Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ_30
“THỈNH CHUYỂN PHÁP LUÂN”
Vì sao công tác giáo dục xã hội phải gọi là chuyển pháp luân? “Pháp luân” là thí dụ. Thời đại cổ xưa, mỗi dân tộc đều có một đồ án để làm tiêu chí cho dân tộc. Người hiện tại buôn bán bất cứ ngành nghề nào cũng có thương hiệu, đồ án, gọi là mark. Tịnh tông học hội chúng ta cũng có, đó chính là logo phía trên. Tương tự, Phật pháp cũng thuận theo thế gian pháp, không ngoại lệ, cũng chọn lựa một tiêu chí để đại biểu giáo học của Thế Tôn đối với xã hội. Thế Tôn chọn hình tượng bánh xe tượng trưng cho những nội dung mà Phật giáo hóa chúng sanh. Đồ án này phải biểu thị những gì Phật đã nói cho chúng sanh.
Thông thường đồ án dùng trong nhà Phật có ba loại. Loại dùng nhiều nhất chính là “bánh xe pháp”, chúng ta thường gọi “pháp luân thường chuyển”. Loại thứ hai là “hoa sen” được nhà Phật dùng làm tiêu chí. Loại thứ ba là chữ “vạn”, một trong ba mươi hai tướng của Phật. Trên ngực đức Phật luôn có một chữ vạn, biểu thị tốt đẹp. Tất cả pháp Phật nói đều tốt đẹp nhất. Hoa sen đại biểu thanh tịnh vô nhiễm, tuy sanh ra từ bùn nhưng không nhiễm. Bùn biểu thị cho sáu cõi. Phía trên bùn là nước, biểu thị pháp giới bốn thánh “thanh văn, duyên giác, Bồ Tát, Phật”. Hoa sen nở trên mặt nước, ý này chính là siêu việt sáu cõi, mười pháp giới, đạt pháp giới Nhất Chân. Không chỉ sáu cõi không nhiễm, mà pháp giới bốn thánh cũng không nhiễm, hoa sen chính là biểu thị cho ý này.
“Bánh xe” biểu thị ý nghĩa viên mãn hơn. Bánh xe là tướng động. Trong động là không động. Các vị thử nghĩ xem, có thứ nào có thể biểu thị bằng hai loại hình tượng này? Chỉ có bánh xe. Bánh xe tròn, tâm viên bất động. Xung quanh động, lòng tâm không động, cho nên nó đại biểu “động tịnh không hai, động tịnh là một”, việc này các hình tượng khác không thể hiển thị ra được. Ý nghĩa sâu hơn nữa là đại biểu “tánh tướng không hai, không có là một”. Xung quanh bánh xe biểu thị tướng, đại biểu có. Tâm của bánh xe biểu thị không, đại biểu tánh. Tánh là không, cho nên tâm viên không tìm ra được. Nhất định có tâm, nhưng tâm không thể được. Hiện đại có học thuyết nào có thể nói rõ ràng? Cho nên nói điểm, điểm chỉ là một khái niệm trừu tượng không phải thật. Thế nhưng điểm di động chính là tuyến. Tuyến di động chính là diện. Chúng ta có thể quan sát tuyến cùng diện nhưng không thể quan sát được điểm, vì thế không tìm ra tâm viên. Tâm là không, tướng là có. Do không sanh ra có. Có từ không mà ra, cho nên có vẫn là không, có không phải là thật có. Có gọi là huyễn có, chân không bất không, diệu hữu phi hữu. “Bánh xe” biểu thị ý này thật viên mãn.
Mười phương ba đời tất cả chư Phật vì chúng sanh nói pháp, chính là nói rõ đại đạo lý, nói rõ chân tướng sự thật này. Vòng tròn xung quanh bánh xe biểu thị mười pháp giới y chánh trang nghiêm. Trung tâm của pháp luân đại biểu cho tự tánh, đại biểu pháp thân lý thể của chúng ta, chân tâm bổn tánh. Tất cả chư Phật Như Lai vì chúng sanh giảng kinh nói pháp cũng không ngoài nói rõ sự việc này. Đó là chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Cho nên dùng bánh xe để biểu pháp rất viên mãn tròn đầy. Nếu bánh xe không động thì biến thành phế vật, cho nên bánh xe nhất định phải động.
Ngày nay khoa học phát triển, các vị thử nghĩ xem, đạo lý gì có được thành tựu huy hoàng như ngày nay? Đều là bánh xe đang chuyển. Bất cứ máy móc gì cũng không ngoài vòng tròn này. Hiện tại bánh xe còn làm thành bánh răng. Ngay trong bánh xe với nhau cũng có thể sanh ra tác dụng chuyển động, toàn bộ bánh xe đang chuyển động. Phật giảng kinh nói pháp đã dùng bánh xe pháp luân chuyển để làm thí dụ. Chúng ta xem kinh Phật “chuyển pháp luân”, chính là thúc đẩy công tác Phật đà giáo dục xã hội.
