Lời Sau Cùng
NIỆM PHẬT THẬP YẾU
HT. Thích Thiền Tâm
HT. Thích Thiền Tâm
Người xưa bảo: "Trứ
thơ nghi tại vãn niên". Đây là ý nói: Viết sách nên đợi lúc tuổi già,
vì tuổi càng lớn càng đầy đủ hiểu biết kinh nghiệm, quyển sách viết ra giá trị
mới có thể được thành toàn. Bút giả chưa phải tuổi già muộn, chỗ kinh nghiệm
cùng sự hiểu biết tất còn nhiều thiếu sót, song vì cấp thiết trong sự lợi tha,
lại chẳng biết vô thường sẽ đến ngày nào, nên gắng gượng xin đem chút ngu thành
hiến dâng hàng thức giả. Đây tuy nói là trứ tác song hầu hết phần lớn đều rút
lời trong kinh Phật, ý kiến của chư cổ đức cùng các bậc thiện tri thức mà góp
thành. Nên thiết tưởng cũng có thể đem lại lợi ích phần nào cho bạn đọc.
Khi xưa Sở Thạch đại sư có hai câu thơ:
Nhơn sanh bá tuế thất tuần hy.
Vãng sự hồi quan tận giác phi!
Lời này thốt ra trong lúc Ngài đã thất tuần, ý than: kiếp người
tuy nói trăm năm, nhưng sống được bảy mươi tuổi cũng rất ít có, và tuổi đã bảy
mươi như Ngài khi quay nhìn việc cũ, thấy mình đều lỗi lầm. Một bậc cao tăng mà
còn tự phê kiểm dường ấy, thì hạng người phàm thường sự lầm lỗi biết là bao
nhiêu? Cho nên khi bút giả nghĩ mình tội chướng còn dẫy đầy, tự độ chưa xong mà
mạo muội nói đến chuyện khuyên nhắc người, đôi lúc cũng hổ thẹn bàng hoàng ngập
ngừng không muốn viết. Nhưng nghĩ lại danh từ khuyến hóa thật ra mình chẳng dám
đương, nhưng lấy tánh cách người trong biển khổ gắng kêu nhắc đồng bạn cùng
vượt qua biển khổ, để mong cho mình nhờ chút ảnh hưởng đó tiêu bớt phần nào tội
chướng nên mới không ngần ngại.
Nhớ lại thuở đời nhà Minh bên Trung Hoa, ông La Điện có soạn
bài thi "Tỉnh thế" như sau:
Vội vội vàng vàng khổ nhọc cầu,
Mưa mưa nắng nắng trải xuân thu.
Hôm hôm sớm sớm lo sinh kế,
Lãng lãng quên quên thấy bạch đầu.
Thị thị phi phi không kết liễu,
Phiền phiền não não những bi ưu.
Rành rành rõ rõ một đường đạo,
Vạn vạn ngàn ngàn chẳng chịu tu!
Lời văn trên tuy thô sơ, dường như không có đạo lý chi sâu
sắc, nhưng đã đem tất cả hành vi và chướng nghiệp trong đời sống của kiếp người
mô tả ra rất rõ ràng. Ai có thể tránh khỏi khuôn khổ của bài thi trên đây, và
cố gắng tu hành, mới gọi là người đi trên đường giải thoát.
Ông La Điện sở dĩ có lời than trên đây, bởi thấy biển tục dễ
chìm, đường tu khó bước. Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, đức Phật dạy:
Nhơn sanh có hai mươi việc khó:
- Nghèo khổ,
bố thí là khó
- Giàu sang, học đạo là khó
- Xả thân, quyết chết là khó
- Xem được kinh Phật là khó
- Nhịn sắc lìa dục là khó
- Sanh gặp đời Phật là khó
- Thấy tốt không cầu là khó
- Bị nhục chẳng giận là khó
- Có thế không ỷ là khó
- Gặp việc vô tâm là khó
- Học rộng nghiên tầm nhiều là khó
- Trừ bỏ ngã mạn là khó
- Không khinh kẻ chưa học là khó
- Tâm hành bình đẳng là khó
- Chẳng nói việc thị phi là khó
- Được gặp thiện tri thức là khó
- Thấy tánh học đạo là khó
- Tùy duyên độ người là khó
- Thấy cảnh không động là khó
- Khéo biết dùng phương tiện là khó.
