và với hành trang “bi-trí-dũng” đã sẵn sàng, hành giả lên đường
nhập thế, dùng mọi phương tiện trí, lực để hóa độ chúng sinh. Khép cánh cửa sài, một mình một bóng, dù
thánh hiền vạn cổ cũng không hay. Chôn vùi cái văn vẻ của riêng ta, bỏ lại lối
mòn của cổ đức. Mang bầu vào chợ, chống gậy về nhà, hàng rượu hàng cá, dạy cho
thành Phật hết.
Ghi chú: 20 bức họa
trên đây đã được chụp lại từ sách Thiền Qua Tranh Chăn Trâu của Trúc Thiên và
Tuệ Sỹ.
MƯỜI DANH HIỆU
(thập hiệu – Như Lai thập hiệu)
Mỗi đức Phật đều có danh hiệu riêng, có ý
nghĩa riêng, gọi là biệt hiệu. Ngoài biệt hiệu đó ra, tất cả chư Phật cùng có đầy
đủ mười tôn hiệu chung, xin nêu tên và ý nghĩa như sau:
1. Như Lai. “Như” nghĩa
là đạo như thật, tức là tất cả pháp tánh. Pháp thân của Phật từ nơi đạo như thật
mà đến, cho nên Phật có tôn hiệu là “Như
Lai”.
2. Ứng Cúng. Phật đã đoạn trừ trọn vẹn ba loại hoặc, vĩnh viễn
thoát khỏi hai loại sinh tử, muôn đức tôn nghiêm, phước tuệ đầy đủ, xứng đáng với
sự cúng dường của khắp chín cõi, – mà người cúng dường lại còn được phước, cho
nên Phật có tôn hiệu là “Ứng Cúng”.
3. Chánh Biến
Tri. Ngoại đạo chấp trước vào hai
cái thấy đoạn diệt và thường hằng, sự hiểu biết của họ chỉ là tà vạy chứ không
chính đáng; hàng nhị thừa thì đam trước vào “không”; hàng Bồ-tát thì chưa đạt đến
tận cùng nguồn gốc. Các hạng trên tuy có thấy biết nhưng không biến khắp, chỉ
có cây đưốc trí tuệ của Phật mới chiếu soi tất cả các pháp, không những chân
chánh mà còn biến khắp, cho nên Phật có tôn hiệu là “Chánh Biến Tri”.
4. Minh Hạnh
Túc. “Minh” là ba minh, tức thiên
nhãn minh, túc mạng minh, và lậu tận minh; “hạnh”
là năm hạnh, tức thánh hạnh, phạm hạnh, thiên hạnh, anh nhi hạnh, và bệnh hạnh.
Ba minh thuộc về tuệ, năm hạnh thuộc về phước. Phật có phước tuệ đầy đủ, cho nên
có tôn hiệu là “Minh Hạnh Túc”.
5. Thiện Thệ. “Thiện” là
tốt, “thệ” là đi. Phật tu tập theo
con đường chân chánh để rồi vào cõi niết bàn; tức là Ngài đã hướng đến nơi tốt
đẹp để đi tới, cho nên có tôn hiệu là “Thiện
Thệ.”
6. Thế Gian Giải. Đức Phật hiểu rõ tất cả mọi tình huống của thế gian
cũng như xuất thế gian, cho nên Ngài có tôn hiệu là “Thế Gian Giải”.
7. Vô Thượng
Sĩ. Trong tất cả các pháp thì niết
bàn là vô thượng; trong loài người thì Phật là vô thượng; trong các thành quả
thì chánh giác là vô thượng; chúng sinh trong chín cõi đều không so sánh được với
Phật, cho nên Ngài có tôn hiệu là “Vô Thượng
Sĩ”.
8. Điều Ngự Trượng
Phu. Phật là đấng đại trượng phu,
có khả năng điều phục, chế ngự mọi ma chướng trong khi tu hành chánh đạo, cho
nên Ngài có tôn hiệu là “Điều Ngự Trượng
Phu”.
9. Thiên Nhân
Sư. Phật là bậc đạo sư của cả trời
và người, cho nên có tôn hiệu là “Thiên
Nhân Sư”.
10. Phật Thế
Tôn. Phật là bậc giác ngộ trọn vẹn,
đầy đủ cả tự giác, giác tha, phước đức hoàn toàn, bậc tam thừa xuất thế gian và
sáu loài phàm phu trong thế gian đều cùng tôn kính, cho nên có tôn hiệu là “Phật Thế Tôn”.
MƯỜI DÂY
RÀNG BUỘC (thập triền)
“Ràng buộc”
là không được tự do tự tại; ở đây có nghĩa là bị trói chặt, bị giam hãm trong
ngục tù sinh tử, trong vòng kiềm tỏa của luân hồi, không được giải thoát. Sở dĩ
như vậy là bởi do mười “dây” phiền não sau đây:
1. Lầm lỗi mà không biết tự
xấu hổ (vô tàm)
2. Không biết tự thẹn khi thấy
người khác có giới hạnh trong sạch hơn mình (vô quí)
3. Ganh ghét (tật)
4. Bỏn sẻn, keo kiệt (xan)
5. Tiếc rẻ (hối)
6. Ham ngủ (thụy
miên)
7. Không an tĩnh (trạo
cử)
8. Tối tăm, không tỉnh táo (hôn
trầm)
9. Giận dữ, hung hãn (phẫn)
10. Che giấu lỗi lầm (phú)
MƯỜI ĐẠI
NGUYỆN (thập đại nguyện)
Đây là 10 hạnh nguyện lớn
của Bồ-tát Phổ Hiền:
1. Thường
kính lễ chư Phật (lễ kính chư Phật).
2. Thường
khen ngợi công đức viên mãn của các đức Như Lai (xưng tán Như Lai).
3. Thường
thờ phụng và đem tâm cúng dường tối thượng để cúng dường chư Phật (quảng
tu cúng dường).
4. Thường
sám hối các nghiệp xấu mình đã tạo ra từ vô thỉ đến nay, và tinh cần giữ gìn
giới luật (sám hối nghiệp chướng).
5. Thường
tùy hỉ các công đức của chư Phật, Bồ-tát, thánh nhân, cho đến của tất cả các
loài chúng sinh phàm phu trong sáu nẻo luân hồi (tùy hỉ công đức).
6. Thường
thỉnh chư Phật, chư vị pháp sư thuyết pháp để cho Phật pháp tồn tại mãi ở thế
gian (thỉnh
chuyển pháp luân).
7. Thường
thỉnh chư Phật, chư Bồ-tát thánh chúng không nhập niết bàn, thị hiện lâu dài ở
thế gian để thuyết pháp cứu độ chúng sinh (thỉnh Phật trụ thế).
8. Vĩnh viễn
nguyện theo Phật để tu học (thường tùy Phật học).
9. Thường
tùy thuận mọi yêu cầu của chúng sinh trong mục đích hóa độ bình đẳng (hằng
thuận chúng sinh).
10. Tất cả
công đức có được do thực hành 9 hạnh nguyện trên, xin đem hồi hướng cho tất cả
chúng sinh, để hoàn thành đại nguyện thành Phật (phổ giai hồi hướng).
10 hạnh nguyện trên đây vô
cùng rộng lớn, được nói rõ trong phần chót (tức quyển 40) của kinh Tứ
Thập Hoa Nghiêm (cũng tức là bộ kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Nhập Bất Tư Nghị Giải Thoát Cảnh
Giới Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm) do pháp sư Bát Nhã dịch ra Hán văn vào thời
đại nhà Đường.
MƯỜI ĐỊA (thập địa)
“Địa” ở đây
là địa vị, là giai tầng tu chứng trên bậc thang giác ngộ. Mười địa là mười giai tầng tu chứng, có nhiều loại, hoặc được lập
riêng cho hàng Thanh-văn (Thanh-văn thập
địa), hoặc hàng Duyên-giác (Duyên-giác
thập địa), hoặc hàng Bồ-tát (Bồ-tát
thập địa), hay Phật thừa (Phật thập địa).
Ngoài ra còn có mười địa được lập chung cho cả ba thừa (Thanh-văn, Duyên-giác
và Bồ-tát – gọi là Tam-thừa cộng thông thập
địa); ở đây xin đề cập đến hai loại căn bản nhất:
A. Mười Địa của Ba Cỗ Xe (tam thừa thập
địa).
Theo Đại Trí Độ Luận và tông Thiên Thai của Trí Giả đại sư, đây là cái
thang giác ngộ có 10 giai tầng tu chứng được lập chung cho ba cỗ xe (tam thừa) Thanh-văn,
Duyên-giác và Bồ-tát:
1. Càn tuệ địa (trí tuệ khô cạn). Đây
là địa vị của một hành giả khi mới phát tâm tu hành. Vì chưa được thấm nhuần
dòng nước Phật pháp cho nên trí tuệ của hành giả hãy còn khô cạn.
2. Tánh địa (thấy tính). Ở địa vị này hành giả bắt đầu thấy được
tính Phật nơi tự thân mình.
3. Bát nhẫn địa (an trú nơi tám sự quán ngộ). Chữ “nhẫn” nghĩa là chịu đựng; và chịu đựng ở đây có nghĩa là an
trú vững chắc nơi thật tướng của vạn pháp mà lòng không bị giao động,
chán nản. Ở địa vị này, hành giả luôn luôn vận dụng trí tuệ để quán chiếu (quán) thật tướng của vạn pháp và nhận
chân (ngộ) được chân lí “Bốn Sự Thật”,
lần lượt trải qua tám trình độ quán ngộ
(bát
nhẫn) như sau:
1) Quán ngộ về “khổ đế” ở cõi Dục.
2) Quán ngộ về “tập đế” ở cõi Dục.
3) Quán ngộ về “diệt đế” ở cõi Dục.
4) Quán ngộ về “đạo đế” ở cõi Dục.
5) Quán ngộ về “khổ đế” ở hai cõi Sắc và Vô-sắc.
6) Quán ngộ về “tập đế” ở hai cõi Sắc và Vô-sắc.
7) Quán ngộ về “diệt đế” ở hai cõi Sắc và Vô-sắc.
8) Quán ngộ về “đạo đế” ở hai cõi Sắc và Vô-sắc.
4. Kiến địa (thấy rõ chân lí). Hành giả đã chứng ngộ chân lí “Bốn
Sự Thật” ở khắp ba cõi, tâm ý hoàn toàn tự do, không còn bị kiềm tỏa bởi các tà
kiến, và bắt đầu được dự vào “dòng Thánh”, tức là Tu-đà-hoàn, quả vị thấp nhất trong bốn quả vị của cỗ xe Thanh-văn
(Thanh văn thừa).
5. Bạc địa (gần kề). Ở địa vị này, hành giả tu tập và diệt trừ
được phần lớn những phiền não căn bản của cõi Dục, tương đương với Tư-đà-hàm, quả vị thứ hai trong bốn quả
vị của cỗ xe Thanh-văn. Với quả vị này, hành giả còn phải tái sinh vào cõi Dục
một lần nữa để tiếp tục tu tập.
6. Li dục địa (rời khỏi cõi Dục). Ở địa vị này, hành giả tu tập và
diệt trừ hoàn toàn các phiền não gốc rễ của cõi Dục, cho nên vĩnh viễn không
còn tái sinh vào cõi Dục nữa, tương đương với A-na-hàm, quả vị thứ ba trong bốn quả vị của cỗ xe Thanh-văn.
7. Dĩ biện địa (đã hoàn tất). Ở địa vị này, hành giả tu tập và dứt sạch
hoàn toàn phiền não của cả ba cõi, chứng được các phép mầu nhiệm, vượt thoát khỏi
ba cõi, tương đương với A-la-hán, quả
vị cao nhất của cỗ xe Thanh-văn.
8. Bích-chi Phật
địa (Duyên-giác). Ở địa vị này
hành giả dùng trí tuệ tự mình quán chiếu nguyên lí “mười hai nhân duyên” mà được
giác ngộ và thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. Phật Bích-chi hay Phật Độc-giác
là quả vị chứng đắc của cỗ xe Duyên-giác (Duyên giác thừa).
9. Bồ-tát địa. Địa vị A-la-hán và Phật Bích-chi cũng đã là những địa
vị giác ngộ, nhưng mới chỉ được phần tự lợi, nên chưa phải là giác ngộ trọn vẹn.
Muốn đạt được quả vị giác ngộ trọn vẹn, cao tột thì hành giả phải phát tâm tu tập
hạnh Bồ-tát. Pháp môn tu tập chính yếu của hành giả ở địa vị này là “sáu phép
qua bờ” (lục độ), và hạnh nguyện chính yếu ở địa vị này là “độ sinh”.
10. Phật địa. Khi thành quả tối hậu của địa vị Bồ-tát (tự lợi và lợi
tha, hay tự giác và giác tha) đã đạt được viên mãn thì hành giả chứng đắc địa vị
cao quí tột bực của sự nghiệp giác ngộ là địa vị Phật-đà.