Chư Phật Như Lai xuất hiện ở thế gian chính vì sự việc như vậy. Có thể nói trong tám tướng thành đạo, bảy tướng khác đều vì tướng này. Cho nên tôi đặc biệt nói tường tận tướng này. Những tướng khác, chỉ cần nói qua vài ba câu là được. Tất cả chư Phật Bồ Tát ứng hoá ở thế gian cũng chính để làm việc này.
“THIÊN NHÂN QUY NGƯỠNG”
Phật xuất hiện ở thế gian, người thế gian phàm phu mắt thịt không nhận biết Phật đà. Thiên nhân trời Tịnh Cư “quy ngưỡng”. Xem thấy Phật thị hiện ở thế gian, họ ngưỡng mộ quy tâm, thế là thay tất cả chúng sanh “thỉnh chuyển pháp luân”, thỉnh Phật giảng kinh nói pháp, giáo hóa đại chúng. Kinh nói “Phật vi thiên nhân sư phạm, cửu giới đạo sư”, không chỉ là mô phạm cho tất cả mọi người chúng ta, mà là tấm gương tốt nhất cho tất cả hữu tình chín pháp giới. Chúng ta phải học Phật. Nếu chúng ta giữ tâm học Phật, muốn học Phật làm người, muốn học Phật đối nhân xử thế tiếp vật, muốn học ngôn ngữ của Phật, thì đều phải noi theo tấm gương mô phạm ở Phật. Đó gọi là học Phật.
Học Phật không phải là nghiên cứu kinh giáo. Người hiện tại gọi nghiên cứu kinh giáo là Phật học. Phật học và học Phật hoàn toàn khác nhau. Phật học mà không biết học Phật thì bạn vẫn là phàm phu sanh tử, không cách gì đoạn phiền não, không cách gì siêu việt luân hồi. Nếu chân thật học Phật, bạn không chỉ siêu việt sáu cõi mà còn siêu việt mười pháp giới. Đặc biệt y theo bộ kinh điển này mà tu học, thì chắc chắn nắm vững “vạn người tu vạn người đi”, một người cũng không sót lọt. Đó là lời dạy của tổ sư đại đức xưa nay, “thường dĩ pháp âm, giác chư thế gian”
Phía trước trong đề mục của chúng ta “thỉnh pháp năng cảm”, “nói pháp là sở ứng”. Đó là hiển cảm hiển ứng rất rõ ràng. “Thường” là không gián đoạn. Thích Ca Mâu Ni Phật dưới cội bồ đề thị hiện thành chánh giác, thị hiện thành Phật. Từ đó về sau giảng kinh nói pháp không hề có một ngày gián đoạn. Bốn mươi chín năm giảng kinh hơn ba trăm pháp hội quy mô lớn, không kể pháp hội nhỏ. Nếu tính cả số pháp hội nhỏ thì đến khoảng ba ngàn hội.
“THƯỜNG DĨ PHÁP ÂM, GIÁC CHƯ THẾ GIAN”
Câu kinh văn này là trong tám tướng thành đạo, “chuyển pháp luân” trong tổng tướng “nói pháp”, các vị đã thấy rất rõ ràng trên đề kinh. Hai câu này là tổng thuyết, nói rõ Thế Tôn vì sao phải xuất thế, cũng nói rõ Thế Tôn vì sao xây dựng Phật pháp ở thế gian này. Nhà Phật thường nói “Như Lai gia nghiệp”.
“Thường dĩ pháp âm”
“Thường dĩ pháp âm” là pháp giác, giúp đỡ tất cả chúng sanh “phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui”. Tám chữ là tông chỉ mục đích giáo học của Phật Thích Ca Mâu Ni. Khổ từ mê hoặc mà có. Vui từ giác ngộ mà ra. Mê ngộ là nhân, khổ vui là quả. Giúp chúng sanh lìa khổ được vui nhất định phải ở trên nhân mà hạ thủ. Phật biết pháp khổ vui, biết được nhân quả trong đây, cho nên cả đời từ công việc giáo học giúp đỡ chúng sanh phá mê khai ngộ.
“Thường” là không gián đoạn, đặc biệt hiển thị rõ ở hội Hoa Nghiêm, gọi là “trần thuyết sát thuyết, vô gián đoạn thuyết”. Chư Phật Như Lai đã nói tất cả kinh pháp đều không ngoại lệ, đều đồng một pháp vị, thuần chân vô vọng. Đó là ý “thường”.
