Chương IV: Đệ Tứ Yếu_Niệm Phật Phải Quyết Định Nguyện Vãng Sanh
NIỆM PHẬT THẬP YẾU
HT. Thích Thiền Tâm
HT. Thích Thiền Tâm
Khải Đề:
Sân lan trời ngả bóng chiều,
Cảm thân phù thế ít nhiều ngẩn ngơ!
Tranh đời dệt mộng vẩn vơ
Say đua danh lợi, mê mờ sắc thanh.
Cánh bèo sóng vỗ bập bềnh,
Tại ai hay cũng gây nên bởi mình?
Bể trần là mấy phù sinh,
Thị phi thương ghét trong tình quẩn quanh
Mà trông chiếc lá lìa cành,
Dinh hư cõi tạm trong vành đó thôi!
Mà trông ngọn nước chảy trôi!
Mênh mang sáu nẻo biết rồi về đâu?
Kiếp người nào có bao lâu
Nắng mưa thôi cũng dãi dầu cỏ hoa!
Lầu sương nhạt ánh trăng tà
Hoàng lương một giấc tỉnh ra ngỡ ngàng!
Chi bằng về cõi Liên Bang,
Sen khoe sắc ngọc, gió đàn pháp âm.
Trời giải thoát, cảnh thậm thâm
An vui muôn kiếp tuyệt lầm lỗi xưa
Chỉ câu niệm Phật đừng thưa,
Chỉ bền tin nguyện tam thừa bước lên.
Đài vàng sẵn đã ghi tên
Cơ duyên sẵn đợi một nền đạo tâm.
Mục A. Nguyện Thiết, Động Lực Chánh của Sự
Vãng Sanh
Tiết 21: Tánh Cách Trọng Yếu Của Sự Phát
Nguyện
Như trên đã nói, yếu chỉ
của môn Tịnh Độ là Tín, Nguyện, Hạnh. Muốn vào cửa pháp này, trước tiên hành
giả phải tin cõi Cực Lạc có thật, và đức A-Di-Đà luôn luôn hộ niệm, sẵn sàng
tiếp dẫn chúng sanh nào quy kính, niệm sáu chữ hồng danh kêu gọi đến Ngài. Lòng
tin như thế gọi là Tín. Sau khi đã có lòng tin, hành giả phải phát tâm chơn
thiết cầu thoát ly cõi Ta Bà đầy khổ lụy chướng duyên, mong muốn sanh về miền
Cực Lạc an vui, sự thanh tịnh trang nghiêm vô lượng, để tu tiến hoàn thành mục
đích tự độ độ tha. Đó gọi là Nguyện. Và khi đã phát nguyện như thế, lại cần
phải thiết thật xưng niệm danh hiệu đức A-Di-Đà cho đến trình độ tâm Phật tương
ưng, để được tiếp dẫn. Đây gọi là Hạnh. Chương trước nói "Niệm Phật phải
dứt trừ lòng nghi" là thuyết minh về Tín. Chương này giảng luận về Nguyện.
Chương kế sau tiếp tục đề cập đến phần hành trì, tức là Hạnh. Tín, Nguyện, Hạnh
còn gọi là ba món tư lương của môn Tịnh Độ. Ví như người đi xa phải cụ bị chăn
mùng thuốc men, thức ăn mặc, và tiền bạc, để có đủ sự cần dùng khi lên đường.
Người tu Tịnh Độ cũng thế, thiếu lòng tin không thể phát Nguyện. Có Tín, Nguyện
mà chẳng thật hành, tức tu phần Hạnh, chỉ là Tín, Nguyện suông. Và nếu Hạnh đầy
đủ mà thiếu sót Tín, Nguyện thì sự thật hành đó lạc lõng, không có tiêu chuẩn,
đường lối. Cho nên Tín, Nguyện, Hạnh là tư lương của kẻ đi đường xa về Cực Lạc.
Đối với sự vãng sanh, ba điều này có tánh cách liên đới nhau, thiếu một, tất
không thành tựu.