B. Mười Địa của Bồ Tát.
Riêng hàng Bồ-tát, trong quá
trình tu tập từ khi phát tâm cho đến khi thành tựu hạnh nguyện Bồ-tát, hành giả
phải lần lượt trải qua 7 cấp (gồm 52 giai vị), mà Mười-địa là cấp thứ 5
(sau 4 cấp Mười-tín, Mười-trụ, Mười-hạnh, và Mười-hồi-hướng), gồm có 10 giai vị
(từ giai vị 41 đến 50) như sau:
1. Hoan-hỉ địa (tâm ý rất vui). Sau khi đã trải qua một thời gian
dài tu tập, hành giả diệt trừ được bốn phiền não mang tính chất tà kiến(1), bắt đầu thấy được tính “không” của ngã và pháp,
cởi bỏ được cái tâm niệm phàm phu để hòa nhập vào “Bồ-tát thân”; vì vậy mà có
được niềm vui lớn.
2. Li-cấu địa (xa rời phiền não). Ở địa vị này, hành giả tu tập và
gột sạch được những cấu nhiễm của phiền não, và có được giới hạnh thanh tịnh, giới đức
viên mãn.
3. Phát-quang địa (trí tuệ phát sinh). Hành giả đạt được nhẫn nhục viên mãn, thoát khỏi mê vọng,
ánh sáng trí tuệ của tự tính giác ngộ bắt đầu hiển lộ.
4. Diễm-tuệ địa (trí tuệ rực rỡ). Do sự tinh tấn tu tập mà trí tuệ giác ngộ, từ chỗ bắt đầu phát sinh ở
Phát quang địa, đến đây đã trở nên rực rỡ, thù thắng.
5. Nan-thắng địa (đạt được một cách khó khăn). Từ Diễm tuệ địa tiến
lên được đến đây quả là một hành trình vô cùng khó khăn. Hành giả phải thường
xuyên tu tập thiền định để có được một
định lực thâm hậu, thấu suốt được nguyên lí “hai sự thật” (nhị đế)(2), chứng được
pháp thân thanh tịnh.
6. Hiện-tiền địa (chân như hiển hiện). Ở địa vị này, hành giả tiếp tục
diệt trừ các căn bản phiền não vi tế và hoàn thành việc phát triển trí tuệ cao tột, hoàn tất công hạnh tu tập
“sáu phép qua bờ” (lục độ), vượt khỏi các khái niệm phân biệt giữa có và không,
nhiễm và tịnh v.v..., cho nên tự tính chân như của vạn hữu tỏ lộ ra trước mắt.
7. Viễn-hành địa (đi xa). Ở đây, tâm ý của hành giả bắt đầu an trú thường
xuyên trong sự thông suốt về tính “không” của ngã và pháp. Tuy tà kiến vô thức
về sự tồn tại của pháp vẫn còn, nhưng tà kiến vô thức về sự tồn tại của ngã thì
hoàn toàn bị tiêu diệt, phát khởi đại bi tâm và thành đạt phương tiện vô ngại trong việc độ sinh.
8. Bất-động địa (không lay động). Ở địa vị này, tà kiến vô thức về sự
tồn tại của pháp nơi tâm ý hành giả cũng hoàn toàn bị tiêu diệt. Vì vậy, hành
giả được an trú trong trạng thái hoàn toàn thanh tịnh mà du hành tự tại, không
còn bị các ma phiền não tham sân si cũng như ngũ dục, lục trần làm cho lay động
(bất động); không còn bị rơi trở lại
trong các cảnh giới đau khổ (bất đọa);
không còn bị thối lui vào con đường tu tập của hàng tiểu thừa (bất thối); và không còn bị bất cứ một
thứ tà kiến nào làm cho tán loạn (bất
tán).
9. Thiện-tuệ địa (trí tuệ diệu dụng). Hành giả thành tựu được trí tuệ biện tài vô ngại, nên có thể ra
đi giáo hóa độ sinh khắp cả mười phương ba cõi, đồng thời xét đoán được những
chúng sinh nào đáng được cứu độ và những chúng sinh nào không đáng được cứu độ.
10. Pháp-vân địa (mây pháp). Đây là địa vị cao tột trên đường tu tập của
Bồ-tát hạnh. Ở địa vị này, hành giả có tuệ
giác và muôn hạnh đầy đủ, du hành giáo hóa khắp nơi với tâm bình đẳng,
không phân biệt người đáng hay không đáng được cứu độ, dường như mây lành, có
thể tưới mưa cam lộ xuống khắp các nơi để làm nảy sinh thiện căn nơi tất cả
chúng sinh. Có thể nói, đó chính là hóa thân của Phật.
(1) Xin xem lại
mục “Bốn Phiền Não” ở trước.
(2) Xin xem lại
mục “Hai Sự Thật” ở trước.
MƯỜI ĐỘNG LỰC
SAI KHIẾN (thập sử)
Đây là mười loại phiền não làm động lực sai khiến, thúc đẩy
chúng sinh tạo nên các hành động sai lầm, xấu xa, tội lỗi, gây đau khổ cho
mình, cho người, và cho cả muôn loài; đó là: tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến,
giới cấm thủ kiến.
10 động lực sai khiến này có thể chia làm hai nhóm: một nhóm gồm 5 loại phiền
não ở phần đầu, tức tham, sân, si, mạn,
nghi, gọi là “5 độn sử” (xin
xem lại mục “Năm Độn Sử” ở trước); và một nhóm
gồm 5 loại phiền não ở phần sau, tức thân
kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến, gọi là “5 lợi
sử” (xin xem lại mục “Năm Lợi Sử” ở trước).
Như vậy, 10 động lực sai khiến này cũng chính là 6 phiền
não gốc rễ (lục căn bản phiền não – xin xem lại mục “Sáu Phiền Não Gốc Rễ” ở
trước), nhưng được trình bày chi
tiết hơn, cho nên chúng cũng được gọi là “10 phiền não gốc rễ” (thập căn bản phiền
não).
Lại nữa, 6 phiền não gốc rễ
cũng có tên là 6 tùy miên (xin xem lại
mục “Sáu Tùy Miên” ở trước), cho nên,
10 động lực sai khiến này cũng được gọi là “10 tùy miên” (thập tùy miên).
Tóm lại, 10 sử cũng tức là 10 tùy miên, cũng tức là 10
căn bản phiền não, và cũng tức là 6 căn bản phiền não.
MƯỜI HẠNH (thập hạnh)
Đây cũng là 10 trong 52 giai
vị trên tiến trình tu tập của hàng Bồ-tát. Chữ “hạnh” ở đây là chỉ cho các hành động lợi tha. Ở hai cấp Mười-tín
và Mười-trụ, hành giả chỉ tu phần tự lợi, ở cấp Mười-hạnh (cấp thứ ba)
này thì hành giả tu phần lợi tha, gồm có:
1. Hạnh Hoan-hỉ: Bồ-tát dùng vô lượng diệu đức của Như Lai mà tùy thuận
ở khắp mười phương.
2. Hạnh
Nhiêu-ích: Thường khéo léo làm những
công việc có lợi ích cho chúng sinh.
3. Hạnh Vô-sân-hận: Tu nhẫn nhục, dứt bỏ sân hận, nhẫn nhịn với cả kẻ oán
thù, giữ đức khiêm cung, không làm hại mình hại người.
4. Hạnh Vô-tận: Luôn luôn tinh tấn, phát tâm cứu độ tất cả chúng
sinh, cho đến khi tất cả đều chứng nhập niết bàn, không mỏi mệt, không chán nản.
5. Hạnh
Li-si-loạn: Bồ-tát luôn sống
trong chánh niệm, tâm không tán loạn; đối với tất cả các pháp, không lầm lẫn.
6. Hạnh Thiện-hiện: Biết không có pháp, ba nghiệp vắng lặng, không bị cái
gì ràng buộc mà cũng không đắm trước vào cái gì, tuy vậy, không bao giờ từ bỏ
việc giáo hóa chúng sinh.
7. Hạnh Vô-trước: Trải qua vô số cõi nước cúng dường chư Phật và cầu
pháp mà tâm không bao giờ cho là đủ, tuy vậy, lúc nào cũng lấy cái tâm vắng lặng
mà quán chiếu các pháp, cho nên không hề bị vướng mắc vào pháp nào cả.
8. Hạnh Tôn-trọng: Tôn trọng căn lành và trí tuệ, cho nên càng tăng tiến
tu tập các hạnh tự lợi và lợi tha.
9. Hạnh Thiện-pháp: Có đủ trí giải và biện tài vô ngại, thành tựu các thiện
pháp giáo hóa để giữ gìn chánh pháp, làm cho hạt giống Phật không bị dứt tuyệt.
10. Hạnh
Chân-thật: Thành tựu ngôn ngữ “đệ
nhất nghĩa đế”, nói thế nào làm thế ấy, làm thế nào nói thế ấy, nói và làm phù
hợp nhau, sắc và tâm đồng thuận.
MƯỜI HẠNH
NHẪN (thập nhẫn)
Trong thời kì tu hành Bồ-tát
đạo, hành giả thường thực hành 10 hạnh nhẫn như sau:
1. Nội nhẫn: Bồ-tát thường nhẫn chịu những đau khổ trong thân tâm
mình, không hề khởi niệm buồn lo.
2. Ngoại nhẫn: Bồ-tát thường nhẫn chịu mọi khổ não từ bên ngoài mang
lại, không hề khởi niệm sân hận.
3. Pháp nhẫn: Bồ-tát nghe được giáo pháp vi diệu sâu xa mà tâm không
kinh sợ, lại còn cần cầu đọc tụng.
4. Tùy Phật
giáo nhẫn: Khi tâm buồn giận khởi
dậy, Bồ-tát y theo lời Phật dạy mà tư duy quán chiếu: thân này nương vào đâu mà
sinh? Các pháp nhân những duyên gì mà khởi? Do không tìm thấy nguyên nhân của nỗi
buồn giận, không thấy được cái chỗ thân sinh, cái chỗ duyên khởi, mà cái tâm buồn
giận kia tiêu mất.
5. Vô phương sở
nhẫn: Bồ-tát ở bất cứ lúc nào, bất
cứ chỗ nào cũng thường sinh tâm nhẫn chịu.
6. Vô phân biệt
nhẫn: Không phân biệt là người thân
kẻ sơ, người trên kẻ dưới, người giàu sang kẻ nghèo hèn, tất cả đều đem tâm bình
đẳng mà nhẫn chịu.
7. Bất kiến sự
nhẫn: Tâm nhẫn có mặt thường trực,
không phải đợi lúc đối diện với hoàn cảnh ngang trái mới khởi tâm nhẫn chịu.
8. Bất bức não
nhẫn: Nếu gặp cảnh xấu, bị lăng
nhục, Bồ-tát cũng nhẫn chịu được.
9. Bi tâm nhẫn: Bị chúng sinh nhục mạ, gây buồn phiền, Bồ-tát đã không
dấy niệm sân hận, lại còn khởi tâm từ bi thương xót.
10. Thệ nguyện
nhẫn: Bồ-tát nghĩ nhớ từ buổi ban
đầu từng ở trước Phật phát nguyện cứu độ chúng sinh, ngày nay nếu sân hận buồn
phiền đối với chúng sinh, thì đã không tự độ được, còn nói gì đến việc độ cho
ai! Nghĩ như thế thì tâm sân hận không thể phát sinh được, mà đối với bất cứ
chuyện gì Bồ-tát cũng nhẫn chịu được.
MƯỜI HỒI HƯỚNG
(thập hồi hướng)
Trên tiến trình tu tập của
hàng Bố-tát, Mười-tín là cấp thứ nhất;
Mười-trụ là cấp thứ nhì; Mười-hạnh là cấp thứ ba; Mười-hồi-hướng
này là cấp thứ tư. “Hồi hướng” nghĩa
là hướng trở lại, xoay trở về, ở đây có ý nói, Bồ-tát khởi tâm đại bi, quay trở
lại để cứu hộ chúng sinh. Mười-hồi-hướng
cũng được gọi là Mười-hướng, gồm có 10 giai vị:
1. Hồi hướng cứu
hộ tất cả chúng sinh nhưng lìa khỏi tướng chúng sinh: Thực hành sáu pháp qua bờ, bốn cách thu phục để cứu hộ
chúng sinh một cách bình đẳng, không phân biệt kẻ oán người thân.
2. Hồi hướng
không hoại: Đã có được một đức
tin bền chắc (không hoại) nơi Tam Bảo, nay đem hồi hướng căn lành ấy đến tất cả
chúng sinh, làm cho họ đạt được nhiều lợi ích an lành.
3. Hồi hướng bằng
với tất cả chư Phật: Đồng với những
việc làm của chư Phật trong ba đời, không đắm sinh tử, không xa rời niết bàn.
4. Hồi hướng đến
tất cả mọi nơi: Lấy những căn
lành tu tập được, do sức hồi hướng mà trải khắp đến tất cả mọi nơi, từ Tam Bảo
cho đến chúng sinh, dùng làm các lợi ích để cúng dường và phụng sự.
5. Hồi hướng
kho công đức vô tận: Tùy hỉ tất cả
căn lành vô tận, hồi hướng mà làm Phật sự, để đạt được căn lành công đức vô tận.
6. Hồi hướng
tùy thuận căn lành bình đẳng: Hồi
hướng những căn lành tu tập được, được chư Phật gia hộ, có thể thành đạt những
căn lành kiên cố.
7. Hồi hướng
tùy thuận quán sát bình đẳng tất cả chúng sinh: Tăng trưởng tất cả các căn lành, hồi hướng cho lợi
ích tất cả chúng sinh.
8. Hồi hướng tướng
chân như: Thuận theo tướng chân
như mà đem tất cả căn lành để hồi hướng.