Cái gì gọi là “pháp âm”?. Pháp âm không phải là giảng giải Phật kinh. Nếu theo cách nói này, sai biệt sẽ rất lớn. “Pháp” là pháp tánh. Phật gọi thân của chúng sanh hữu tình là “Phật tánh”, còn thân chúng sanh vô tình là “pháp tánh”. Pháp tánh bao gồm Phật tánh, nhưng Phật tánh không bao gồm pháp tánh. Kỳ thật Phật tánh cùng pháp tánh là một tánh. Phật trong kinh giáo nói, vũ trụ từ đâu mà có, sinh mạng từ đâu mà có? Không chỉ sinh mạng mà thế gian này thường gọi, nó còn bao hàm chúng sanh hữu tình mười pháp giới, họ từ đâu mà đến? Lại nói hoàn cảnh của y báo. Hoàn cảnh chúng ta sinh sống, núi sông đất đai, gọi là hoàn cảnh vật chất, từ đâu ra? Khoa học gia hiện tại đều đang nghiên cứu, thăm dò, tìm kiếm nguồn gốc của vũ trụ, liệu họ có thể tìm được hay không? Chúng ta có thể khẳng định họ không cách gì tìm ra, bởi vì phương pháp họ dùng là sai lầm, phương hướng cũng sai lầm. Việc này không chỉ khoa học thời hiện đại xem thành vấn đề sống còn để nghiên cứu mà từ xưa, sớm hơn những năm Thế Tôn ra đời, người ta cũng đã tìm tòi.
Theo cách nói của phương tây, vào thời đại hai ngàn năm trăm năm về trước, nếu chiếu theo ghi chép của lịch sử Trung Quốc thì đó là thời đại của ba ngàn năm trước, không ít người thông minh thời đó cũng đi tìm khởi nguồn của sinh mạng và vũ trụ. Ở Ấn Độ, trong điển tích tôn giáo cổ xưa, có thể xem thấy họ đã nói ra hai mươi lăm đế, minh đế chính là khởi nguồn của vũ trụ. Phật nói đó là một sự ngộ nhận rất lớn, không phải sự thật. Sở dĩ sanh ra hiểu lầm lớn như vậy là do phương pháp lẫn phương hướng sai lầm, cùng phạm sai lầm như các nhà khoa học hiện đại. Khoa học hiện đại thì dùng máy móc tiên tiến để dò tìm, còn những nhà tôn giáo cổ đại thì dùng công phu thiền định, thực tế mà nói, cao minh hơn nhiều so với những thiết bị của khoa học gia hiện đại.
Khoa học kỹ thuật hiện đại đến nay vẫn không cách gì đột phá được thời không. Trong khoa học chứng thực có quá khứ, vị lai; biết được chúng ta có thể quay trở lại quá khứ, cũng có thể bước vào cảnh giới tương lai. Trên lý luận thì nói thông, nhưng lại không có phương pháp gì để trở về quá khứ. Họ biết việc đảo ngược thời gian, ngày nay gọi là trục đạo thời gian, nhưng hiện tại trục đạo thời gian vẫn chưa thông, không thể trở lại quá khứ cũng không cách gì bước vào tương lai. Tuy nhiên, nếu dùng công phu thiền định thì có thể đột phá được chướng ngại này, có thể trở lại quá khứ cũng có thể bước vào tương lai.
Hiện có rất nhiều nơi lưu hành quyển sách Sướng Tiêu Thư. Một đồng tu đem đến cho tôi xem cuốn đang rất thịnh hành: “Mật Mã Kinh Thánh”, có phiên dịch Trung văn, nguyên bản tiếng Anh. Truyền thuyết quyển sách này được viết từ ba ngàn năm trước. Đó là sách dự ngôn rất chính xác. Ba ngàn năm trước biết những việc xảy ra của ba ngàn năm sau, gồm những tai nạn lớn sẽ xảy ra ở thế gian này vào thời hiện đại của chúng ta. Tôi xem qua bản dịch, không phải nguyên bản. Một nhà báo Hoa Kỳ không tín ngưỡng tôn giáo, ông xem thấy những sự việc đã viết ra trên sách này, rất lấy làm kinh ngạc vì những dự ngôn chuẩn xác đó. Ông cũng rất thông minh biết được quyển sách này không phải do Thượng Đế viết, vì nếu Thượng Đế viết thì Thượng Đế phải có năng lực hoá giải những tai nạn này. Thượng Đế chỉ đưa ra cảnh báo nhưng lại không có cách gì hóa giải, cho nên việc này không phải Thượng Đế viết. Ông ấy cho rằng, đây phải là một người rất thông minh, một người rất từ bi đã đưa ra cảnh báo nghiêm trọng cho chúng sanh thời hiện đại, một quan điểm tương đối khách quan.