* Ngẫu Ích đại sư, một bậc
tôn túc về Tịnh Độ đã dạy: "Được
vãng sanh cùng chăng toàn do Tín, Nguyện có hay không, phẩm vị thấp cao, đều
bởi hành trì sâu hoặc cạn". Ngài lại bảo: "Nếu không Tín, Nguyện, dù trì niệm câu hồng danh cho đến gió thổi
không vào, mưa sa chẳng lọt, vững chắc như tường đồng vách sắt, cũng không được
vãng sanh". Người niệm Phật tinh chuyên mà thiếu Tín, Nguyện, tùy công
phu sâu cạn kết quả chỉ được hưởng phước báo nhơn thiên, khi hết phước vẫn phải
bị luân hồi như cũ. Như tại Việt Nam ta, vào đời Hậu Lê, có một vị sư ở chùa
Quang Minh, công hạnh niệm Phật tuy sâu mà vì nguyện tâm không chí thiết, nên
khi mãn phần chuyển sanh làm một vị đế vương triều nhà Thanh bên Trung Hoa. Về
sau nhà vua nhân dùng nước giếng của chùa ấy để rửa vết chữ son ghi tiền kiếp
của mình trên vai, mới cảm khái làm mấy bài thi. Trong ấy có hai câu:
Ngã bản Tây Phương nhứt Phật tử,
Vân hà lạc tại đế vương gia?
Ý nói: Ta vốn là con của
Phật A-Di-Đà ở Tây Phương, cớ sao lại lạc vào nhà đế vương như thế này? Tuy vua
biết kiếp trước mình là vị sa môn niệm Phật ở chùa Quang Minh, nhưng vì trong
ngôi vị đế vương, cảnh phước lạc quá nhiều, nên cũng không tu hành được. Niệm
Phật mà thiếu Tín, Nguyện kết quả là như thế! Cho nên, xét kỹ lại lời của Ngẫu
Ích đại sư, ta thấy phẩm vị cao thấp không phải là vấn đề, mà vấn đề chính là: "Ðược vãng sanh cùng chăng".
Mà muốn được vãng sanh, Tín Nguyện là điều kiện phải có, và điểm cần yếu nhất
lại là chữ Nguyện. Đại sư lại nhấn mạnh: "Nếu
Tín-Nguyện bền chắc, khi lâm chung, chỉ xưng danh hiệu mười niệm hay một niệm,
cũng quyết được vãng sanh. Trái lại, công hành trì tuy vững như vách sắt tường
đồng, mà Tín Nguyện yếu, kết quả chỉ hưởng được phước báo nhơn thiên mà
thôi". Lời này chỉ rõ: thà Tín, Nguyện bền chắc, dù phần Hạnh kém ít
cũng được vãng sanh giải thoát. Xem đây ta thấy, đối với người tu Tịnh Độ, tâm
Nguyện chơn thiết có tánh cách trọng yếu là dường bao!
Tiết 22: Kinh Văn Khuyên Phát Nguyện
Về động lực hướng dẫn của
chữ Nguyện, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện trong Kinh Hoa Nghiêm có nói: "Người này khi sắp mạng chung, trong
khoảng sát-na rốt sau, tất cả các căn thảy đều tan hoại, tất cả quyến thuộc
thảy đều lìa bỏ, tất cả oai thế thảy đều lui mất. Duy có nguyện vương này chẳng
rời bỏ nhau, trong tất cả thời, nó đều dẫn dắt ở trước. Và trong khoảng một
sát-na, kẻ ấy liền được vãng sanh về thế giới Cực Lạc".
Bởi thấy rõ công dụng cần
yếu của sự phát nguyện, nên trong Kinh A-Di-Đà, đức Thích Tôn cứ mãi nhắc đi
nhắc lại điểm ấy, qua các đoạn văn như sau:
* "Lại nữa, Xá-Lợi-Phất! Chúng sanh về cõi nước Cực
Lạc đều là hàng A-Bệ-Bạt-Trí. Trong ấy có nhiều bậc Nhất Sanh Bổ Xứ, số lượng
rất đông, không thể dùng toán số tính biết được, chỉ có thể lấy số không lường
không ngằn a tăng kỳ để nói mà thôi. Xá-Lợi-Phất! Chúng sanh nghe rồi, phải nên
phát nguyện cầu sanh về cõi kia. Bởi tại sao? Vì được cùng các bậc thượng thiện
nhơn như thế đồng họp một chỗ.