9. Hồi hướng giải
thoát, không trói buộc, không dính mắc: Đối với tất cả các pháp, không ôm giữ, không bám dính, không bị ràng
buộc, đạt được tâm giải thoát, dùng các pháp lành mà hồi hướng, thực hiện hạnh
Phổ Hiền, đầy đủ mọi công đức.
10. Hồi hướng
pháp giới vô lượng: Tu tập tất cả
căn lành vô tận, lấy đó để hồi hướng, nguyện cầu pháp giới có được vô lượng
công đức.
MƯỜI MÔN MẦU
NHIỆM (thập huyền môn - thập huyền duyên
khởi)
Đây là giáo lí chủ yếu của tông
Hoa Nghiêm. 10 môn mầu nhiệm tức là từ 10 phương diện mà nói rõ cái tướng sự sự vô ngại pháp giới trong bốn loại
pháp giới (lí vô ngại pháp giới, sự vô
ngại pháp giới, lí sự vô ngại pháp giới, sự sự vô ngại pháp giới), nhằm biểu
thị yếu nghĩa: mọi hiện tượng trong vũ trụ tức
là nhau (tương tức), ở trong nhau (tương nhập), tác dụng lẫn
nhau (hỗ tương tác dụng), không chướng ngại nhau (hỗ bất tương ngại). Thông suốt được yếu
nghĩa này thì có thể nhập vào đại hải huyền diệu của kinh Hoa Nghiêm, cho nên gọi là “huyền môn”. Lại nữa, 10 huyền môn này đều cùng làm điều kiện
cho nhau mà khởi, cho nên cũng gọi là “duyên khởi”. Xin lược thuật 10
huyền môn ấy như sau:
1. Đồng thời cụ
túc tương ứng môn: Tất cả mọi hiện
tượng trong vũ trụ tương ứng cùng lúc, đầy đủ trọn vẹn cùng lúc, cùng y nơi lí
duyên khởi mà thành lập, một và nhiều cùng một thể tánh với nhau, không có trước
sau khác biệt nhau.
2. Quảng hiệp
tự tại vô ngại môn: Không gian rộng
hẹp có vẻ như mâu thuẫn nhau, nhưng chính sự mâu thuẫn ấy lại là môi giới để mọi
hiện tượng có thể “tương tức tương nhập”; cho nên cái rộng và cái hẹp hoàn toàn
tự tại viên dung, không có tính chướng ngại.
3. Nhất đa
tương dung bất đồng môn: Một hiện
tượng và nhiều hiện tượng dung nhiếp nhau, trong một hiện tượng có đầy đủ nhiều
hiện tượng, trong nhiều hiện tượng có dung chứa một hiện tượng; một và nhiều nhập
vào, ở trong nhau hoàn toàn vô ngại, nhưng tính chất và tướng trạng khác nhau của
chúng vẫn không mất.
4. Chư pháp
tương tức tự tại môn: Mọi sự vật
tức là nhau; sự vật này tức là sự vật kia, sự vật kia tức là sự vật này; một sự
vật tức là nhiều sự vật, nhiều sự vật tức là một sự vật; vật dơ tức là vật sạch,
vật sạch tức là vật dơ; vật nhỏ tức là vật lớn, vật lớn tức là vật nhỏ; thô lậu
tức là vi diệu, vi diệu tức là thô lậu; v.v... tất cả đều dung nhiếp nhau mà vẫn
tự tại vô ngại.
5. Ẩn mật hiển
liễu câu thành môn: Khi một vật có
mặt, hiển lộ ra, thì nhiều vật khác ẩn kín, không có mặt; vật hiển lộ ra và nhiều
vật ẩn kín ấy đều cùng chung một thể tánh, và đồng thời cùng thành lập. Một pháp
và tất cả pháp là cùng một thể tánh.
6. Vi tế tương
dung an lập môn: Môn này cũng nằm
trong nội dung giáo lí “tương tức tương
nhập”, nhưng đặc biệt nhấn mạnh về tướng
của sự vật. Chữ “vi tế” có 3 ý nghĩa:
- vật được chứa rất nhỏ, như hạt cải được chứa trong chiếc bình thủy tinh; - vật
chứa rất nhỏ, như một vi trần chứa hằng sa thế giới; - vi tế khó biết được, như
vi trần và quốc độ có thể dung chứa nhau, việc này quá vi tế nên rất khó biết.
Một pháp dung nhiếp nhiều pháp, pháp nhỏ nhập trong pháp lớn; nhưng tướng một và
tướng nhiều không bị hủy hoại, tướng nhỏ và tướng lớn không bị tạp loạn, trật tự
tề chỉnh, cho nên gọi là “an lập”.
7. Nhân Đà La
võng pháp giới môn: Sum la vạn tượng
trong vũ trụ, mỗi mỗi đều hiển lộ nhau, làm thành nhau, sinh khởi nhau, trùng
trùng vô tận, giống như tấm lưới treo ở cung trời Đế Thích. – Tấm lưới treo ở
cung điện trời Đế Thích, mỗi mắt lưới đều có gắn ngọc minh châu. Những hạt ngọc
này trong suốt, chiếu sáng lẫn nhau, hiện hình trong nhau, trùng trùng vô tận,
không gian thì có hạn mà cảnh giới thì vô cùng.
8. Thác sự hiển
pháp sinh giải môn: Chân lí thâm
diệu khó hiểu, có thể nhìn nơi những sự vật cụ thể thông thường mà hiểu được;
như thế là vì, cái ý nghĩa sâu xa của chân lí vốn đã hàm chứa sẵn trong những sự
vật cụ thể thông thường. Như thế tức là, sự vật cụ thể thông thường và chân lí
nó biểu hiện là một, không phải hai, không khác biệt; sự vật cụ thể tức là chân
lí, chân lí tức là sự vật cụ thể.
9. Thập thế
cách pháp dị thành môn: 3 đời quá khứ, hiện tại và vị lai, mỗi đời
lại bao gồm 3 đời quá khứ, hiện tại và vị lai; như thế tức là, 3 đời mà hàm chứa
9 đời. 9 đời này cũng chỉ thu nhiếp vào
trong một niệm hiện tiền; vậy một niệm
là tổng quát, 9 đời là chi tiết, hợp tổng quát và chi tiết lại với nhau, gọi là
“10
đời” (thập thế). Nhưng 10 đời
ấy vẫn phân biệt rõ ràng, không hề lẫn lộn, gọi là “cách pháp”. 10 đời tuy
khu biệt nhưng tương tức tương nhập; tương tức tương nhập nhưng cái tướng dài
ngắn, trước sau không hề mất, gọi là “dị thành”. Thời gian vốn vô thỉ vô
chung, 3 đời làm nhân quả cho nhau, dung nhiếp nhau, cho nên một niệm tức là vô
lượng kiếp, vô lượng kiếp tức là một niệm; đó là tính viên dung vô ngại của thời
gian.
10. Chủ bạn
viên minh cụ đức môn: Mọi hiện tượng
đều là duyên khởi, cho nên, hiện tượng nào được nêu lên, thì hiện tượng ấy là chủ
trong lúc đó, còn tất cả các hiện tượng khác là bạn. Cứ như thế, sum la vạn
tượng đều cùng nhau làm chủ làm bạn, không hề trắc trở chướng ngại. Nếu sáng tỏ
trọn vẹn yếu nghĩa này, thì quán chiếu bất cứ một pháp nào cũng đều đầy đủ vô tận
đức tướng.
MƯỜI NGUYỆN
LỚN của BỒ TÁT PHỔ HIỀN (Phổ Hiền thập
nguyện)
Phổ Hiền (có nghĩa là sự hiền
đức phổ cập khắp nơi) là tên của một vị Bồ-tát lớn, thường được các kinh điển đại
thừa (nhất là Hoa Nghiêm và Pháp Hoa) nhắc nhở và khen ngợi. Vì lòng
đại bi, ngài nguyện luôn luôn dùng mọi phương tiện để tuyên dương Phật pháp,
hóa hiện mọi thân tướng để cứu độ chúng sinh, và ủng hộ tất cả những ai hành
trì và hoằng dương Phật pháp. Ngài có lập mười điều nguyện lớn, được ghi trong
kinh Hoa Nghiêm như sau:
1. Nguyện thường cung kính
và lễ bái chư Phật (lễ kính chư Phật).
2. Nguyện thường khen ngợi
công đức của chư Phật (xưng tán Như
Lai).
3. Nguyện thường thực hành hạnh
bố thí, cúng dường (quảng tu cúng dường).
4. Nguyện thường ăn năn các
tội lỗi đã tạo ra và ngăn ngừa các tội lỗi chưa phát sinh (sám hối nghiệp chướng).
5. Nguyện thường hoan hỉ và
khuyến khích những công việc có ích lợi do mọi người thực hiện (tùy hỉ công đức).
6. Nguyện thường cầu xin Phật
hoằng hóa đạo pháp (thỉnh chuyển pháp
luân).
7. Nguyện thường cầu xin Phật
thường trú ở thế gian để chúng sinh được gội nhuần mưa pháp (thỉnh Phật trụ thế).
8. Nguyện thường theo Phật để
tu học (thường tùy Phật học).
9. Nguyện thường thuận theo
tâm ý của mọi chúng sinh để hướng dẫn tu học (tùy thuận chúng sinh).
10. Nguyện thường hồi hướng
tất cả công đức lành cho tất cả chúng sinh đều được thành tựu đạo quả giải
thoát (phổ giai hồi hướng).
Với chí nguyện tu học và phụng
sự chúng sinh, hành giả lấy các hạnh nguyện trên đây làm hạnh nguyện của chính
mình. Phật là đối tượng của hành giả, và “Phật” ấy nào phải ở đâu xa, mà chính
là tự tính giác ngộ sẵn có nơi mình! Hãy cung kính, hãy lễ bái, hãy cúng dường
v.v... cái tự tính giác ngộ ấy!
MƯỜI NIỆM TƯỞNG
(thập niệm)
Chữ “niệm” nghĩa là nhớ, nghĩ đến một đối tượng, cũng tức là làm cho đối
tượng đó có mặt trước tâm ý trong giây phút hiện tại. Trái lại là “thất niệm”,
tức là quên lãng. Đối với người tu học Phật, NIỆM có tác dụng ngăn chận vọng tưởng,
khiến cho tâm được an tịnh, không loạn động. Để đạt được mục đích đó, tâm ý phải
thường tập chú (niệm) vào mười đối tượng sau đây:
1. Niệm Phật: chuyên tâm quán tưởng về thân tướng hảo và các thứ
công đức của Phật.
2. Niệm pháp: Quán tưởng đến giáo pháp của Phật cùng những qui tắc
tu hành.
3. Niệm Tăng: Quán tưởng đến đức hòa hợp cùng công hạnh hành đạo của
tăng đoàn và chư vị thánh chúng.
4. Niệm giới: Quán tưởng về công đức trì giới có công năng ngăn ngừa
nghiệp ác, thành tựu đạo hạnh.
5. Niệm thí xả: Quán tưởng công đức bố thí diệt trừ được tâm xan
tham, sinh trưởng quả phúc, lợi ích chúng sinh, mà lòng không cầu mong báo đáp.
6. Niệm thiên: Quán tưởng chư thiên thành tựu thiện nghiệp, được
thân tướng tốt đẹp, phước đức đầy đủ; mình cũng tu tập thiện nghiệp để được phước
đức như vậy.
7. Niệm hưu tức: Quán tưởng đến chỗ ở tịch tĩnh, cắt đứt mọi hệ lụy,
chuyên tu tập thánh đạo.
8. Niệm an ban: Theo dõi hơi thở dài ngắn, đếm hơi thở vào ra, nhiếp
tâm vắng lặng, diệt trừ vọng tưởng.
9. Niệm thân vô
thường: Quán tưởng
thân này do nhân duyên giả hợp mà thành, tất cả các bộ phận trong ngoài, không
có gì là chân thật, thường còn vĩnh viễn.
10. Niệm tử: Quán tưởng đời người như mộng ảo, chỉ một thời gian
ngắn là tiêu hoại.
MƯỜI THỨ NHƯ
VẬY (thập như thị - thập như)
“Như thị”
nghĩa là như vậy, thật tướng của vạn pháp xưa nay vốn như thế, chỉ có thể dùng
trí tuệ bát nhã mà quán chiếu để thấy rõ tường tận; không hỏi tại sao, không dùng
ý thức để suy nghĩ, biện luận, phân biệt, lượng định, xét đoán, vì sẽ không thể thấy được gì hết. Thật tướng
của các pháp xưa nay vốn có đầy đủ 10 thứ như vậy, đó là:
1. Tướng như
vậy (như thị tướng). “Tướng” tức là tướng trạng,
chỉ cho hình tướng bên ngoài của vạn pháp, có thể trông thấy được – như những hành
vi thiện ác hiển lộ ra ngoài, có thể trông thấy được.
2. Tánh như vậy (như thị
tánh). “Tánh” có nghĩa là không biến đổi, chỉ cho bản tánh nội tại của vạn
pháp, mắt nhìn không thấy được; bản tánh của mỗi pháp không giống nhau. Như
trong cây gỗ có sẵn tánh lửa, tánh ấy không thay đổi, nhưng mắt nhìn không thấy
được; khi nào gặp duyên thì tánh lửa ấy phát hiện thành ra tướng lửa, mắt mới
thấy được. Chữ “tánh” này cũng chỉ
cho lí tánh, phật tánh.