Phàm hễ dự ngôn, không luận trong nước ngoài nước, thời xưa thời hiện đại, lý luận dự ngôn căn cứ trên hai sự việc, một là số học. Từ trong số học phán đoán ra, cũng đoán được tương đối chuẩn. Trong Liễu Phàm Tứ Huấn, Khổng tiên sinh đoán mạng cho tiên sinh Liễu Phàm rất chuẩn, đó là dự ngôn. Liễu Phàm lúc đó còn trẻ. Khổng tiên sinh đoán ông năm mươi tuổi phải chết. Lành dữ cả đời gần như đều bị ông đoán trúng, đó cũng là dự ngôn. Ông căn cứ vào số học để suy đoán. Chỉ cần bạn có ngày giờ sanh chính xác, lấy đây làm căn cứ, liền có thể suy đoán kiết hung họa phước của cả đời bạn. Nếu số học của ông ấy kém thì chẳng phải đoán sai bạn rồi sao. Đoán một người tương đối dễ dàng, vì thời gian ngắn, nhưng nếu đoán kiếp vận của thế gian mới khó, vì thời gian dài. Đoán sự việc sau ba ngàn năm lại càng không dễ. Cho nên chúng ta tỉ mỉ xem “Kinh Thánh” trong lời dự ngôn đã viết ra cũng có thể khẳng định, đó là công phu của thiền định, không phải số học.
Thiền định có thể đột phá được thời không. Trong thiền định có thể thấy vị lai. Ba ngàn năm không quá dài, hành giả thiền định có thể nhìn thấy được. Cho nên phần dự ngôn này là từ thiền định mà có, đáng tin hơn rất nhiều so với số học. Suy đoán của số học sẽ sai lầm, còn cảnh giới hiện tượng trong định gần như chính xác đến 100%.
“Pháp âm” chỉ có Phật mới có thể nói, đó là pháp tánh. Ngôn ngữ, âm thanh, giáo học của tánh đều bao hàm trong hai chữ này. Như Lai thân-ngữ-ý ba luân đều không ngoài lợi ích tất cả chúng sanh, cho nên gọi là pháp âm. Quyển kinh là dấu hiệu của ngôn ngữ, văn tự là phù hiệu, ghi chép của ngôn ngữ, cũng là phương pháp lưu truyền lâu dài. Cho nên văn tự kinh điển thuộc phạm vi của pháp âm. Ngày nay chúng ta đọc kinh điển, nghe Phật pháp, làm chuyển biến tư tưởng, kiến giải, quan niệm, hành vi của chúng ta, pháp âm này liền nhận được hiệu quả.
“Giác chư thế gian”
Thế gian có ba loại, trong đó có “hữu tình thế gian chủ”. Kinh Hoa Nghiêm nói những thế chủ này là hữu tình chúng sanh. Chúng ta ở đây đều thuộc về hữu tình chúng sanh. Loại thế gian thứ hai gọi là “khí thế gian chủ”. Khí thế gian chủ cũng là chúng sanh, nhưng mắt thịt chúng ta không thể nhìn thấy. Kinh nói thần đất, thần núi, thần cây đều là khí thế gian chủ. Đạo tràng này của chúng ta có thần đạo tràng, thần bảo hộ đạo tràng. Các vị đồng tu ở nhà, kinh Địa Tạng nói có thần trạch bảo hộ nhà của bạn. Những loại chúng sanh này mắt thịt chúng ta không thể nhìn thấy, thế nhưng chúng ta được sự bảo hộ của họ.
Nếu chúng ta tạo tác ác nghiệp thì những thiện thần này sẽ đi mất, và đổi một tốp quỷ thần khác đến. Thiện thần đi rồi, không ai bảo hộ bạn nữa, thì ác thần liền kéo đến giúp bạn tạo nghiệp, tương lai đọa vào địa ngục. Họ ở đó nhìn thấy sẽ vui mừng. Trong quỷ thần, ác nhiều thiện ít.
Những quỷ thần thiện đa số đều quy y Tam Bảo, đều là đệ tử Phật. Cho nên trong quỷ vương có rất nhiều Bồ Tát thị hiện, không phải chân thật là quỷ vương. Những quỷ đáng thương này biết khuyên họ đoạn ác tu thiện, không nên hại chúng sanh, mà phải phát tâm bảo hộ. Loại này gọi là “khí thế gian chủ”.
Còn loại thế gian thứ ba là “trí chánh giác thế gian chủ”. Đó là những người chứng quả từ A La Hán trở lên. Tông thiên thai gọi là tạng giáo Phật, Phật của thông giáo, đều thuộc về trí chánh giác thế gian chủ. Cho nên đối tượng Phật giảng kinh nói pháp, bao gồm ba loại thế gian này, gọi là chư thế gian. Đây chính là ý nói chúng sanh chín pháp giới hữu giáo vô loại. Phật một mực dạy bảo bình đẳng, hiển thị đại từ đại bi vô tận. Từ bi là thanh tịnh bình đẳng, không phân thiện ác. Phật dạy người thiện, dạy cả người ác, không phân oán thân. Phật dạy người có quan hệ thân thiết với Phật, dạy cả oan gia đối đầu với ngài. Đó gọi là đại từ đại bi. Phương pháp Phật giảng kinh vô lượng vô biên, Phật có trí tuệ cứu cánh viên mãn, cho nên vì chúng sanh khai thị pháp môn pháp âm vô lượng vô biên. “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”, Phật nói, chúng ta phải phát tâm học vô lượng pháp môn.