... Xá-Lợi-Phất! Ta thấy sự lợi ích đó, nên nói lời này.
Nếu có chúng sanh nào nghe lời nói đây, phải nên phát nguyện cầu sanh về quốc
độ ấy.
... Xá-Lợi-Phất! Nếu có người đã phát nguyện, đang phát
nguyện, sẽ phát nguyện, muốn sanh về nước Phật A-Di-Đà, những người đó hoặc đã
sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, đều được không thối chuyển nơi quả
A-Nậu-Đa-La Tam Miệu Tam Bồ-Đề ở cõi nước kia. Cho nên Xá-Lợi-Phất! Các thiện
nam tử, thiện nữ nhơn nếu có lòng tin, phải nên phát nguyện cầu sanh về quốc độ
ấy."
Như trên, ta thấy đức Thích
Tôn mãi nhắc đi nhắc lại hai chữ "phát
nguyện" lời ý đều khẩn thiết. Cho đến phần kết cuộc của kinh văn, Ngài
cũng vẫn đôi ba phen bảo phải phát nguyện cầu sanh. Tại sao thế? Vì nếu về cõi
Cực Lạc, sẽ được ở cảnh giới vô cùng mầu đẹp trang nghiêm, được thân kim cương
đủ ba mươi hai tướng tốt, dứt hẳn nỗi khổ sanh già bịnh chết; được gần gũi
Phật, chư đại Bồ-Tát và hội họp với các bậc thượng thiện nhơn; được thần thông
Tam Muội, không còn thối chuyển nơi quả vô thượng Bồ-Đề. Bởi trí huệ của Phật
nhìn thấy rất nhiều sự lợi ích như thế, Ngài mới vận lòng từ bi vì cứu độ loài
hữu tình mà khuyên phát nguyện vãng sanh. Lòng bi mẫn của đức Thích-Ca Thế Tôn,
thật là vô lượng.
Tiết 23: Thử Xét Qua Những Tâm Nguyện Cầu
Vãng Sanh
Nơi Kinh Vô Lượng Thọ, đức
Thích Tôn đã kể lược qua trong mười bốn quốc độ có bao nhiêu Bồ-Tát được sanh
về Cực Lạc. Riêng cõi Ta Bà này có sáu mươi bảy ức bậc Bất Thối Bồ-Tát được
vãng sanh, còn số tiểu hạnh Bồ-Tát và những chúng sanh tu tập chút ích công đức
được vãng sanh nhiều không xiết kể! Ở mười ba quốc độ kia, là cõi nước của các
đức Phật như: Viễn Chiếu Như Lai, Bảo Tạng Như Lai, Vô Lượng Âm Như Lai, Cam Lồ
Vị Như Lai, Long Thắng Như Lai, Thắng Lực Như Lai, Sư Tử Như Lai, Ly Cấu Quang
Như Lai, Đức Thủ Như Lai, Diệu Đức Sơn Như Lai, Nhơn Vương Như Lai, Vô Thượng
Hoa Như Lai, Vô Úy Như Lai; mỗi quốc độ có từ mười ức cho đến vô số Bồ-Tát vãng
sanh về Cực Lạc. Đây là chỉ kể những bậc đại Bồ-Tát; còn hàng tiểu hạnh Bồ-Tát
và phàm phu thì nhiều không thể nói xiết được! Đức Phật lại bảo: "Đó là chỉ lược thuật qua trong mười
bốn quốc độ. Nếu phải kể tất cả hàng Bồ-Tát ở mười phương thế giới sanh về Cực
Lạc, thì dù có nói luôn đêm ngày trong một kiếp cũng không thể hết!"
* Có người hỏi: - Như thế
cõi Cực Lạc làm sao dung chứa cho xiết được?