3. Thể như vậy (như thị
thể). “Thể” là chủ thể, là bản thể của vạn pháp, mà tướng và tánh là hai
thuộc tánh của nó. “Thể” cũng là chất
thể, như 5 uẩn, 12 xứ đều lấy sắc và tâm làm thể.
4. Lực như vậy (như thị
lực). “Lực” là năng lực, là cái công năng tiềm tàng đầy đủ trong bản thể;
như bùn, đất, cây có thể dùng làm vách tường, màu sắc dùng để vẽ hình
v.v...
5. Tác như vậy (như thị
tác). “Tác” là những gì được hiển hiện ra bằng động tác, hành động; như ở
con người, “tác” là những hành động
(nghiệp) của thân, ngữ, ý.
6. Nhân như vậy (như thị
nhân). “Nhân” là chỉ cho nguyên nhân trực tiếp của một kết quả.
7. Duyên như
vậy (như thị duyên). “Duyên” là những điều kiện
trợ giúp, là những nguyên nhân gián tiếp giúp cho cái nhân trực tiếp kết thành
quả.
8. Quả như vậy (như thị
quả). “Quả” là cái kết quả do nhân và duyên hòa hợp làm thành. Khoảng cách
giữa nhân và quả có thể là đời quá khứ và đời hiện tại, hoặc đời hiện tại và đời
vị lai, hoặc chỉ ngay trong đời hiện tại.
9. Báo như vậy (như thị
báo). “Báo” là quả báo, tức do nghiệp nhân thiện ác ở đời trước mà chiêu
cảm quả báo vui khổ ở đời sau (hoặc nhiều đời sau).
10. Bản mạt cứu
cánh đẳng như vậy (như thị bản mạt cứu cánh đẳng). “Bản” là
chỉ cho tướng (nói tới đầu tiên, số 1 ở trên), “mạt” là chỉ cho báo (số 9 kế trên); “cứu cánh đẳng” là rốt ráo bình đẳng. Cả
9
thứ “như thị” ở trên, từ “như thị
tướng” (bản) cho đến “như thị báo” (mạt), đều do nhân duyên hòa hợp mà phát sinh, cho nên đều là không;
cái “không”
này chính là thật tướng đồng nhất của vạn pháp, rốt ráo bình đẳng.
MƯỜI THỨ TRÓI
BUỘC (thập triền)
Đây là mười loại phiền não
khởi lên từ các phiền não căn bản (tham, sân, si), thúc đẩy chúng sinh tạo các
nghiệp xấu ác, rồi cứ bị trói buộc mãi trong vòng sinh tử, không thoát li ra được.
Đó là các phiền não:
1. Phẫn: Gặp việc trái ý thì tức giận, làm mất chánh niệm.
2. Phú: Tính hay che dấu tội lỗi của mình.
3. Tật: Thấy người khác có đức hạnh cao thượng, được mọi người
kính mến, qui hướng, thì không biết kính trọng, không gần gũi để học hỏi, lại
còn ganh ghét, nói xấu, hay xa lánh.
4. Xan: Tính keo kiệt. Có tiền của thì không muốn chia sớt để
cứu giúp người; có kiến thức thì không muốn san sẻ cùng người.
5. Vô tàm: Mình không có đức hạnh, luôn luôn tạo lầm lỗi mà
không biết ăn năn, tự thẹn.
6. Vô quí: Thấy người khác không làm lỗi, có đức hạnh cao thượng
mà không tự biết hổ thẹn.
7. Trạo (điệu)
cử: Tâm niệm lúc nào cũng giao động
lăng xăng, không trầm tĩnh, khiến cho không thể nào tu tập thiền quán được.
8. Hôn trầm: Tâm thần tối tăm, dật dờ, trì trệ, không nhận thức được
các pháp lành.
9. Hối: Hay nghĩ nhớ về những tội lỗi đã qua, làm cho tâm lúc
nào cũng bất an.
10. Miên: Ham ngủ cho nên trở thành lười biếng, tâm thần mỏi mệt,
yếu đuối, không đủ sức để tự kiểm soát mình.
MƯỜI TÍN (thập tín)
Ở trong Phật pháp, các hành
giả phát tâm tu hành đạo Bồ-tát, mục đích là cầu thành Phật để rộng độ chúng
sinh. Trên tiến trình tu tập ấy, kể từ khi mới phát tâm (sơ phát tâm) cho đến
khi thành Phật, hành giả phải tuần tự trải qua 52 bậc thang, bao gồm trong 7 cấp:
Thập-tín, Thập-trụ, Thập-hạnh, Thập Hồi-hướng, Thập-địa, Đẳng-giác, và Diệu-giác.
Thập-tín là cấp khởi đầu của tiến trình tu Bồ-tát đạo. “Tín” là lòng tin. Trong Phật pháp, khi
nói đến TÍN thì luôn luôn có nghĩa là chánh tín; vì trong đạo Phật không hề có
mê tín. Tin Phật mà tin một cách mê muội, mù quáng, sai lạc, là không phải lòng
tin trong đạo Phật. Vì vậy, các kinh luận đều giải thích chữ “tín” rằng: TÍN là một trong 11 tâm sở
THIỆN (trong 51 tâm sở – theo tông Duy Thức).
Tín là lòng tin tưởng sâu sắc vào thật thể của vạn pháp, tịnh đức của Tam Bảo
và căn lành của tất cả các pháp thế và xuất thế gian, làm cho tâm được lắng đọng
và trong sạch. Phật pháp sâu rộng như biển cả, muốn vào được, phải có đức tin
làm bước khởi đầu. Đức tin có khả năng tiêu trừ mọi mối nghi hoặc, làm phát triển
các pháp lành, là mẹ của mọi thứ công đức. Xem thế thì đức tin thật là vô cùng
quan trọng đối với người tu học Phật; hơn thế nữa, TÍN phải là bước khởi đầu
cho người tu tập hạnh Bồ-tát.
Cấp Thập-tín gồm có mười bậc,
danh số Phật học gọi là “thập tín tâm”,
hay gọi tắt là “thập tâm” hay “thập
tín”, gồm có:
1. Tín tâm: một lòng tin tưởng và quyết định muốn được thành tựu.
2. Niệm tâm: tâm thường niệm tưởng đến Phật, Pháp, Tăng, giới luật,
bố thí và niết bàn.
3. Tinh tấn
tâm: chuyên cần tu tập các nghiệp
lành.
4. Định tâm: giữ tâm tĩnh lặng, gạt bỏ những ý tưởng hư ngụy, những
tưởng tượng lăng nhăng, những nhớ nghĩ vô ích.
5. Tuệ tâm: lắng nghe giáo pháp, tư duy quán chiếu, thấy tất cả
pháp là vô ngã, tự tánh của các pháp là không tịch.
6. Giới tâm: thọ trì luật nghi thanh tịnh của Bồ-tát, giữ thân miệng
ý trong sạch, không phạm các lỗi lầm, nếu có lỗi lầm thì hối cải.
7. Hồi hướng tâm: tất cả các căn lành tu tập được đều đem hồi hướng về
quả vị bồ đề chứ không mong cầu các phước báo hữu vi, hồi hướng đến tất cả
chúng sinh chứ không cho riêng mình, hồi hướng về những ích lợi thực tế chứ không
cầu danh tướng hão huyền.
8. Hộ pháp tâm: phòng hộ tâm mình, không để khởi các phiền não, và bảo
trì Phật pháp.
9. Xả tâm: không luyến tiếc thân mạng và tài sản, tất cả những
gì có được đều buông bỏ hết.
10. Nguyện tâm: thường tu tập các tâm nguyện trong sạch.
MƯỜI TÔNG
PHÁI (thập tông)
“Tông” là chủ yếu; “phái” là nhánh,
dòng. Trong thời kì còn tại thế độ sinh, đức Phật đã tùy theo từng căn cơ của
thính chúng mà thuyết minh vô lượng pháp môn khác nhau. Và dĩ nhiên, cũng bởi
vì thính chúng có nhiều căn cơ khác nhau cho nên họ cũng lĩnh hội những pháp
môn ấy một cách khác nhau. Đó là đầu mối của sự phân chia hệ phái về sau này
trong giáo đoàn. Khi có tình trạng phân
phái như vậy, người khởi xướng ra một tông phái thường y cứ vào một số kinh luận
(pháp môn) mà mình sở đắc để lấy đó
làm yếu nghĩa chỉ đạo.
Khởi thỉ, sau khi đức Phật nhập diệt, Phật giáo Ấn-độ
đã chia làm hai hệ phái lớn: Tiểu thừa và Đại thừa. Sau đó mỗi “thừa” lại chia
làm nhiều nhánh nhỏ hơn. Tuy nhiên, sự phân phái của đạo Phật không giống như sự
“phân hóa” với cái ý nghĩa không đẹp thường tình, nhưng đó chính là vì nhu cầu
phát triển trí thức của loài người mà đạo Phật phải phát huy tính chất khế lí và khế cơ của mình để có thể hòa nhập vào môi trường xã hội mà mình
đang có mặt.
Khi đạo Phật được truyền bá vào Trung-hoa, cũng nhằm
phát huy cái tính chất khế lí và khế cơ ấy, Phật giáo Trung-hoa đã lần lượt
thành lập nên nhiều tông phái khác nhau. Dĩ nhiên, vì tính khế cơ, một tông phái có thể được lập nên trong một hoàn cảnh nào
đó, rồi đến lúc nó không còn thích nghi với hoàn cảnh hiện tại nữa thì tự nó phải
biến diệt. Vì vậy, số tông phái được lập nên và thịnh hành ở Trung-hoa có lúc
nhiều lúc ít, tùy thời; nhưng tựu trung thì có mười tông phái sau đây được coi
là tiêu biểu:
1. Tông Câu Xá
Tông này lấy bộ luận A Tì Đạt Ma Câu Xá của đại luận sư Thế Thân (người Ấn-độ, thế kỉ thứ
5) làm yếu chỉ, chủ trương tất cả các pháp (bao gồm cả tâm và vật) đều thực có,
nhưng không có một bản ngã tồn tại thường hằng bất biến. (Danh từ Phật học Hán
Việt gọi chủ trương này là “ngã không
pháp hữu”.) Hành giả phải thường xuyên dùng trí tuệ để quán chiếu về chân
lí “bốn sự thật” để chứng nhập niết bàn – vì theo tông này, ngoại trừ cảnh giới
niết bàn ra, thế gian hoàn toàn không có gì là phúc lạc.
Pháp sư Chân Đế (người Ấn-độ) đã dịch bộ luận Câu Xá từ Phạn văn ra Hán văn và truyền
tông này sang Trung-hoa vào thế kỉ thứ 6 (khoảng năm 563-567). Đến thế kỉ thứ
7, bộ luận lại được pháp sư Huyền Trang (596-664) dịch ra Hán văn một lần nữa
và truyền cho đệ tử là pháp sư Khuy Cơ (632-682); và chính nhờ vị này mà tông Câu
Xá ở Trung-hoa được kiện toàn, trở thành một hệ thống triết học nền tảng thiết
yếu cho tất cả những nhà nghiên cứu Phật học.
2. Tông
Thành Thật
Tông này lấy bộ luận Thành Thật của Ha Lê Bạt Man
(người Ấn-độ, khoảng 250-350) làm căn bản,
chủ trương không có ngã mà cũng không có vạn pháp (tâm và vật) – danh từ Phật học
Hán Việt gọi là “ngã pháp nhị không”.
Khi hành giả quán chiếu về tính “không” của ngã và pháp thì sẽ diệt trừ được
phiền não chướng và sở tri chướng, chứng nhập cảnh giới niết bàn tịch tịnh.
Bộ luận Thành Thật được pháp sư Cưu Ma La Thập (người Ấn-độ) dịch ra Hán văn và truyền
tông này sang Trung-hoa vào đầu thế kỉ thứ 5.
Hai tông Câu Xá và Thành Thật
trên đây đều thuộc về truyền thống tiểu thừa. Hiện nay cả hai đều đã bị thất
truyền, nhưng hai bộ luận Câu Xá và
Thành Thật thì vẫn được các giới học Phật tham cứu.
Tám tông phái sau đây thuộc
về truyền thống đại thừa:
3. Tông Luật
Tông này được sáng lập ở
Trung-hoa vào giữa thế kỉ thứ 7 mà vị sáng tổ là luật sư Đạo Tuyên, một đệ tử nổi
tiếng về luật học của pháp sư Huyền Trang. Tông này chủ trương chỉ cần thông suốt
và tinh nghiêm hành trì giới luật; khi giới thể đã thanh tịnh thì định lực phát
sinh; định lực đã phát sinh thì trí tuệ giác ngộ cũng bừng sáng. Luật tông đặt
nền tảng trên bộ luật Tứ Phần của tiểu
thừa và “tam tụ tịnh giới” của đại thừa.
4. Tông Tam Luận (cũng có các tên gọi khác là Tánh, Pháp Tánh, Không, Bát Nhã).
Tông này lấy hai bộ luận Trung Quán và Thập Nhị Môn của đại luận sư Long Thọ (người Ấn, thế kỉ thứ 2), và
bộ Bách Luận của đại luận sư Đề Bà (đệ
tử của ngài Long Thọ) làm căn cứ, đả phá mọi cái nhìn sự vật bằng khái niệm, bằng
mê chấp và tà kiến phân biệt; và chủ trương nhìn sự vật bằng con đường trung đạo
với các nguyên tắc “nhị đế” và “bát bất” (bất sinh, bất diệt, bất thường,
bất đoạn, bất nhất, bất dị, bất lai, bất khứ) để thấy được thực tướng “như như” của chúng. Lí tưởng của nó là
dẹp bỏ mọi “hí luận”, và mọi luận chứng đều được đặt nền tảng trên bốn mệnh đề (tứ
cú): có (hữu), không có (không), vừa là có vừa là không có (diệc hữu diệc không), vừa không phải là
có vừa không phải là không có (phi hữu
phi không).