Trọng điểm ở “giác”, khiến cho thế gian phổ biến bình đẳng giác ngộ. Chư Phật Như Lai xuất hiện ở thế gian phải làm một việc lớn, gọi là Phật sự, tức sự nghiệp của Phật Bồ Tát. “Thế gian”, thế chỉ thời gian. Người Trung Quốc lấy ba mươi năm làm một đời. “Gian” là không gian. Hai chữ “thế gian” hoặc “thế giới” có ý nghĩa giống nhau, đồng nghĩa với “vũ trụ”, dùng lời hiện tại mà nói chính là “thời không”. Thế là thời, gian là không. Trong thời không đã bao hàm tất cả vạn sự vạn vật, gọi là chư thế gian, tức vô lượng vô biên.
Phật vì phương tiện nói pháp khai mở, phân thành ba loại lớn: hữu tình thế gian, khí thế gian, trí chánh giác thế gian. Phật đối với ba loại thế gian này đều “thường dĩ pháp âm” giúp họ giác ngộ. Hữu tình thế gian nói đến mười pháp giới. Khí thế gian là nói thế giới của vật chất. Trong mười pháp giới, chánh báo là hữu tình thế gian, y báo là khí thế gian. Cũng trong mười pháp giới, bốn pháp giới phía trên gọi là trí chánh giác, còn hữu tình thế gian chuyên chỉ chúng sanh sáu cõi.
Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát, là trí chánh giác thế gian, đó là pháp giới bốn thánh. Kinh đại thừa Phật nói, sáu cõi là phàm phu, pháp giới bốn thánh cũng là phàm phu. Sáu cõi gọi là nội phàm, pháp giới bốn thánh gọi là ngoại phàm, chưa được xem là thánh nhân. Pháp Tướng Duy Thức nói đồng sanh cùng dị sanh. Đồng sanh là trí chánh giác, dị sanh là phàm phu. Đồng sanh cùng với chư Phật Như Lai dùng đồng một chân tâm. Tâm của bạn và tâm chư Phật như nhau. Dị sanh là tâm của bạn cùng tâm Phật không như nhau.
Vì sao không giống nhau? Chúng ta khởi tâm động niệm dùng tâm tám thức năm mươi mốt tâm sở. Đó là dị sanh tánh, cũng là phàm phu. Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát quyền giáo trong bốn giáo của Đại sư Thiên Thai đã nói Tạng giáo Phật, Thông giáo Phật đều dùng tám thức năm mươi mốt tâm sở, là dị sanh tánh. Rốt cuộc thì ai là đồng sanh tánh? Biệt giáo sơ địa trở lên, viên giáo sơ trụ trở lên, phá một phẩm vô minh, chứng một phần pháp thân, đồng sanh tánh, cùng chư Phật Như Lai dùng đồng một chân tâm, đó mới chân thật gọi là chánh giác, kinh cũng gọi là đẳng chánh giác. Tuy là chánh đẳng chánh giác, họ siêu việt mười pháp giới, trụ nhất chân pháp giới nhưng những Bồ tát này còn có bốn mươi mốt giai bậc. Kinh Hoa Nghiêm gọi là bốn mươi mốt vị pháp thân đại sĩ, chưa được viên mãn. Cho nên Phật vẫn phải giúp họ, vẫn phải dùng pháp âm giác chư thế gian, pháp âm vi diệu không thể nghĩ bàn. Đó không phải loại giảng kinh nói pháp ngay trong quan niệm tưởng tượng của phàm phu chúng ta, không giống như hội trường này nghe Phật giảng kinh nói pháp giáo hóa chúng ta. Pháp giới nhất chân chúng ta không cách gì tưởng tượng, kinh nói “bất khả tư nghì”.
Do đây, chúng ta phải thể hội ý nghĩa của hai chữ “pháp âm”, không để rơi vào vết tích của nó. Chỉ cần là trùng trùng phương pháp giúp tất cả chúng sanh giác ngộ, phương tiện khéo léo, thì đều gọi là pháp âm. Tương lai chúng ta ở hội kinh Hoa Nghiêm sẽ đọc đến, trời Quang Âm tương thông ý kiến với nhau không cần nói chuyện. Nếu Phật ở đó giảng kinh cho mọi người có cần dùng ngôn ngữ không? Dùng phương pháp gì để tương thông ý kiến? Phóng quang, vừa phóng quang ra, mọi người vừa xem liền giác ngộ. Bạn nghĩ xem thuận tiện dường nào. Dùng ngôn ngữ phải tốn nhiều sức, giảng một bộ kinh Hoa Nghiêm khổ cực chuyên cần mỗi ngày hai giờ đồng hồ trong năm năm mới xong. Nếu như phóng quang, vừa phóng quang ra, một sát na là có thể giảng xong bộ kinh Hoa Nghiêm viên mãn. Vô cùng tự tại, chân thật không thể nghĩ bàn.