Trong hai mươi điều trên, nơi đây chỉ
xin nói lược qua ít chi tiết. Như nghèo khổ bố thí là khó, bởi nghèo khổ dù
muốn bố thí, nhưng ngặt vì có lòng mà thiếu sức, nếu gắng gượng bố thí tất ảnh
hưởng đến sự sống của mình, nên mới thành khó. Hoặc như giàu sang học đạo khó,
bởi giàu sang tuy có sức bố thí, song lại bị cảnh dục lạc lôi cuốn, khó buông
bỏ thân tâm để tu hành. Sanh gặp đời Phật là khó, như Luận Trí Độ nói: Ở thành
Xá Vệ gồm chín ức dân mà chỉ có ba ức người được gặp thấy Phật, ba ức người tuy
nghe danh tin tưởng nhưng không thấy gặp, và ba ức người hoàn toàn không được
nghe biết cũng không được thấy. Đức Phật ở tại xứ này giáo hóa trước sau hai
mươi lăm năm, mà còn có ba ức người không thấy gặp nghe biết, thì những kẻ sanh
nhằm đời Phật nhưng ở cách xa, hoặc sanh trước hay sau khi Phật ra đời, tất cơ
duyên gặp Phật hoặc nghe Phật pháp là điều không phải dễ. Nhưng tuy không gặp
Phật mà y theo Phật pháp tu hành, thì cũng như gặp Phật. Nếu không theo lời
Phật dạy, dù ở gần Phật, vẫn là cách xa. Như khi xưa Đề-Bà-Đạt-Đa là em họ của
Phật, Tỳ-khưu Thiện Tinh làm thị giả cho Phật hai mươi năm, vì không giữ đúng
theo đường đạo, nên kết cuộc đều bị đọa địa ngục. Và bà lão ở phía Ðông thành
Xá Vệ, sanh đồng năm tháng ngày giờ với Phật, nhưng vì vô duyên nên không muốn
thấy gặp Phật. Cho nên được thấy Phật nghe pháp, y theo lời dạy phụng hành,
phải là người có nhiều căn lành phước đức nhân duyên. Nay Như Lai đã nhập diệt,
các bậc thiện tri thức thay thế Phật ra hoằng dương đạo pháp, nếu thân cận nghe
theo lời khuyên dạy tu hành, tất cũng được giải thoát. Nhưng kẻ căn lành sơ
bạc, gặp thiện tri thức cũng khó. Dù có duyên được thấy mặt nghe pháp, song nếu
không hiểu nghĩa lý, hoặc chấp hình thức bên ngoài mà chẳng chịu tin theo, thì
cũng đều vô ích. Theo Kinh Phạm Võng và Hoa Nghiêm, muốn tìm cầu thiện tri
thức, đừng câu nệ theo hình thức bên ngoài; như chớ chấp kẻ đó trẻ tuổi, nghèo
nàn, địa vị thấp, hoặc dòng dõi hạ tiện, tướng mạo xấu xa, các căn chẳng đủ, mà
chỉ cầu người thông hiểu Phật pháp, có thể làm lợi ích cho mình. Lại đối với
bậc thiện tri thức chớ nên tìm cầu sự lỗi lầm, bởi vị đó có khi vì mật hạnh tu
hành, vì phương tiện hóa độ, hoặc đạo lực tuy cao song tập khí còn chưa dứt,
nên mới có hành động như vậy. Nếu chấp nê hình thức, tìm cầu lỗi lầm, tất không
được lợi ích trên đường đạo. Khi Phật còn tại thế, ngài Ca-Lưu-Đà-Di có thói
quen miệng nhơi qua, nhơi lại như trâu; Tỳ-khưu Ni Liên Hoa Sắc tánh ưa soi
gương trang điểm; một vị Tỳ-khưu thích leo lên cây nhảy chuyền; một vị Tỳ-khưu
khác nói với ai, ưa lên giọng xưng mi tao lớn lối. Nhưng sự thật bốn vị này đều
đã chứng quả A-La-Hán cả. Bởi kiếp trước một vị làm thân trâu, một vị là kỹ nữ,
một vị làm thân khỉ, một vị là dòng quý tộc Bà-la-môn, nhiều đời ở trong hoàn
cảnh đó, đến nay tuy đắc quả, song tập quán dư thừa hãy còn. Lại như đức Lục Tổ
vì thấy người học Phật thời ấy ưa chấp nói theo kinh văn, không nhận ngay Phật
tánh, nên mới thị hiện làm kẻ dốt, không biết chữ. Ngọc Lam thiền sư vì muốn
tránh duyên để tu hành, nên mới giả làm người điên cuồng, quần áo lôi thôi, ăn
nói không chừng độ. Hư Vân hòa thượng vì thấy người thời mạt pháp, phần nhiều
thân xuất gia, mà tâm không xuất gia nên tuy đã ngộ đạo mà thường để râu tóc,
mật ý chỉ cho "đạo" không
phải ở nơi đầu tròn áo vuông. Nhưng đương thời của các vị ấy, cũng có nhiều kẻ
chê bai chỉ trích đức Lục Tổ là dốt nát, ngài Ngọc Lam là điên khùng, Hư Vân
thượng nhơn là người phạm quy luật Thiền môn. Cho nên nhìn tìm bậc thiện tri
thức khó là như thế. Mấy điều này người học Phật cũng nên hiểu, để bớt sự cố
chấp và tránh lỗi khinh báng Tăng, Ni. Còn các việc khó kia, có thể suy ra để
hiểu.