- Xin đáp: Theo trong kinh,
có đức Phật lấy một cõi đại thiên làm một Phật độ. Có đức Phật lấy nhiều hằng
hà sa cõi đại thiên làm một Phật độ. Như Kinh Pháp Hoa nói, ngài Phú Lâu Na sau
sẽ thành Phật hiệu là Pháp Minh Như Lai; đức Phật này lấy hằng hà sa cõi đại
thiên thế giới làm một Phật độ. Đức Thích-Ca Thế Tôn ta làm giáo chủ một cõi
đại thiên gọi là Ta Bà, gồm một ngàn triệu thế giới nhỏ. Ngài hóa thân thành
một ngàn triệu đức Thích-Ca ở những thế giới nhỏ ấy, thị hiện từ lúc giáng sanh
cho đến nhập Niết-Bàn để thuyết pháp. Thế thì cõi Cực Lạc có thể bao gồm từ ức
triệu đến hằng hà sa cõi đại thiên lo gì không đủ chỗ dung chứa! Lại nữa, y báo
tùy nơi chánh báo mà hiện. Nếu số người vãng sanh đông nhiều bao nhiêu, tất
cảnh giới cũng tùy đó mà hiện rộng rãi bấy nhiêu. Nguyện lực và phước lực của
Phật A-Di-Đà vô biên, có thể tùy số vãng sanh mà trang nghiêm tịnh cảnh.
- Lại hỏi: Theo Kinh
A-Di-Đà, mỗi phương trong mười phương thế giới, có hằng hà sa số chư Phật đều ở
nơi quốc độ mình khen nói pháp môn Tịnh Độ, khuyên sanh về Cực Lạc. Như vậy, có
thể đồng thời vô lượng chúng hữu tình đều vãng sanh, Phật A-Di-Đà làm sao tiếp
dẫn cho xiết?
- Đáp: Như trên trời chỉ
một vầng trăng mà từ nhiều biển, sông, ao, hồ to, cho đến mỗi hạt sương nhỏ,
đều có bóng nguyệt và nhuần thấm ánh trăng. Lại tùy theo địa phương mình, mỗi
người đều trông thấy và tiếp nhận được ánh trăng mát dịu. Lời xưa nói:
Hoa nở không phân nhà đói khó.
Trăng soi đồng sáng khắp non sông.
Phật A-Di-Đà cũng thế, với
chân tâm sáng lặng bao hàm, Ngài có thể phóng vô lượng ánh quang minh, nhiếp
thọ từ bậc đại Bồ-Tát đến chúng sanh nhiều tội ác xưng niệm câu hồng danh, và
đồng thời tùy cơ hiện ra số thân như vi trần tiếp dẫn vô lượng chúng hữu tình
khắp mười phương sanh về Cực Lạc.
* Như trên, ta thấy chúng
sanh sanh về Cực Lạc nhiều không thể kể xiết, còn hơn vô số điểm giọt mưa.
Nhưng xét chung về tâm nguyện cầu sanh của những vị ấy, ta có thể chia làm ba
hạng:
Hạng thứ nhất, là những
phàm phu thấp kém nhưng chân thật, không hiểu công đức cùng sự trang nghiêm ở
Tịnh Độ, chỉ cảm nghĩ đời sống nhiều vất vã khổ nhọc, cõi Ta Bà đầy chán nản lo
phiền, nên nguyện sanh về cõi nước thanh tịnh an vui.
Hạng thứ hai, tuy cũng là
phàm phu nhưng có trí huệ và chí nguyện lớn, muốn sanh về Cực Lạc để bảo đảm
thoát ly nẻo luân hồi, mau chứng đạo quả, hoàn thành chí nguyện tự độ độ tha.
Hạng thứ ba, gồm từ hàng
tiểu thánh đã thoát ly vòng sống chết cho đến bậc Đẳng Giác Bồ-Tát, vì muốn mau
tiến lên thượng địa, muốn học hỏi diệu pháp thành Phật, nên phát nguyện vãng
sanh.