Thế kỉ thứ 5, pháp sư Cưu Ma
La Thập sang Trung-hoa, dịch cả ba bộ luận trên và truyền cho đệ tử là Tăng Triệu
để thành lập nên tông Tam Luận; nhưng phải chờ đến thời đại sư Cát Tạng (thế kỉ
thứ 6) thì tông này mới được kiện toàn, có hệ thống và qui củ hẳn hoi.
5. Tông Thiên
Thai (cũng gọi là tông Pháp
Hoa).
Tông này được thành lập tại
Trung-hoa vào cuối thế kỉ thứ 6 với vị tổ thứ nhất là đại sư Trí Khải (hay Trí
Giả). Thực ra, vị sáng tổ của tông này phải là đại sư Huệ Văn (đầu thế kỉ thứ 6).
Ngài Huệ Văn truyền cho đệ tử là đại sư Huệ Tư (514-577). Đại sư Trí Khải chính
là đệ tử của đại sư Huệ Tư, nhưng vì ngài đã có một nhân cách nổi bật, một sở học
uyên thâm, một trí tuệ phi thường, đương thời không ai sánh kịp, vả lại, chính
ngài là người đã kiện toàn tông Thiên Thai, cho nên đã được tôn xưng là vị tổ
thứ nhất của tông này.
Tông Thiên Thai lấy bộ kinh Pháp Hoa làm căn bản lập tông, và lấy bộ
Đại Trí Độ Luận (của Long Thọ) làm chỉ
nam cương yếu; ngoài ra còn tham khảo thêm các kinh luận liên hệ khác như các
kinh Hoa Nghiêm, Đại Niết Bàn, Kim Quang
Minh, Kim Cang Đảnh, và luận Bồ Đề
Tâm.
Tông này chủ trương “tâm” và “pháp” không phải
là hai cũng không phải là một; ngoài tâm không có pháp, ngoài pháp không có
tâm; tâm tức là pháp, pháp tức là tâm. Bởi vậy, thật thể và hiện tượng của vạn
pháp cũng không rời nhau: chính ở nơi hiện tượng mà thấy được thật thể của vạn
pháp. Do chủ trương này mà tông Thiên Thai đã phát huy các giáo nghĩa như “Nhất tâm tam quán”, “Nhất niệm tam thiên”
(như đã trình bày ở trước). Cũng do chủ trương ấy mà tuy về phương tiện thiện xảo,
tông này tạm thừa nhận có ba cỗ xe (Thanh-văn, Duyên-giác và Bồ-tát), nhưng cứu
cánh thì cũng chỉ thu vào cỗ xe duy nhất
(tức là Phật thừa) mà thôi. Người tu
học vừa phải thông suốt yếu nghĩa của kinh điển (lí giải) và vừa phải dụng công thiền quán (thực hành) để chứng ngộ được thật tướng của vạn pháp.
6. Tông Hoa
Nghiêm (hay Hiền Thủ).
Kinh Hoa Nghiêm được xuất hiện từ thế kỉ thứ 2, do công trình của Bồ Tát
Long Thọ. Đến thế kỉ thứ 5, đại sư Giác Hiền mang kinh này sang Trung-hoa, dịch
và truyền bá. Thế kỉ thứ 7, đại sư Pháp Thuận (hay Đỗ Thuận) đã y cứ trên giáo
nghĩa của kinh này mà sáng lập nên tông Hoa Nghiêm. Đến đời tổ thứ ba là đại sư
Hiền Thủ (tức Pháp Tạng), tông này trở nên thịnh hành và vang danh rực rỡ khắp
nơi, cho nên người ta đã coi ngài là vị sáng tổ đích thực của tông này, và gọi
đó là tông Hiền Thủ.
Tông này lập cước trên nền tảng của lí thuyết nhân quả,
nhưng là một lí thuyết nhân quả rất đặc biệt, vô cùng thâm diệu; có thể nói, đó
là cực điểm của tất cả những lí thuyết nhân quả, được gọi là thuyết “Pháp giới duyên khởi”. Do lí thuyết này
mà tông Hoa Nghiêm chủ trương tất cả sự vật trong vũ trụ phải tạo thành một
toàn thể nhịp nhàng, tương dung, tương nhiếp trong một thế giới gọi là “sự sự vô ngại pháp giới”, tức là thế giới
lí tưởng Nhất-như. Những pháp án nói rằng: “Một
là tất cả, tất cả là một”; “Một vật có mặt trong tất cả các vật, tất cả các vật
có mặt trong một vật”; “Cái này là cái kia, cái kia là cái này”; “Cái này có
trong cái kia, cái kia có trong cái này”; “Nhỏ không trong mà lớn cũng không
ngoài”; “Quá khứ, hiện tại, vị lai ở trên đầu một sợi tóc” v.v... đều là
giáo nghĩa của kinh Hoa Nghiêm, và
cũng là giáo nghĩa của tông này, nhằm giúp cho hành giả quán chiếu, tu tập để đạt
được cái thế giới lí tưởng nhất-như ấy.
7. Tông Pháp Tướng (cũng gọi là Duy Thức).
Tư tưởng “Duy Thức”
được hệ thống hóa bởi hai vị đại luận sư Vô Trước và Thế Thân (hai anh em ruột,
người Ấn-độ) ở thế kỉ thứ 5. Thế kỉ thứ 7, pháp sư Huyền Trang ở Trung-hoa sang
Ấn-độ du học, gặp lúc tư tưởng Duy Thức đang cực kì thịnh hành, nên đã chuyên
tâm học hỏi và đã sở đắc về pháp môn này. Khi trở về nước, ngài đã tích cực trước
tác, phiên dịch và truyền bá Duy Thức Học,
và được mọi giới coi là sáng tổ của tông Pháp Tướng ở Trung-hoa.
Tông này chủ trương vạn pháp, bằng cách này hay cách
khác, luôn luôn liên hệ với thức và chỉ hiện hữu trong thức. Cho nên, học thuyết
của tông này – Duy Thức Học, đã chú
trọng đặc biệt về vấn đề “nhận thức”. Nó chuyên khảo sát mọi
hiện tượng (pháp) bằng tướng trạng và hoạt dụng (tướng) của chúng, để từ
đó thấy được thể tính chân thật của chúng. Tông này đặt căn bản trên các kinh
luận như: Hoa Nghiêm, Giải Thâm Mật, A Tì
Đạt Ma, Lăng Già, Du Già Sư Địa Luận (của Di Lặc và Vô Trước), Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận (của Di
Lặc và Vô Trước), Nhiếp Đại Thừa Luận (của
Vô Trước), Thập Địa Kinh Luận (của Thế
Thân), Duy Thức Nhị Thập Tụng (của Thế
Thân), Duy Thức Tam Thập Tụng (của Thế
Thân), Bát Thức Qui Củ Tụng (của Huyền
Trang) v.v...
8. Tông Chân
Ngôn (hay Mật tông).
Đầu thế kỉ thứ 8, hai đại sư
Ấn-độ là Thiện Vô Úy và Kim Cương Trí, trước sau đã đem các kinh điển Mật giáo
sang truyền bá và lập nên tông Chân Ngôn tại Trung-hoa; nhưng phải đợi đến giữa
thế kỉ ấy với vị đệ tử xuất sắc của ngài Kim Cương Trí là đại sư Bất Không (người
Ấn), thì tông này mới thực sự được phát huy rực rỡ. Hai bộ kinh căn bản và quan
trọng nhất của tông này là Đại Nhật và
Kim Cương Đảnh.
Yếu chỉ của tông Chân Ngôn
là chuyên hành trì bí mật về cả ba nghiệp thân, khẩu và ý. Hành trì bí mật về
thân là dùng ấn quyết; về khẩu là đọc tụng thần chú (chân ngôn); và về ý là
quán tưởng một đối tượng; cả ba hành động ấy phải đồng thời tương ứng nhau. Khi
sự hành trì đi đến chỗ nhất tâm thì hành giả thâm nhập được Phật trí, đắc đạo
ngay trong giờ phút hiện tại.
9. Tông Tịnh Độ (hay Liên tông).
Vào thế kỉ thứ 3, đại sư Khương Tăng Khải (người Ấn)
sang Trung-hoa, dịch và truyền bá kinh Vô
Lượng Thọ; thế kỉ thứ 5, đại sư Cưu Ma La Thập sang Trung-hoa và dịch kinh A Di Đà; tiếp đó, đại sư Cương Lương Da Xá
lại sang và dịch kinh Quán Vô Lượng Thọ;
đó là ba bộ kinh khởi đầu và làm nền tảng cho việc hình thành tông Tịnh Độ.
Pháp môn “tu tịnh độ” đã được người
Trung-hoa biết đến từ thế kỉ thứ 3, nhưng thực ra, mãi đến thế kỉ thứ 7, do
công trình truyền bá sâu rộng của đại sư Huệ Viễn, tông này mới được hưng thịnh
và thực sự trở thành một tông phái; do đó, ngài đã được coi là vị tổ sáng lập.
Tông Tịnh Độ chủ trương tu tập thiện nghiệp, chuyên
tâm trì niệm danh hiệu và quán tưởng hình tướng đức Phật A Di Đà thì sau khi mệnh
chung sẽ được vãng sinh về thế giới Cực-lạc, một thế giới hoàn toàn trong sạch,
an vui, do Phật A Di Đà làm giáo chủ, khác hẳn với thế giới Ta-bà đầy dơ bẩn và
khổ đau này.
10. Tông Thiền (hay Tâm tông).
Mục đích của Thiền tông là “kiến tánh thành Phật”. Để tiến tới mục đích đó, người tu thiền phải
bắt đầu bằng cuộc sống “có chánh niệm”
và tiếp tục bằng con đường thực nghiệm tâm
linh (chứ không phải dùng trí năng để nghiên cứu, phân tích, lí luận) để chứng
ngộ chân lí. Đường lối ấy được tóm tắt trong câu nói của tổ Bồ Đề Đạt Ma: “Truyền thừa không hệ thuộc vào giáo điển,
không căn cứ vào văn tự, đi thẳng vào lòng người, thấy được thể tính liền thành
Phật.” (Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến
tánh thành Phật.)
Tổ Bồ Đề Đạt Ma là người Ấn-độ, sang Trung-hoa đầu thế
kỉ thứ 6, và được coi là vị tổ đầu tiên của Thiền tông Trung-hoa. Đến đầu thế kỉ
thứ 8 thì Thiền tông chia làm hai nhánh: nhánh phương Bắc (do tổ Thần Tú) và nhánh phương Nam (do tổ Huệ Năng). Nhánh Bắc không bao lâu thì mai một,
riêng nhánh Nam thì ngày càng hưng thịnh, và đã sản sinh ra 5 thiền phái nổi tiếng:
Lâm Tế (do tổ Hy Vận), Qui Ngưỡng (do tổ Qui Sơn), Tào Động (do tổ Dược Sơn), Vân Môn (do tổ Vân Môn), và Pháp Nhãn (do tổ Huyền Diệu).
Mặc dù kinh Lăng
Già (được đại sư Đức Hiền, người Ấn, dịch ra Hán văn vào thế kỉ thứ 5) được
xem là kinh căn bản, nhưng Thiền tông còn kết hợp tư tưởng của nhiều kinh điển
khác như Viên Giác, Pháp Hoa, Lăng
Nghiêm, Hoa Nghiêm, Niết Bàn, Bát Nhã v.v...
Tất cả mười tông phái Phật giáo ở trên, sau khi được
thành lập ở Trung-hoa, đều được truyền bá sang Triều-tiên và Nhật-bản, và đều từng
được hưng thịnh một thời. Ngày nay, ở Trung-hoa (lục địa cũng như Đài-loan),
các tông phái hầu như không còn mang sắc thái đặc thù nào nữa, mà chỉ còn là một
nền Phật giáo tổng hợp của các tông phái đại thừa, trong đó, Thiền và Tịnh-độ
được in rõ nét hơn. Ở Nhật-bản và Đại-hàn, ba tông Thiền, Luật và Tịnh-độ vẫn
còn đang thịnh hành và giữ được bản sắc riêng.
Trường hợp Việt-nam thì khác hẳn. Suốt 2000 năm lịch sử
Phật giáo ở Việt-nam, có thể nói, đó chỉ là lịch sử của Thiền tông. Không kể
hai thế kỉ đầu Tây lịch (thời kì Phật giáo du nhập trực tiếp từ Ấn-độ), từ thế
kỉ thứ 3, Việt-nam đã được truyền bá thiền học, do tổ sư Khương Tăng Hội (người
Việt gốc Khương-cư). Chính ngài là sáng tổ của thiền học Việt-nam, và sau đó được
tiếp nối bởi các thiền sư Đạt Ma Đề Bà (từ Ấn-độ sang) và Huệ Thắng (người Việt,
đệ tử của Đạt Ma Đề Bà) ở thế kỉ thứ 5, thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi (người Ấn,
sang Trung-hoa rồi Việt-nam) ở thế kỉ thứ 6, thiền sư Vô Ngôn Thông (từ
Trung-hoa sang) ở thế kỉ thứ 9 v.v... Nhưng, nói thế không có nghĩa là Phật giáo
Việt-nam chỉ hoàn toàn thuần túy có tư tưởng thiền học, mà sự thực, trên phương
diện hành trì tu tập, nó thu nhiếp cả các phương pháp của Tịnh Độ, Luật và Mật
tông, và trên phương diện phát huy trí tuệ, nó cũng thống hợp cả những yếu
nghĩa của các tông Duy Thức, Thiên Thai, Hoa Nghiêm v.v...