Người trời Quang Âm trở lên đều không dùng ngôn ngữ. Thực tế mà nói, phạm vi của ngôn ngữ rất nhỏ hẹp, rất có hạn, từ cùng ý trái nhau, từ không thể đạt ý. “Ý” là nói ý thức thứ sáu. Năng lực của ý thức thứ sáu mạnh hơn nhiều so với ngôn ngữ. Thức thứ sáu có thể duyên hư không pháp giới. Trong có thể duyên đến a lại da thức, thế nhưng nó vẫn có giới hạn, không duyên đến chân như bổn tánh. Cho nên dùng tâm ý thức để tu hành không thể kiến tánh. Dùng tâm ý thức tu hành đúng pháp, hoàn toàn chiếu theo kinh giáo Như Lai để tu. Phật dạy bạn phải đoạn, bạn thật đã đoạn dứt; Phật dạy bạn nên làm, bạn thật đã làm được tròn đầy, cũng có thể làm đến được Tạng Giáo Phật, Tông Giáo Phật, nhưng không ra khỏi mười pháp giới, vì sao? Vì giới hạn của thức thứ sáu là mười pháp giới. Khi tường tận, bạn có thể chuyển tám thức thành bốn trí vậy thì mới đột phá mười pháp giới, liền vào pháp giới nhất chân, đồng một sanh tánh với Phật.
Các vị phải biết, “thường dĩ pháp âm, giác chư thế gian”, bao gồm mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai trong hư không pháp giới làm việc rộng độ chúng sanh. Tám chữ này đã nêu hết tổng cương lĩnh, tổng nguyên tắc. Chúng ta học Phật phải khéo học tập, học nắm cương lĩnh, nhất là tổng cương lĩnh. Câu kinh này chính là tâm bồ đề viên mãn tròn đầy, tâm bồ đề vô thượng, cũng là tứ hoằng thệ nguyện viên mãn. Trong tứ hoằng thệ nguyện, “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ” có phải là giác chư thế gian hay không? Bạn dùng phương pháp gì để độ chúng sanh? Đó là pháp âm. Sau đó đoạn phiền não, học pháp môn, thành Phật đạo. Hai chữ pháp âm thảy đều bao gồm lấy. Đó là “tổng tướng”.
Biệt tướng là áp dụng của tổng tướng, đó là tổng nguyên tắc, làm thế nào thực hiện trên sự tướng, văn phân hai đoạn. Hai vị Bồ Tát làm đại biểu, Phổ Hiền đại hạnh, Văn Thù đại trí. Phật pháp đại thừa lấy bốn vị Bồ Tát này làm căn bản, như xây dựng một cái nhà. Bốn trụ cột không thể thiếu một trụ. Phổ Hiền, Văn Thù, Quan Âm, Địa Tạng ở bốn đại danh sơn Trung Quốc chúng ta. Có bốn đại Bồ Tát mới có thể xây dựng Phật pháp đại thừa.
“PHÁ PHIỀN NÃO THÀNH, HOẠI CHƯ DỤC TRẠM, TẨY TRẠC CẤU UẾ, HIỂN MINH THANH BẠCH”
Tuy nói biệt tướng nhưng biệt tướng vẫn là nguyên tắc, cương lĩnh. Phía trước “giác chư thế gian”, chúng ta vô biên thệ nguyện độ, phải bắt tay từ chỗ nào? Phiền não vô biên thệ nguyện đoạn. Không đoạn phiền não, chính mình độ mình còn không được thì còn có thể độ ai? Làm gì có đạo lý này. Bạn muốn độ chính mình, trước tiên phải đoạn phiền não. Thế Tôn rất cao kiến, đã đem vô lượng vô biên phiền não quy nạp thành hai mươi sáu loại. Sau đó quy nạp tiếp thành sáu loại căn bản phiền não, “tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến”. Phật còn quy nạp lần nữa thành ba loại tham sân si, gọi là phiền não ba độc. Ba loại này nếu quy nạp thành một thì chính là tham.