Như vậy, ta thấy cầu về
Tịnh Độ không phải chỉ có hạng người vì chán cảnh khổ miền ngũ trược, mà cũng
có hạng người vì thương xót muốn tế độ chúng sanh cõi Ta Bà; cho đến những bậc
vì trên cầu Phật đạo, dưới độ quần mê ở khắp mười phương thế giới. Tuy sở
nguyện có thấp cao, nhưng khi đã sanh về Cực Lạc, thì cũng đồng được sự lợi ích
như nhau, nghĩa là tất cả đều không thối chuyển, đạt đến mục đích thành Phật
lợi sanh. Cổ đức đã bảo: "Pháp môn
Tịnh Độ rất cao thâm mầu nhiệm, duy có Phật với Phật mới biết hết được, vì bậc
Đẳng Giác còn nguyện vãng sanh, ngôi Nhất Sanh Bổ Xứ còn phải trụ nơi miền Cực
Lạc để học hỏi. Các kinh Đại Thừa như: Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Đại Bảo Tích
v.v... đều khen ngợi Tịnh Độ và đề cập đến sự vãng sanh". Pháp môn đã
vi diệu đem lại nhiều sự lợi ích như thế, tuy có vô lượng vô biên chúng hữu
tình ở mười phương sanh về Cực Lạc, nhưng đức Thích Tôn chưa mãn ý, còn muốn
cho số tín nguyện vãng sanh càng được nhiều hơn. Cho nên trong Kinh Vô Lượng
Thọ, Ngài đã than thở và khuyến tấn:
Cõi Phật Vô Lượng Thọ
Hàng Thanh Văn, Bồ-Tát
Công đức và trí huệ
Không có thể khen nói!
Lại nơi cõi nước kia
Nhiệm mầu cực an vui.
Sự thanh tịnh như thế,
Sao không gắng làm lành
Mà niệm đạo tự nhiên?...
Đều phải siêng tinh tấn
Gắng sức tự mong cầu
Vãng sanh cõi An Lạc.
Tất lên chỗ siêu tuyệt
Vượt ngang năm nẻo ác
Ác đạo tự nhiên đóng
Thăng đạo không cùng
tận.
Dễ sanh mà không người!
Cõi kia không cảnh
nghịch
Tự nhiên thuận tiến lên.
Sao không xả việc đời
Siêng tu cầu đạo đức?
Để được kiếp sống lâu
Thọ, vui không cùng
cực...
Lại cũng trong Kinh Vô Lượng Thọ, để tỏ sự trân
quý tuyệt vời của môn Tịnh Độ, đức Thế Tôn đã nói: "Giả sử có cơn lửa lớn
cháy phừng đầy khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, vì cầu nghe kinh pháp này
phải vượt ngang qua nơi ấy, cũng nên vui vẻ tin ưa mà cầu, để được thọ trì đọc
tụng, như lời dạy mà tu hành. Tại sao thế? Bởi vì có rất nhiều bậc Bồ-Tát muốn
nghe kinh này mà không được nghe. Nếu có chúng sanh nào được nghe và tín thọ
kinh này, tất sẽ không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng."
Kinh pháp đã quý báu có nhiều lợi ích như thế,
nên đức Thế Tôn từng căn dặn sau khi Ngài diệt độ, không nên sanh lòng nghi
hoặc đối với pháp này. Nhưng tiếc thay, có những kẻ học Phật chưa thấu đáo đã
không tin, lại đem kinh này giải thích theo lối chấp lý bỏ sự, thành ra xuyên
tạc hủy báng, thật đáng thương buồn! Các bậc tôn túc khi xưa đã nói: "Đối với môn Tịnh Độ, duy có hai hạng
người được lợi ích. Một là hạng tối dốt nhưng chân thật chỉ nghe lời dạy liền
một bề tin nhận mà hành trì theo. Hai là hạng trí huệ sâu có căn lành về Tịnh
Độ, thông suốt tánh tướng, hiểu rõ công đức niệm Phật, nên quyết lòng tín
phụng. Còn hạng trí thức thông thường, hiểu cho thâm đáo thì không hiểu thấu,
mà tin như kẻ tối dốt họ lại không thể tin. Vì thế hạng này khó được sự lợi
ích".
Nhưng, mọi sự đều có nhân duyên. Chỉ mong cho
những vị được phước phận với môn này, sau khi nghe lời dẫn giải trên, càng củng
cố thêm lòng tín nguyện.