MƯỜI TRÍ LỰC
(thập trí lực)
Mười trí lực
cũng gọi là mười thần lực (thập thần lực) hay mười lực (thập lực), là 10 sức trí tuệ mà chỉ đức Phật mới có đầy đủ. Đức Phật
đã chứng đắc cái trí thật tướng, thấy rõ, thấu suốt tất cả, không có cái gì có
thể hủy hoại được trí đó, không ai có thể hơn được trí đó. Mười trí lực đó gồm có:
1. Sức trí tuệ
biết rõ điều đúng đạo lí hay không đúng đạo lí: Đức phật quán sát sâu xa, thấy rõ một cách chân thật
tất cả nhân duyên quả báo, như tạo nghiệp lành thì biết chắc chắn sẽ hưởng được
quả báo an vui, gọi là “biết điều đúng đạo lí”; nếu tạo nghiệp xấu mà được hưởng
quả báo an vui là không đúng đạo lí, gọi là “biết điều không đúng đạo lí”. Tất
cả những sự việc như vậy, đức phật đều biết hết.
2. Sức trí tuệ
biết rõ nghiệp báo suốt ba đời: Đức
Phật biết rõ nơi sinh cùng nghiệp duyên quả báo của tất cả chúng sinh trải suốt
ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai.
3. Sức trí tuệ
biết rõ tiến trình giải thoát bằng thiền định: Đức Phật biết rõ một cách xác thật từng nấc tu tập
thiền định của chúng sinh, cạn sâu thứ lớp như thế nào.
4. Sức trí tuệ
biết rõ các căn tánh cao thấp: Đức
Phật biết rõ một cách xác thật căn tánh của các đệ tử và khắp chúng sinh là hơn
kém, cao thấp, quả vị chứng được là lớn hay nhỏ.
5. Sức trí tuệ
biết rõ mọi hiểu biết: Đối với mọi
sự hiểu biết, ưa thích lành dữ khác nhau của chúng sinh, đức Phật biết rõ tất cả.
6. Sức trí tuệ
biết rõ mọi lãnh vực: Đức Phật biết
rõ một cách xác thật mọi lãnh vực khác nhau ở thế gian.
7. Sức trí tuệ
biết rõ mọi đường đi chỗ đến: Đức
phật biết rõ một cách xác thật những phần hành hữu lậu của sáu đường đến đâu,
và những phần hành vô lậu của niết bàn đến đâu.
8. Sức trí tuệ
biết rõ không bị chướng ngại như thiên nhãn: Đức phật dùng thiên nhãn biết rõ một cách xác thật
lúc sinh lúc tử của chúng sinh, cũng như những cảnh giới lành dữ mà chúng sinh
sẽ sinh đến đó, cho đến các nghiệp duyên lành dữ của những chúng sinh xấu, đẹp,
nghèo, giàu v.v...
9. Sức trí tuệ
biết rõ các kiếp trước xa xôi: Đức
phật biết rõ một cách xác thật mọi sự việc trong đời quá khứ, không những một đời
mà đến trăm ngàn vạn đời, không những một kiếp mà đến trăm ngàn vạn kiếp, chúng
sinh chết ở cõi này rồi sinh ở cõi khác, chết ở cõi khác rồi sinh ở cõi này,
nào là tên họ, ăn uống, khổ vui, mạng sống dài ngắn v.v...
10. Sức trí tuệ
biết rõ tất cả các tập khí đều đã dứt tuyệt: Đức phật biết rõ một cách xác thật tất cả các loại tập
khí đều đã vĩnh viễn dứt tuyệt, không bao giờ còn sinh khởi nữa.
MƯỜI TRỤ (thập trụ)
Thể nhập lí bát nhã gọi là “trụ”. Mười-trụ là cấp thứ nhì (sau cấp Mười-tín – xem ở trên) trong 7 cấp
(gồm 52 giai vị) trên tiến trình tu tập đạo Bồ-tát. Ở cấp Mười-tín, hành giả đã
củng cố được lòng tin vững chắc, thâm sâu đối với chánh pháp, đối với con đường
làm Phật; dù là tà giáo ngoại đạo cũng không lay chuyển được, dù là ma chướng cũng
không quyến rủ theo ma đạo được, cho nên gọi là “trụ”. Cấp này gồm có 10
trụ vị như sau:
1. Trụ vị
Phát-tâm: Hành giả dùng các
phương tiện chân thật để phát khởi mười lòng tin (thập tín), tín phụng Tam Bảo,
không khởi tà kiến, không gây trọng tội, tu tập tất cả pháp môn, học rộng, trí
tuệ cao, ngộ nhập cảnh giới chân không, trụ ở tánh không.
2. Trụ vị Trì-địa
(hay Trị-địa): Hành giả đã trụ nơi tánh không cho nên tâm thường
sáng tỏ, trong sạch, trong như ngọc lưu li hiện ra chất vàng ròng; được như vậy
là vì lúc hành giả mới phát tâm thì tâm ấy đã là vi diệu, rồi dùng cái tâm vi
diệu ấy mà trải làm nền tảng vững bền như đất.
3. Trụ vị
Tu-hành: Trí tuệ từ hai địa vị
trước đã sáng tỏ, cho nên hành giả du hành trong mười phương mà không hề gặp trở
ngại.
4. Trụ vị
Sinh-quí: Thọ một phần khí lực của
Phật, thông tỏ sâu xa, được nhập vào dòng giống Như Lai.
5. Trụ vị
Phương-tiện cụ-túc: Tu tập vô lượng
căn lành, tự lợi lợi tha, phương tiện đầy đủ, tướng mạo không chỗ nào khiếm
khuyết.
6. Trụ vị
Chánh-tâm: Không những tướng mạo,
mà tâm cũng đồng với Phật.
7. Trụ vị Bất-thối: Đã thể nhập vào cảnh giới chân không vô sinh, thân
tâm hòa hợp, ngày càng thăng tiến đến quả Phật, không còn thối lui.
8. Trụ vị Đồng-chân: Từ khi phát tâm, thỉ chung không trở ngược, không thối
lui, không khởi niệm tà ma phá hoại tâm bồ đề, cho đến bây giờ thì cả mười thân
tướng thiêng liêng của Phật (bồ đề thân, nguyện thân, hóa thân, trụ trì thân,
tướng hảo trang nghiêm thân, thế lực thân, như ý thân, phúc đức thân, trí thân,
pháp thân) đồng thời đầy đủ.
9. Trụ vị
Pháp-vương-tử: Hành giả trở thành
đứa con tinh thần của bậc Pháp Vương, thừa tiếp công việc (Phật sự) của bậc
Pháp Vương. Từ trụ vị thứ nhất là Phát-tâm đến trụ vị thứ tư là Sinh-quí, được
gọi là “nhập thánh thai”; từ trụ vị thứ năm là Phương-tiện cụ-túc đến trụ vị thứ
tám là Đồng-chân, được gọi là “nuôi lớn thánh thai”; đến trụ vị Pháp-vương-tử
này thì hình tướng đầy đủ, được gọi là “xuất thai”.
10. Trụ vị
Quán-đảnh: Bồ-tát đã là con của bậc
Pháp Vương, kham nổi Phật sự, cho nên được Phật rưới nước trí tuệ lên đầu, như
vị hoàng tử dòng Sát-đế-lị, lúc lên ngôi chịu lễ quán đỉnh do một đạo sĩ
Bà-la-môn chủ trì.
MƯỜI VỊ ĐỆ TỬ
LỚN CỦA PHẬT (thập đại đệ tử)
Trong suốt cuộc đời hành đạo, đức Phật đã hóa độ cho
hàng trăm vạn đệ tử, xuất gia cũng như tại gia, gồm đủ mọi thành phần và tầng lớp
xã hội. Trong số này, hạng xuất sắc, ưu tú, chứng được thánh quả cũng đã có đến
hàng vạn, nhưng đặc biệt nhất, có mười vị đã từng được các kinh điển tiểu cũng
như đại thừa đều xưng tụng là mười vị đệ tử đứng đầu của Phật. Sở dĩ các ngài
được gọi là “đứng đầu” (đại) vì ai trong số đó cũng có một sở
trường riêng, một đạo hạnh riêng, mà cái sở trường, cái đạo hạnh ấy đều ở mức
cao tột, trội hơn tất cả mọi người khác trong giáo đoàn. Mười vị tôn giả ấy được
các kinh điển liệt kê có chỗ khác nhau, nhưng danh sách sau đây là phổ thông
hơn hết:
1. Tôn giả Xá Lợi
Phất, đứng đầu thánh chúng về trí
tuệ (trí
tuệ đệ nhất). Ngài là người nước Ma-kiệt-đà, con của một gia đình
Bà-la-môn giàu có, tiếng tăm. Lớn lên, ngài cùng với người bạn thân là Mục Kiền
Liên theo tu học với đạo sĩ San Xà Da, rất nổi tiếng ở thành Vương-xá (kinh đô
của vương quốc Ma-kiệt-đà). Vốn thông minh tài trí hơn người, chẳng bao lâu hai
người đã đạt được trình độ tương đương với thầy; tuy vậy, hai người vẫn không bằng
lòng với sở đắc của mình, cho nên đã giao hẹn cùng nhau rằng, hễ ai chứng đạt
được đạo lớn trước thì phải chỉ bảo
ngay cho người kia; hoặc giả, ai tìm được minh sư trước thì phải dìu dắt người
kia. Vào năm thứ hai sau ngày thành Đạo, đức Phật dẫn giáo đoàn đến hành hóa tại
địa phương kinh thành Vương-xá. Tại đây,
được sự hướng dẫn của đại đức A Xã Bà Thệ (một trong 5 vị đệ tử xuất gia đầu
tiên của Phật), Xá Lợi Phất cùng Mục Kiền Liên đã xin xuất gia làm đệ tử Phật,
và chẳng bao lâu hai vị đã trở thành những bậc thượng thủ của giáo đoàn. Chính
tôn giả Xá Lợi Phất là người đã được Phật ủy thác trông coi công trình xây cất
tu viện Kì-viên ở thủ đô Xá-vệ của vương quốc Kiều-tát-la. Lúc đó, bước chân hoằng
hóa của Phật chưa đặt đến nơi này, nhưng nhờ vào trí tuệ siêu việt và biện tài
vô ngại của mình mà tôn giả đã thu phục biết bao nhiêu vị đạo sĩ ngoại đạo lỗi
lạc, đem họ về với Tam Bảo, trước khi Phật và giáo đoàn đến đây mở đạo tràng tại
tu viện Kì-viên. Tôn giả viên tịch trước Phật ba tháng.
2.
Tôn giả Mục Kiền Liên, đứng đầu
thánh chúng về thần thông (thần thông đệ nhất). Ngài cũng là
con của một gia đình Bà-la-môn, trong ngôi làng sát cạnh làng của tôn giả Xá Lợi
Phất. Ngài và Xá Lợi Phất, như trên đã nói, là hai người bạn chí thân, cùng
thông minh tài trí, lớn lên cùng học một thầy, rồi cùng theo Phật xuất gia một
lần. Ngoài sở trường về thần thông, ngài còn nổi tiếng là bậc chí hiếu, vì đã cứu
được Mẹ ngài thoát khỏi cảnh khổ ngạ quỉ. Công tác hoằng hóa đặc sắc của tôn giả
là việc hóa độ cho thiếu phụ Liên Hoa Sắc, từ một nàng kĩ nữ lừng danh trở
thành một vị tì kheo ni gương mẫu, chứng quả A-la-hán và có thần thông số một
trong hàng ni chúng. Cuối đời, tôn giả đã bị ngoại đạo hành hung đến tử thương;
việc xảy ra khoảng vài tháng trước khi tôn giả Xá Lợi Phất viên tịch.
3. Tôn giả Đại Ca Diếp, đứng đầu thánh chúng về tu khổ hạnh
(đầu
đà đệ nhất). Ngài xuất thân từ giai cấp Bà-la-môn, là người con độc nhất
trong một gia đình cự phú ở ngoại ô kinh thành Vương-xá của vương quốc Ma-kiệt-đà.