Tất cả chúng sanh vô lượng kiếp đến nay lưu chuyển sáu đường, sanh tử luân hồi không hề ngừng dứt. Nguyên nhân căn bản chính là tham. Phật dạy chúng ta bố thí đối phiền não tham. Chúng ta không thể không biết vấn đề nghiêm trọng này. Đời người chúng ta ở thế gian để làm gì? Chúng ta có nghĩ đến hay không? Một đời này phải làm việc gì? Bạn ở trong một đời đi đến khắp nơi đụng chạm sứt đầu chảy máu, sau cùng vẫn là mê hoặc điên đảo, lỡ qua một đời đáng tiếc dường nào.
Thời xưa không chỉ người xuất gia chí hướng rõ ràng tường tận, minh bạch, có mục đích ra khỏi ba cõi, vĩnh thoát sanh tử luân hồi, mà người tại gia, cổ thánh tiên hiền cũng dạy bảo, dẫn dắt chúng ta lập chí. Bạn không lập chí, cả đời này không luận nỗ lực thế nào, phấn đấu đến đâu, bạn cũng không có mục tiêu, không có phương hướng, công phu của bạn nhất định trống không. Phải có phương hướng, có mục tiêu thì ngay đời này bạn mới có thể kiến công lập nghiệp, lập chí trong thế pháp cùng phát nguyện ở Phật pháp. Sau khi lập chí, nếu muốn chí nguyện đạt đến viên mãn thì bạn phải nỗ lực phấn đấu cầu học.
“Phá phiền não thành”
Việc thứ nhất của cầu học là đoạn phiền não, đoạn dục vọng. Vì phiền não và dục vọng chướng ngại trí tuệ của bạn. Bạn không khai mở trí tuệ mà đi học pháp môn thì theo đại sư Thanh Lương nói trong kinh Hoa Nghiêm sớ sao: “cái học được chỉ là tà tri tà kiến. Học kinh giáo đại thừa, cũng biến thành tà tri tà kiến”. Giả như không đoạn phiền não mà học pháp môn có thể thành tựu, thành Phật, thành tổ thì đã có quá nhiều rồi, yêu ma quỷ quái đều thành Phật cả. Nhưng tại sao họ không thể thành Phật? Vì tập khí phiền não dục vọng không dứt, làm chướng ngại không thể kiến tánh.
Phật pháp nói thẳng không gì khác hơn là dạy bạn đoạn dứt phiền não chướng và sở tri chướng. Chỉ cần đoạn dứt hai loại chướng ngại này, trí tuệ bát nhã đức năng đầy đủ trong tự tánh liền có thể hiện tiền, trí tuệ chân thật, vô lượng công đức tự nhiên thành tựu. Khi đại sư Liên Trì còn trẻ tham phỏng Biến Dung lão hòa thượng, một cao tăng đương thời. Ngài rất chân thành, đúng như đại sư Ấn Quang từng nói, “một phần thành kính được một phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích”. Ngài mười phần thành kính, ba bước một lạy lên tận trên núi, lạy đến trước mặt lão hòa thượng, khẩn thiết ai cầu khai thị. Lão hòa thượng thấy ngài chân thành đến như vậy, bèn nói “ông không nên bị danh lợi lừa dối”. Rất nhiều người nghe đều cười rộ, cho rằng lão hòa thượng chỉ có thể nói được câu tầm thường như vậy. Mọi người cười Liên Trì, chân thành cũng chỉ nhận những lời rất thường ngày của lão hòa thượng, không có chút mới mẻ nào. Người ta nghe mấy mươi lần, thậm chí mấy trăm lần cũng chỉ như gió thoảng qua tai, không tác dụng. Nhưng đại sư Liên Trì nghe câu nói này như sấm nổ bên tai, liền khởi tác dụng. Ngài nói với người khác, “lão hòa thượng chân thật từ bi, không nói huyền nói diệu với tôi. Ngài nói cho tôi một lời thành thật, thành tựu của cả đời ngài”. Nhờ vào lời khai thị này, viễn ly danh vọng lợi dưỡng, thành thật tu hành, đại sư Liên Trì thật khởi lên tác dụng. Hiện tại chúng ta có mấy người thành thật như vậy?
Khoảng hai mươi năm trước, pháp sư Thanh Độ ở Nhật Bản rất thân với tôi. Ông cũng rất hay giúp đỡ những pháp sư Đài Loan, đã tìm mấy suất học bổng tiến sĩ Phật học ở Nhật để tặng Đài Loan, trong đó có tặng một phần cho pháp sư Ấn Thuận. Ông cũng muốn tặng một phần cho tôi nhưng tôi từ chối. Hàm tước tiến sĩ đó là cái gì? Là thòng lọng của ma vương buộc lấy bạn. Bạn rơi vào danh vọng lợi dưỡng, lấy được hàm tước tiến sĩ rồi sẽ cống cao ngã mạn. Cho nên cái thòng lọng đó có thể buộc lấy người khác nhưng không buộc được tôi. Chúng ta học Phật không mong cầu danh vọng lợi dưỡng thế gian. Chỉ cần một chút tiêm nhiễm thì liền đọa lạc vào sáu cõi luân hồi, vào ba đường ác.