Mục
B. Giới Thiệu Lời Văn Phát Nguyện Của Tiền Nhơn
Tiết
24: Văn Phát Nguyện Của Ngài Liên Trì Và Từ Vân
Trong mỗi thời khóa Tịnh Độ, sau khi trì niệm,
hành giả liền lễ Phật cầu chứng minh, rồi quỳ xuống đọc lời văn sám nguyện hồi
hướng. Phần này rất quan trọng, vì là lúc dùng tâm niệm mình đem công đức đã tu
quy hướng về nơi mình mong muốn. Như chiếc thuyền trôi đi, tuy do kẻ chèo hay
động cơ thúc đẩy, nhưng nó đến tiêu điểm nào là bởi người lèo lái. Phần phát
nguyện của người tu Tịnh Độ, tức là giai đoạn dùng tâm niệm lái con thuyền niệm
Phật hướng về Tây Phương. Nhưng có nhiều liên hữu không chú ý tới điểm này, lại
tuyên đọc những bài văn có tính cách khuyến tu hơn là sám nguyện. Đại để như
các bài: "Chốn thảo lư an cư dưỡng
tánh" hay "Cuộc hồng trần
xây vần quá ngán. Kiếp phù sinh tụ tán mấy lăm hồi" chẳng hạn. Đọc như
thế là đã đi sai với nghi thức tu Tịnh Độ.
Nay xin giới thiệu ra đây ít bài văn Tịnh Độ của
tiên đức khi xưa. Về văn phát nguyện, có vị thích lời văn dài để nương theo đó
mà sanh tâm khẩn thiết, có vị lại ưa lời văn ngắn gọn mà đầy đủ ý nghĩa cầu
sanh. Vì thế, bút giả xin chọn lựa hai bài theo tiêu chuẩn trên diễn dịch ra,
để mong đáp ứng phần nào sở thích của hàng liên hữu.
* Bài văn phát nguyện của Liên Trì đại sư:
Cúi lạy phương Tây cõi
An Lạc
Tiếp dẫn chúng sanh Đại
Đạo Sư,
Nay con phát nguyện,
nguyện vãng sanh
Nhờ lượng từ bi thương
nhiếp thọ!
Nay con khắp vì, bốn ân ba cõi, pháp giới chúng
sanh, cầu đạo Bồ-Đề, Nhất Thừa của Phật; chuyên tâm trì niệm, hồng danh muôn
đức, Phật A-Di-Đà, nguyện sanh Tịnh Độ. Lại bởi chúng con, nghiệp nặng phước
khinh, chướng sâu huệ cạn, nhiễm tâm dễ động, tịnh đức khó thành, nay đối Từ
Tôn, kính gieo năm vóc, bày tỏ một lòng, chí thành sám hối. Con và chúng sanh,
khoáng kiếp đến nay, mê bản tịnh tâm, buông tham-sân-si, nhiễm dơ ba nghiệp, vô
lượng vô biên, tội cấu đã gây, vô lượng vô biên, nghiệp oan đã kết, nguyện đều
tiêu diệt. Nguyện từ hôm nay, lập thệ nguyện sâu, xa lìa pháp ác, thề không còn
tạo, siêng tu đạo thánh, thề chẳng biếng lui, thề thành chánh giác, thề độ
chúng sanh. Xin đức Từ Tôn, dùng nguyện từ bi, chứng biết lòng con, thương xót
đến con, gia bị cho con. Nguyện khi thiền quán, hoặc lúc mộng mơ, được thấy
thân vàng, A-Di-Đà Phật, được chơi cõi tịnh, của đấng Đạo Sư, được nhờ Từ Tôn,
cam lộ rưới đầu, quang minh chiếu thể, tay xoa đảnh con, áo đắp thân con, khiến
cho chúng con, chướng cũ tự trừ, căn lành thêm lớn, mau tiêu phiền não, chóng
phá vô minh, viên giác tâm mầu, sáng bừng mở rộng, tịch quang cảnh thật, thường
được hiện tiền. Đến lúc lâm chung, biết ngày giờ trước, thân không tất cả, bịnh
khổ ách nạn, tâm dứt tất cả, tham luyến mê hoặc, các căn vui đẹp, chánh niệm