Tuy nhiên, khó và dễ là pháp đối đãi,
trong khó có dễ, trong dễ có khó. Nếu nhận hiểu và quyết tâm thì các việc khó
chẳng phải không thể làm được. Như thuở đời Phật Tỳ-Bà-Thi, có hai vợ chồng ông
Kế La Di, nghèo đến đỗi mặc chung một chiếc khố, khi chồng đi làm vợ phải lõa
thể đóng cửa ở nhà, vợ thay phiên đi làm thì chồng cũng y như vậy. Nhưng khi
nghe chư tăng đi khuyến hóa, bảo bố thí sẽ có phước tránh cảnh nghèo khổ, hai
vợ chồng bàn luận nhau đem chiếc khố duy nhứt ấy trao qua cửa sổ bố thí, đành
cam cùng chịu lõa thể đóng cửa nằm chết trong nhà. Do sự quyết tâm làm lành đó,
khiến cho vị quốc vương hay được, đem y phục tiền của giúp đỡ. Từ đó về sau,
mỗi đời sanh ra, hai vợ chồng đều có y phục tùy thân, và sau cùng đều chứng đạo
quả. Cho nên tuy nghèo khổ, bố thí là khó, nhưng nếu hiểu cái nhân nghèo nàn do
bởi không bố thí, rồi quyết tâm cam chịu thiếu kém khổ cực đem của riêng để tu
phước, tất việc bố thí cũng có thể làm. Lại như vua Thuận Trị nhà Thanh, lên
ngôi hồi sáu tuổi, hai mươi bốn tuổi từ bỏ vương vị, theo Ngọc Lâm quốc sư đầu
Phật xuất gia. Làm một vị hoàng đế giàu sang tột bực, ở lầu rồng, gác phượng ăn
hải vị, sơn hào, phi tần có cả hàng ngàn trang tuyệt sắc giai nhơn, quyền lực
nắm cả thần dân trong một nước, sự phú quý còn chi hơn? Nhưng nếu nhận rõ sự
phước lạc thế gian vô thường như mộng huyễn, cảnh chân như thường tịch mới thật
là vui, thì tuy nói giàu sang học đạo là khó, song đã quyết tâm tất cũng có thể
thật hành. Ngoài ra, nghèo khổ quá tu hành vẫn thật khó, nhưng nếu có chí cũng
chẳng phải không làm được. Như thuở Phật Thích-Ca còn ở đời, có một bà lão rất
nghèo khổ, ở mướn cho người từ hồi mười ba tuổi, đến tám mươi tuổi cũng còn vất
vả, ban ngày làm việc không ngơi nghỉ, đêm nào cũng phải giã gạo đến canh hai,
gà gáy sáng đã thức dậy quây quần bên cối xay bột. Hoàn cảnh cực nhọc không
rảnh rỗi như thế, muốn tu hành là một sự vạn nan. Nhưng nhờ tôn giả
Ca-Chiên-Diên khuyến hóa, nên mỗi buổi tối sau khi giã gạo xong, bà tắm rửa
thay đổi y phục, ngồi tu niệm đến quá nửa đêm mới đi nghỉ. Nhờ sự quyết tâm cố
gắng đó, mà sau khi chết bà được sanh lên làm vị thiên tử ở cung trời Dạ Ma.
Kính thưa quý vị! Thân người khó được,
pháp Phật khó nghe. Nay quý vị đã được thân người, và có duyên xem đến quyển
này, tức là đã gặp được pháp môn thành Phật mầu nhiệm. Dù gặp phải hoàn cảnh
khó khăn, xin quý vị nhận rõ duyên đời khổ mộng, quyết chí tu hành, để hoa sen
báu bên trời tây được nở thêm những hàng thượng thiện.
Ngày Phật Đản
2515
Thích Thiền Tâm
kính phụng
Nhận xét
Đăng nhận xét