–Tương truyền rằng, tài sản của gia đình này còn nhiều hơn cả tài sản của quốc
vương đương thời là Tần-Bà-Sa-La.– Ngài được sinh ra dưới gốc cây, và có gần đủ
32 tướng tốt của đức Phật. Đến tuổi trưởng thành, ngài vâng lệnh song thân lập
gia đình, nhưng cả hai vợ chồng đều cùng có ý nguyện xuất gia tìm thầy học đạo,
nên trong suốt 12 năm sống bên nhau, hai người vẫn quyết giữ phạm hạnh, dứt tuyệt
ái ân. Sau 12 năm, lúc đó song thân đều đã qua đời, ngài mới được dịp thực hiện
ý nguyện, bèn rời nhà ra đi, ước hẹn với vợ rằng, khi nào tìm được minh sư thì
sẽ trở về dẫn bà cùng đi tu. Tương truyền, ngày ngài rời nhà ra đi tìm thầy học
đạo cũng chính là ngày đức Thế Tôn thành đạo. Vậy mà ngài đã phải đi chu du khắp
nơi, mãi đến khi tu viện Trúc-lâm (ở ngoại ô kinh thành Vương-xá) xây cất xong
(năm thứ hai sau ngày Phật thành đạo), Phật và giáo đoàn dời về hành đạo tại
đó, ngài mới có duyên được gặp Phật và xuất gia theo Phật tu học. Rồi năm năm
sau nữa, khi chúng Tì kheo ni đã được Phật cho phép thành lập, ngài mới độ được
cho vợ cùng xuất gia theo Phật. Trước khi xuất gia, ngài thừa kế một gia sản
giàu sang địch quốc là thế, vậy mà sau khi xuất gia, ngài lại chỉ chuyên tu hạnh đầu đà (khổ hạnh). Ngài sống khắc
khổ đến nỗi đức Phật cũng phải ái ngại, nhất là khi tuổi đã về già, sức khỏe đã
mòn mỏi. Cho nên đã có vài lần Phật phải khuyên bảo, nhưng ngài vẫn cương quyết
giữ chí nguyện. Ngài đã được đức Thế Tôn truyền cho tâm pháp, và sau khi đức Thế
Tôn nhập diệt, ngài đã kế thừa sự nghiệp, gánh vác trọng trách lãnh đạo giáo
đoàn. Với sự hộ pháp của vua A Xà Thế (nối ngôi vua cha là Tần Bà Sa La), ngài
đã đích thân tổ chức và chủ trì cuộc kết tập kinh điển lần đầu tiên tại ngoại ô
thành Vương-xá, ba tháng sau ngày Phật nhập niết bàn. Ngài thọ trên một trăm tuổi.
Trước khi viên tịch, ngài đã truyền tâm pháp cùng trọng trách lãnh đạo giáo hội
lại cho tôn giả A Nan.
4. Tôn giả Tu Bồ
Đề, đứng đầu thánh chúng về thông
suốt tính không của thực tại vạn hữu (giải không đệ nhất). Ngài quê ở
thành Vương-xá, trong một gia đình giàu có thuộc giai cấp phú thương, nghiệp chủ;
vốn là cháu gọi trưởng giả Cấp Cô Độc (cư trú tại kinh thành Xá-vệ của vương quốc
Kiều-tát-la, đã từng xây tu viện Kì-viên để cúng dường Phật và giáo đoàn dùng
làm cơ sở tu học và hành đạo đầu tiên ở vương quốc này) bằng
bác ruột. Trong hàng thánh chúng, chỉ có tôn giả là có nhận thức sâu sắc về
tính KHÔNG của vạn pháp, vì ngài đã hoàn toàn thấu triệt về đạo lí Không cũng
như đã chứng nghiệm được tuệ giác Không. Để chứng minh cho điều đó, đức Phật đã
từng bảo tôn giả thay Ngài giảng thuyết về tính Không để cho đại chúng được bổ
túc thêm kiến thức. Không có tài liệu nào ghi nhận về thời khắc viên tịch của
tôn giả.
5.
Tôn giả Ca Chiên Diên, đứng đầu
thánh chúng về tài hùng biện (nghị luận đệ nhất). Ngài xuất thân ở
giai cấp Bà-la-môn, trong một gia đình hào phú, danh giá bậc nhất tại vương quốc
A-bàn-đề (miền Nam Ấn-độ). Từ nhỏ, ngài đã được song thân cho về ở với đạo sĩ A
Tư Đà, cậu ruột của ngài, để tu học. A Từ Đà là một vị đạo sĩ Bà-la-môn đắc đạo,
tiếng tăm lừng lẫy khắp xứ Ấn-độ từ trước khi Phật xuất thế. Thấy cháu mình bẩm
tính cực kì thông minh, đức hạnh, lại có chí lớn, ông rất cưng quí, và đã đem hết
gia sản tinh thần của mình truyền cho. Bởi vậy, vừa trưởng thành là ngài đã trở
thành một đạo sĩ Bà-la-môn xuất chúng. A Tư Đà, dù vốn là một đạo sĩ Bà-la-môn
lỗi lạc, vẫn thấy rõ vị thái tử Tất Đạt Đa mới ra đời tại kinh thành Ca-tì-la-vệ
(vương quốc Thích-ca) kia mới chính là bậc đại giác ở thế gian. Vì biết rõ mình
đã quá già, không thể sống cho đến ngày thái tử thành đạo, nên ông đã dẫn cháu
sang vương quốc Ca-thị, đến vùng phụ cận vườn Nai (Lộc-uyển) gần kinh thành
Ba-la-nại, và cư trú tại đây. Từ đó, hằng ngày ông đều dặn dò Ca Chiên Diên,
“khi nào bậc đại giác thành đạo, Người sẽ hóa độ tại khu vực này, lúc đó cháu
phải xin theo Người tu học.” Đạo sĩ đã từ trần trước khi Phật thành đạo, và Ca Chiên
Diên đã nhớ lời cậu dạy, khi Phật đến hóa độ ở vùng này, liền xin xuất gia theo
Phật tu học. Vốn thông minh bác học, chẳng bao lâu ngài chứng quả A-la-hán, và
trở thành một vị đệ tử thượng thủ của đức Phật. Ngài nổi danh là nhà hùng biện
đại tài, và chính nhờ tài hùng biện này, ngài đã thuyết phục, dìu dắt không biết
bao nhiêu ngoại đạo trở về nương tựa ngôi Tam Bảo. Không ai biết được ngài viên
tịch vào lúc nào.
6. Tôn giả Phú
Lâu Na, đứng đầu thánh chúng về
giảng pháp (thuyết pháp đệ nhất). Ngài sinh trong một gia đình giàu có thuộc
giai cấp phú thương, nghiệp chủ ở vương quốc Kiều-tát-la. Tôn giả được nổi tiếng
nhân lần đi bố giáo ở tiểu quốc Du-na, một xứ biên địa mà ai nghe cũng sợ sệt,
vì đó là một nơi không có văn hóa, dân chúng man rợ, bạo ác. Vậy mà tôn giả đã
tự nguyện đến đó giáo hóa, và đã thành công rực rỡ, lập được đạo tràng, dạy dỗ
cho dân chúng sống có văn hóa, tính tình thuần thiện, thờ phụng Tam Bảo. Không
biết tôn giả viên tịch vào lúc nào, chỉ biết rằng, sau khi Phật nhập diệt, tôn
giả vẫn còn tiếp tục sứ mệnh độ sinh.
7. Tôn
giả A Na Luật (hay A Nậu Lâu Đà),
đứng đầu thánh chúng về mắt thấy vô ngại (thiên nhãn đệ nhất). Ngài là con
trai thứ của thân vương Cam Lộ Phạn ở kinh thành Ca-tì-la-vệ (vương quốc
Thích-ca), gọi quốc vương Tịnh Phạn bằng bác ruột. Như vậy, đức Phật với ngài
là anh em chú bác ruột. Anh ruột ngài là đại tướng Ma Ha Nam, người đã được đức
Phật và hội đồng hoàng tộc tín nhiệm cung cử lên nối ngôi sau khi vua Tịnh Phạn
thăng hà (vì lúc này thái tử Nan Đà cũng như hoàng tôn La Hầu La đều đã xuất
gia theo Phật). Năm thứ ba sau ngày thành đạo, đức Thế Tôn đã từ tu viện
Trúc-lâm (ở thành Vương-xá) trở về cố hương là thành Ca-tì-la-vệ để thăm phụ
hoàng cùng hoàng tộc. Khi Phật rời Ca-tì-la-vệ để đi địa phương khác giáo hóa
thì có bảy vị vương tử con của các thân vương thuộc dòng họ Thích-Ca (như Bạch Phạn,
Cam Lộ Phạn, Hộc Phạn – đều là em ruột của vua Tịnh Phạn) đã xin theo Phật xuất
gia, trong đó có vương tử A Na Luật. Ngài tu học rất tinh tấn, nhưng cứ mắc phải
một lỗi nhỏ, là thường ngủ gục trong khi nghe Phật giảng pháp! Dù đã cố gắng rất
nhiều, nhưng vẫn không bỏ tật ấy được; đến nỗi ngài đã bị Phật quở trách đôi ba
phen. Cuối cùng, chẳng có cách nào hơn, ngài phải lập nguyện “không ngủ”. Ngài đã ngồi suốt ngày suốt
đêm, hai mắt mở thao láo nhìn vào quãng không, không chớp mắt. Cứ thế, ngày này
qua ngày khác, ngài cố gắng ngồi chịu đựng, cho đến một hôm thì cặp mắt sưng
vù. Phật rất lo ngại, lại phải khuyên dỗ, nhưng ngài cứ nhất mực giữ vững chí
nguyện; kết quả đưa đến là cặp mắt mù luôn! Phật thương xót lắm, cứ ở một bên để
săn sóc cho ngài. Phật vừa săn sóc, vừa
dạy ngài phương pháp tu định để cho mắt “sáng”
ra. Ngài triệt để tu tập theo phương pháp Phật dạy, và chẳng bao lâu sau đó,
ngài chứng thiên nhãn thông, thấy suốt trong ngoài, khắp cùng ba cõi, không ai
sánh bằng, cho nên được đại chúng xưng tán là bậc thiên nhãn số một, trở thành
một trong những vị đệ tử lớn của Phật. Trong giờ phút Phật nhập niết bàn tại rừng
Câu-thi-na, ngài vẫn kề cận bên Phật, nhưng về sau thì không ai thấy vết tích
gì do ngài để lại.
8. Tôn
giả Ưu Ba Li, đứng đầu thánh
chúng về tinh tường và nghiêm trì giới luật (trì giới đệ nhất). Ngài
quê ở thành Ca-tì-la-vệ, xuất thân từ giai cấp nô lệ, làm nghề thợ cạo, có hiếu
với mẹ vô cùng. Dù ở giai cấp nô lệ, bị cấm học hành, nhưng hai mẹ con đều có
tâm trí linh mẫn, thông minh khác thường, riêng ngài thì tính tình cẩn trọng,
nghề nghiệp khéo léo, vì vậy mà ngài đã được tuyển vào hoàng cung để chuyên
trách việc cắt tóc và hầu hạ các vị vương tử. Khi đức Phật về hoàng cung lần đầu
tiên (năm thứ ba sau ngày thành đạo) để thăm phụ hoàng và hoàng tộc, bảy vị
vương tử dòng Thích-ca đã xin theo Phật xuất gia tu hành, ngài cũng xin được
theo các vị vương tử xuất gia, và đã được Phật thu nhận. Đó là người ở giai cấp
nô lệ đầu tiên được gia nhập giáo đoàn của Phật, – và cũng là người nô lệ đầu tiên
được tham dự vào sinh hoạt tôn giáo trong lịch sử văn minh Ấn-độ. Do tính tình vốn vô cùng cẩn trọng, ngài đã
hành trì giới luật thật nghiêm túc, trở thành vị tì kheo mẫu mực nhất tăng đoàn
về phương diện giới luật. Trong đại hội kết tập kinh điển lần đầu tiên ở ngoại
ô thành Vương-xá do tôn giả Đại Ca Diếp chủ trì, ngài đã được đại chúng cung cử
đọc tụng các giới luật đức Phật đã chế, làm thành bộ Bát Thập Tụng Luật, là bộ luật căn bản đầu tiên của Phật giáo. Khác
với Phật giáo Bắc truyền, Phật giáo Nam truyền cho rằng, vị sơ tổ kế thừa đức
Phật lãnh đạo giáo đoàn là tôn giả Ưu Ba Li chứ không phải là tôn giả Đại Ca Diếp.
9. Tôn
giả A Nan (hay A Nan Đà), đứng đầu
thánh chúng về nghe nhiều nhớ kĩ (đa văn đệ nhất). Ngài là em ruột của
đại đức Đề Bà Đạt Đa (con của thân vương Bạch Phạn), và là em chú bác ruột của
đức Phật. (Các vị vương tử anh em
chú bác ruột trong dòng họ Thích-ca còn được biết tên cho đến ngày nay, theo thứ
tự trên dưới, gồm có: Tất Đạt Đa, Nan Đà
– con quốc vương Tịnh Phạn; Đề-Bà Đạt Đa, A Nan Đà – con thân vương Bạch Phạn; Ma Ha Nam, A Na Luật – con thân vương Cam Lộ Phạn; Bạt Đề,
Bà Sa, Kiếp Tân Na – con thân vương Hộc Phạn;
và Nan-Đề – con của (?). Trừ Ma Ha Nam
ở lại nối ngôi vua Tịnh Phạn, tất cả các vị khác đều xuất gia tu hành; thái tử
Tất Đạt Đa, trước khi xuất gia tìm đạo và thành Phật thì đã lập gia đình và có
con là vương tôn La Hầu La; khi đức Phật trở về cố hương Ca-tì-la-vệ thăm hoàng
gia lần đầu thì thái tử Nan Đà theo Phật xuất gia trước nhất, kế tiếp là vương
tôn La Hầu La, đến khi Phật rời Ca-tì-la-vệ để đi giáo hóa phương khác thì bảy
vị vương tử còn lại cùng rủ nhau theo đến chỗ Phật xin xuất gia.) Theo truyền thuyết từ trước
đến nay thì tôn giả A Nan đã được sinh ra đúng vào ngày đức Phật thành đạo.