phân minh, xả báo an lành, như vào thiền định. Phật A-Di-Đà, Quán Âm Thế Chí,
cùng chư Hiền Thánh, ánh lành tiếp dẫn, tay báu dắt dìu, lầu các, tràng phan,
nhạc trời hương lạ, Tây Phương cảnh Phật, bày hiện rõ ràng. Khiến cho chúng
sanh, kẻ thấy người nghe, mừng vui khen cảm, phát Bồ-Đề tâm. Bấy giờ thân con,
ngồi đài Kim Cang, bay theo sau Phật, khoảng khảy ngón tay, sanh vào sen báu,
nơi ao Thất Bảo, ở cõi Tây Phương. Rồi khi hoa nở, thấy Phật Bồ-Tát, nghe tiếng
pháp mầu, chứng Vô Sanh Nhẫn, giây phút lại đi, thừa sự chư Phật, nhờ ân thọ
ký. Được thọ ký xong, ba thân bốn trí, năm nhãn sáu thông, vô lượng trăm ngàn,
môn Đà Ra Ni, tất cả công đức, thảy đều thành tựu. Từ đó về sau, không rời An
Dưỡng, trở lại Ta Bà, phân thân vô số, khắp cả mười phương, dùng sức thần
thông, tự tại khó nghĩ, và các phương tiện, độ thoát chúng sanh, đều khiến lìa
nhiễm, chứng được tịnh tâm, đồng sanh Tây Phương, lên ngôi Bất Thối.
Nguyện lớn như vậy, thế giới không tận, chúng
sanh không tận, nghiệp và phiền não, thảy đều không tận, đại nguyện của con,
cũng không cùng tận. Nay con lễ Phật, phát nguyện tu trì, xin đem công đức, hồi
thí hữu tình, bốn ân khắp báo, ba cõi đều nhờ, pháp giới chúng sanh, đồng thành
chủng trí.
* Bài văn phát nguyện của Từ Vân sám chủ:
Một lòng quy mạng, thế giới Cực Lạc, Phật
A-Di-Đà. Xin đem ánh tịnh soi chiếu thân con, dùng nguyện từ bi, mà nhiếp thọ
con. Nay con chánh niệm, xưng hiệu Như Lai, vì đạo Bồ-Đề, cầu sanh Tịnh Độ. Xưa
Phật lập thệ: 'Nếu chúng sanh nào, muốn về
nước ta, hết lòng tin ưa, xưng danh hiệu ta, cho đến mười niệm, như không được
sanh, ta không thành Phật.' Nay con nguyện nương, nhân duyên niệm Phật,
được vào biển thệ của đức Như Lai, nhờ sức Thế Tôn, tiêu trừ các tội, thêm lớn
căn lành. Con nguyện lâm chung, biết ngày giờ trước, thân không bịnh khổ, tâm
không tham luyến, ý không điên đảo, như vào thiền định. Phật cùng Thánh chúng,
tay bưng đài vàng, đến tiếp dẫn con. Trong khoảng sát-na, con về Cực Lạc, hoa
nở thấy Phật, được nghe Phật Thừa, tỏ thông Phật huệ, độ khắp chúng sanh, mãn
Bồ-Đề nguyện.
Xin đem công đức trì
tụng này
Hồi hướng bốn ân và ba
cõi
Nguyện khắp pháp giới
các chúng sanh
Đều sanh Cực Lạc thành
Phật đạo.
Tiết
25: Phát Nguyện Cần Phải Khẩn Thiết
Ngoài hai bài văn trên, còn có bài văn sau đây
mà trong quyển Phật Thất Nghi cho là xưa nay đã có rất nhiều linh cảm. Có vị
đang lúc đọc nguyện văn này, bỗng thấy các tướng lành; có vị trong giấc mơ thấy
Phật A-Di-Đà phóng quang chiếu soi. Những sự cảm ứng như thế rất nhiều, không
thể thuật ra hết. Đây là bài nguyện văn ấy:
“Đệ
tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân
chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu,
bản nguyện công đức, của Phật Di-Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh.
Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con,
chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được
thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ-Tát và thế giới kia,
thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con
nguyện lâm chung không chướng ngại,
A-Di-Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi
đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ
gót.
Trong một sát-na lìa ngũ
trược,
Khoảng tay co duỗi đến
liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ
Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng
sáng tỏ.
Nghe xong liền ngộ Vô
Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu”.
* Nếu người dốt chữ, ký ức
kém, không thể ghi nhớ dài dòng, nên khuyên dạy họ học thuộc lòng câu phát
nguyện sau đây: "Ngày... tháng...
năm..., đệ tử... nguyện đem công đức này cầu khi mãn phần được Phật tiếp dẫn về
Cực Lạc để trên thành Phật đạo, dưới độ chúng sanh". Cầu nguyện vắn
tắt kèm theo ngày tháng năm như trên, có tác dụng gây ý thức mạnh, khiến người
niệm Phật lúc nào tâm tư cũng hướng về Cực Lạc, hằng nhớ đến sự vãng sanh. Chi
tiết nhỏ này cũng là một phương tiện làm cho sức nguyện thêm mạnh mẽ bền chắc.
Phàm khi phát nguyện, phải
từ trong thâm tâm khẩn thiết nói ra, nếu chỉ tùy tiện đọc cho xong, lòng không
khẩn thiết, tất hạnh niệm Phật cũng khó chân thành. Ấn Quang pháp sư đã bảo: "Thành khẩn là yếu tố để đi đến nhất
tâm bất loạn. Có một phần thành khẩn, tiêu một phần tội nghiệp, sanh một phần
phước huệ. Có mười phần thành khẩn, tiêu mười phần tội nghiệp, sanh mười phần
phước huệ". Người xưa cũng nói: "Thành
tâm sở chí, kim thạch vị khai"; ý nói: sức thành khẩn hướng đến đâu,
có thể chẻ núi, phá vàng đến đó. Sự quyết tâm có năng lực rất mạnh. Bút giả nhớ
trong quyển sách nọ có kể chuyện một vị bác sĩ bên Pháp tuổi trẻ, góa vợ, buồn
lòng đến miền quê du ngoạn để giải khuây. Nhân khi ngụ ở nhà người thợ rèn,
thấy cô gái con gia chủ có sắc đẹp, mới tỏ thật chuyện mình, xin cưới cô này
làm vợ, và được chấp thuận. Nhưng lúc chưa làm lễ cưới, bác sĩ đã ăn nằm với cô
gái, rồi bỏ về đô thị. Người thợ rèn thấy con gái bụng ngày một lớn, chàng sở
khanh tuyệt tích như cánh chim hồng, nghĩ mình nhà nghèo thế yếu không thể kiện
thưa, tức giận quá, mỗi buổi chiều cầm búa đập vào tấm sắt kêu gọi tên vị bác
sĩ đòi đánh bể đầu, để tiết bớt niềm phẫn hận. Nhưng ở đô thành cứ vào năm giờ
chiều, vị bác sĩ nọ bỗng ôm đầu rên la, chữa trị đủ cách vẫn không khỏi. Sau
người bạn của bác sĩ trong lúc về thăm quê, vào buổi chiều đi ngang nhà thợ rèn
nghe tiếng đập sắt và kêu gọi tên bạn mình trách mắng, mới vào gạn hỏi. Khi
hiểu rõ sự việc, suy gẫm ra biết nguyên nhân căn bịnh của bạn mình. Ông về
khuyên vị bác sĩ phải đến xin lỗi và cưới cô gái con người thợ rèn. Sau khi hôn
lễ thành, bịnh vị bác sĩ mới khỏi.
Ấy tâm lực có sức mạnh vô
hình như thế. Nếu ý thức câu chuyện trên mà chí tâm phát nguyện niệm Phật, lo
gì không được sự cảm thông! Tóm lại, tín nguyện là huệ hạnh, niệm Phật là hành
hạnh; huệ hạnh như đôi mắt, hành hạnh như đôi chân. Chân và mắt phải nương
nhau, nguyện cùng hạnh đều khẩn thiết, như thế mới đi đến được Tây Phương Cực
Lạc thế giới.
Nhận xét
Đăng nhận xét