Nhưng thiết nghĩ, điều này không hợp lí lắm, vì ngài theo Phật xuất gia vào năm
thứ ba sau ngày Phật thành đạo, nếu ngài sinh vào ngày Phật thành đạo thì lúc
xuất gia ngài mới có 3 tuổi! Không thể chấp nhận được. Năm đó vương tôn La Hầu
La được 10 tuổi. Dù tôn giả La Hầu La xuất gia trước, nhưng cũng chỉ trước vài
ba tháng thôi. Ngài xuất gia cùng năm với La Hầu La, nếu ngài không lớn hơn thì
cũng phải bằng tuổi với La Hầu La, nghĩa là ngài phải ra đời trước ngày Phật
thành đạo. Theo Đường Xưa Mây Trắng của
thiền sư Nhất Hạnh thì khi đi xuất gia, ngài vừa 18 tuổi – lớn hơn vương tôn La
Hầu La 8 tuổi, nhưng nhỏ tuổi nhất trong số bảy vị vương tử cùng đi xuất gia một
lần. Bởi vậy, khi xuất gia ngài đã không được thọ giới tì kheo ngay, mà phải chờ
đến hai năm sau, khi tròn đủ 20 tuổi. Trong tăng đoàn, ngài là người đẹp trai
và thông minh nhất, học một biết mười, nghe đâu nhớ đó, lại nhớ lâu, nhớ kĩ.
Năm Phật được 55 tuổi đời thì ngài được đại chúng đề cử làm thị giả thường xuyên cho Phật. Phật đi đâu, nói pháp gì,
ngài đều có mặt, bởi vậy, ngài cũng là người đã “nghe được nhiều nhất” trong
tăng đoàn. Với nhiệm vụ thị giả, ngài đã hầu hạ, săn sóc đức Thế Tôn tận tâm tận
lực, từ việc lớn đến việc nhỏ đều chu toàn trọn vẹn, không sơ suất, không lỗi lầm.
Đối với mọi người thì ngài hết sức khiêm cung, lịch sự, hòa nhã, thân ái; cho
nên, trong thì đức Thế Tôn không có điều gì phải quở trách ngài, và ngoài thì đại
chúng cũng không có gì phải phiền hà ngài. Điều làm cho mọi người (từ thời đại ngài
cho đến ngày hôm nay) yêu mến và nhớ ngài nhất là lần ngài bị nữ nạn “Ma Đăng Già”. Ni chúng tôn
thờ ngài như vị cao tổ, vì nhờ ngài mà đức Thế Tôn đã cho phép thành lập giáo hội
tì kheo ni. Tuy thông minh, đức độ và tận tụy như vậy, nhưng ngài lại là người
chứng ngộ chậm nhất trong tăng đoàn! Một vị có căn tính tối tăm nhất tăng đoàn như
đại đức Chu Lị Bàn Đà Già, học một câu kệ ba tháng không thuộc, mà vẫn chứng quả
A-la-hán trước ngài. Còn ngài thì mãi đến ba tháng sau ngày Phật nhập diệt,
ngay buổi tối trước ngày khai mạc đại hội kết tập kinh điển lần đầu, do sự “đánh
thức” của tôn giả Đại Ca Diếp, ngài mới chứng thánh quả A-la-hán! Với sự kiện này, ngài đã được chấp thuận cho
tham dự đại hội vào ngày hôm sau, và được toàn thể thánh chúng cung thỉnh lên
pháp tòa đọc tụng lại toàn bộ những lời dạy của đức Phật trong suốt 45 năm qua,
làm thành tạng Kinh trong ba tạng kinh điển của Phật giáo. Khi tuổi thọ xấp xỉ
80, ngài được tôn giả Đại Ca Diếp (trên 100 tuổi) truyền tâm pháp và ủy thác trọng
trách lãnh đạo giáo hội; và đến năm 120 tuổi thì ngài truyền tâm pháp và giao
phó trách nhiệm lãnh đạo giáo hội cho đệ tử là tôn giả Thương Na Hòa Tu, rồi nhập
niết bàn.
10. Tôn
giả La Hầu La, đứng đầu thánh
chúng về oai nghi tế hạnh (mật hạnh đệ nhất). Ngài là con của thái
tử Tất Đạt Đa và công chúa Da Du Đà La, tức là cháu nội của vua Tịnh Phạn. Vì
thái tử Tất Đạt Đa đã đi tu, và sau đó, người em cùng cha khác mẹ của thái tử Tất
Đạt Đa là thái tử Nan Đà cũng đi tu, cho nên người thừa kế của vua Tịnh Phạn nhất
định phải là ngài; nhưng rồi ngài cũng đi tu nốt, bởi thế, sau khi vua Tịnh Phạn
thăng hà, Phật và hội đồng hoàng tộc mới phải cung cử đại tướng Ma Ha Nam (anh
ruột tôn giả A Na Luật) lên nối ngôi. Ngài theo Phật xuất gia lúc 10 tuổi, thờ
tôn giả Xá Lợi Phất làm thầy y chỉ, và trở thành vị sa di đầu tiên của tăng
đoàn. Suốt tuổi ấu thơ sống trong vương cung, ngài đã từng được mẹ và ông nội
thương yêu cùng cực; lúc sống ở tăng đoàn, tuy là thân phận sa di, nhưng phần
vì vẫn còn là một chú bé, phần vì là con của Phật nên ai cũng cưng; những yếu tố
đó đã giúp cho cái tập khí “vương giả” cứ sống ngấm ngầm mãi trong tâm hồn trẻ thơ,
đã khiến cho sự tu tập của chú sa di La Hầu La không được nghiêm túc, hay lấy sự
đùa nghịch phá phách người lớn làm trò vui. Bởi vậy, đích thân đức Thế Tôn phải
bao lần dạy dỗ nghiêm khắc, rồi dần dần, càng trưởng thành ngài càng nhận ra được
lẽ thật, quyết tâm sửa đổi những lỗi lầm của tuổi trẻ. Mặt khác, vị y chỉ sư của
ngài là tôn giả Xá Lợi Phất cũng chăm nom tận tình, đi giáo hóa ở đâu cũng dẫn ngài
theo, ở đâu cũng cho ngài ở cùng, cho nên ngài đã được thấm nhuần trí tuệ cũng
như đức độ nhẫn nhục, khiêm cung của thầy; ngài quyết tâm tu tập tinh tấn, nghiêm
trì giới luật, chỉnh đốn oai nghi, suốt ngày im lặng, giảm thiểu tiếp xúc,
không nói chuyện vô ích với bất cứ ai... Sau một thời gian chuyên tu “mật hạnh”
như thế, một hôm, nhân một lời dạy đơn giản của Phật: “La Hầu La! Thầy hãy quán chiếu để thấy rõ sắc là vô thường; thọ, tưởng,
hành, thức cũng là vô thường; thân thể và tâm ý của mọi người đều là vô thường;
đến cả vạn sự vạn vật đầy dẫy trong thế gian kia, tất cả cũng đều là vô thường.
Đã thấy rõ lẽ vô thường rồi thì tâm ta sẽ không còn bị vướng mắc vào đâu nữa.”,
ngài hoát nhiên đại ngộ! Vì chuyên tu mật hạnh nên nếp sống của ngài rất bình lặng,
không có gì sôi nổi, không có tiếng tăm lừng lẫy như quí vị tôn giả Xá Lợi Phất,
Mục Kiền Liên, A Nan, Phú Lâu Na v.v... Ngài nhập diệt khoảng năm 51 tuổi, trước
cả đức Phật và ni sư Da Du Đà La.
MƯỜI VIỆC
THIỆN (thập thiện)
Một hành động được gọi là “thiện” khi nó đem lại sự an vui, hạnh
phúc, giải thoát và giác ngộ cho mình, cho mọi người và mọi loài. Ngược lại thì
là “ác”, hay “bất thiện”. Người tu học thì dĩ nhiên suốt đời chỉ nguyện làm việc
thiện và tránh làm tất cả những việc bất thiện. Một cách tổng quát, có mười loại
việc thiện như sau:
1. Không giết hại
sinh mạng cũng như không tán
thành và khuyến khích sự giết hại. Phải tìm mọi cách có thể để bảo vệ
sinh mạng. Phải chọn những công việc mưu sinh nào không gây tàn hại cho
con người, loài vật và thiên nhiên.
2. Không lấy
làm tư hữu những tiền bạc và của
cải không do chính mình tạo ra hoặc không do người khác biếu tặng. Không gây dựng
tài sản bằng những phương cách bất hợp pháp. Phải tôn trọng quyền tư hữu của
người khác, nhưng đồng thời cũng phải biết tìm cách ngăn chận, khuyến hóa những
kẻ làm giàu bất lương trên sự đau khổ của quần chúng bị áp bức, thua thiệt.
3. Dù là độc
thân hay đã lập gia đình cũng không được phá hoại danh dự và hạnh phúc của bản
thân hoặc gia đình mình, cũng như của người hoặc gia đình người khác, tức là không
tà hạnh, không ăn nằm với những người chưa hoặc không phải là vợ hay chồng
mình. Phải ý thức được những đổ vỡ, những khổ đau mà mình có thể gây ra
cho người khác vì hành động bất chính của mình. Và do đó, cần phải tích cực bảo
vệ danh dự và hạnh phúc cho bản thân và gia đình mình cũng như cho người và gia
đình người khác.
4. Không nói
những lời dối trá, thêu dệt, điêu ngoa, xúc siểm nhằm khoa trương và mưu
cầu danh lợi, địa vị cho mình, hoặc để vu oan giá họa cho người. Phải thành thật
nhìn nhận những sai lầm của mình để hối cải. Phải can đảm nói lên sự thật để cứu
người vô tội, cũng như để phơi bày những âm mưu gian dối, xảo trá, bất công và
tàn ác. Phải luôn luôn đối xử chân thật với mọi người.
5. Không nói lời
li gián nhằm gây nên không khí bất
hòa giữa những người khác, tạo sự chia rẽ và đổ vỡ trong tổ chức, đoàn thể. Phải
nói
lời xây dựng, hòa giải. Phải tạo sự đoàn kết giữa mọi người.
6. Không nói lời
ác độc, hung dữ, cộc cằn, lỗ mãng như
cãi vã to tiếng, chửi mắng hay nguyền rủa, tạo nên sân hận, oán thù. Phải nói lời
ôn hòa, nhã nhặn, dịu dàng nhằm
tạo sự thông cảm, thương yêu, hòa điệu.
7. Không nói những
lời thô tục, dâm đãng. Không dùng
lời lẽ trau chuốt ngọt ngào cốt mê hoặc, dụ dỗ người. Không nói những lời vô
ích. Không lên án hoặc rao truyền những điều mà mình không thấy biết rõ ràng,
chính xác. Không nói những lời gây hoang mang cho mọi người. Phải nói
những điều đứng đắn và xác thực hầu đem lại sự hiểu biết chính đáng cho
người. Những lời nói như vậy lúc nào cũng có ích và luôn luôn tạo được niềm an
vui và gây tin tưởng cho người nghe.
8. Không để cho
tâm tham dục điều khiển mình. Phải thường
xuyên tỉnh thức, không để cho bị quyến rũ bởi năm thứ dục vọng rồi lấy đó làm mục
đích chính của đời mình. Phải biết sống giản dị để dùng thì giờ và khả năng của mình phụng
sự xã hội. Phải biết san sẻ những gì mình có thể san sẻ được để giúp đỡ người
trong mọi hoàn cảnh khổ đau.
9. Phải ngăn
ngừa, đừng để cho tâm sân hận và oán thù phát sinh. Nếu nó đã phát
sinh thì đừng để nó tồn tại và phát triển, mà phải tìm mọi cách hữu hiệu (như
theo dõi hơi thở, quán niệm về từ bi và duyên sinh chẳng hạn) để tiêu diệt nó
ngay. Luôn luôn đối xử với mọi người bằng thái độ hòa nhã, khiêm tốn và vui vẻ.
10. Không có
thái độ cuồng tín đối với những
điều không do trí tuệ soi sáng. Không mù quáng tin theo những tà thuyết trái chống
với những nguyên lí nhân quả, duyên sinh, vô thường, vô ngã v.v... Không cố thủ
những tri kiến sai lầm của mình và gạt bỏ tri kiến của người. Không phẩm bình
người khác bằng những thành kiến hẹp hòi, cố chấp của mình. Phải học tập thái
độ phá chấp và biết cởi mở để lắng nghe quan điểm của kẻ khác. Phải
luôn luôn tìm cầu học hỏi để phát huy trí tuệ và dùng trí tuệ ấy để soi
sáng, làm hiển lộ sự thật duyên sinh trong mọi vấn đề liên quan đến bản thân,
con người, mọi loài, và vũ trụ.
Mười việc thiện
trên đây là những nguyên tắc hướng dẫn cuộc sống gia đình và xã hội của đạo Phật,
được dùng làm giới luật hành trì cho chúng cư sĩ tại gia, cho nên cũng được gọi
là “Giáo luật mười việc thiện” (thập thiện giới), có thể đọc tụng tại gia
đình mỗi tháng một hay hai lần.
Nhận xét
Đăng nhận xét