Muốn đoạn tham sân si, được tâm thanh tịnh hiện tiền thì thuận cảnh không khởi tham ái, nghịch cảnh không khởi sân hận. Trong tất cả cảnh duyên rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo, không si mê sanh trí tuệ, thuận nghịch cảnh duyên không động tâm. Đó chính là thiền định. Kinh Kim Cang nói “Bất thủ ư tướng, như như bất động”. Đối với cảnh giới bên ngoài, thuận cảnh tốt, nghịch cảnh cũng tốt; thiện duyên, ác duyên đều tốt; không động tâm, không chấp tướng. Chúng ta tu hành chính là tu việc này. Trong cảnh giới còn khởi tâm động niệm thì vẫn là phàm phu.
Không động niệm sẽ được nắm chắc phần pháp hỉ. Dù công phu chưa thành tựu nhưng nhất định sẽ không đọa lạc vào ba đường ác, phước báu đời sau nhất định không ở nhân gian, mà lên trời hưởng phước. Tuy nhiên, bạn phải đặt mục tiêu giác ngộ, cầu sanh Tịnh Độ, vì sao? Vì trời không cứu cánh, sợ rằng khi vừa lên lại bị mê, hưởng hết phước lại phải đọa luân hồi, rơi vào ba đường, chẳng phải là đặc biệt sai lầm hay sao? Cho nên không được mê hoặc phước báu thế gian và không động tâm phước trời mà phải chân thật phá phiền não. Chính mình có phước thì để phước cho mọi người hưởng.
Thế Tôn làm tấm gương tốt nhất cho chúng ta. Thiên thượng nhân gian phước báu rất lớn, viên mãn nhất cũng không hơn Phật. Chúng ta “quy y Phật nhị túc tôn”, trí tuệ phước đức viên mãn. Phật có hưởng phước hay không? Không. Phật vẫn ba y một bát, nửa ngày một bữa, dưới mỗi gốc cây ngủ một đêm, cả đời không thay đổi. Vì sao ngài phải làm như vậy? Mục đích để chúng ta xem. Phước báu của Phật cho tất cả chúng sanh hưởng thụ, đặc biệt là gia trì chúng sanh khổ nạn, khiến tai nạn của họ giảm nhẹ, khiến thời gian chịu nạn của họ rút ngắn. Các vị nên biết, nếu không có Phật lực từ bi gia trì, thì thế giới ngày nay của chúng ta không biết phải gặp tai nạn như thế nào. Chúng sanh tội nghiệp cực trọng, ấy thế mà thế giới vẫn duy trì, nhờ Phật lực và phước báu của Phật mang đến cho chúng ta nhưng chúng ta không hề biết cũng không cảm kích. Ngày ngày đọc thượng báo tứ trọng ân, nhưng chỉ có miệng vô tâm, rốt cuộc không tường tận ân đức quá to lớn duy trì cả thế giới này.
“Thành” là thí dụ kiên cố, giống như thành trì tập khí phiền não của chúng ta không dễ gì đoạn. Vậy phải làm thế nào để đoạn? Vẫn là lời nói của đại sư Thiện Đạo “gặp duyên chẳng đồng”. Gặp duyên thù thắng, chúng ta rất có khả năng đoạn. Đó là duyên ngày ngày nghiên cứu đại kinh đại luận, mỗi giờ mỗi phút nhắc nhở chúng ta thì mới có thể đoạn trừ. Một ngày không đọc kinh, bồ đề liền suy, phiền não liền thêm lớn. Ba ngày không đọc kinh, hoàn toàn thoái chuyển. Người đi trước duyên sâu, ngày ngày đọc kinh, ngày ngày niệm Phật, từ đầu năm đến cuối năm đều không gián đoạn, cho nên tính cảnh giác của họ rất cao, mỗi giờ mỗi phút có thể nhớ, dần dần phiền não chuyển biến thành Bồ Đề, giác ngộ rồi, chân thật phá mê khai ngộ. Hiện tại thời gian chúng ta đọc kinh quá ít, niệm Phật quá ít, thường xem niệm Phật tụng kinh như buổi điểm tâm, không phải bữa cơm chính, ngược lại còn lấy tham sân si mạn làm bữa ăn chính.
Vì vậy nhất định ghi nhớ, nếu chúng ta muốn học Phật, muốn vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc thì phải phá phiền não. Muốn phá phiền não thì phải “tâm không ác niệm”. Cái gì là ác? Mười ác, “sát, đạo, dâm, vọng ngữ, hai lưỡi, ỷ ngữ, ác khẩu, tham, sân, si”, không còn, chân thật đối với người, với việc, với vật chân thành, cung kính, từ bi, quyết không chút ý niệm chiếm tiện nghi lợi ích của người khác, đó là tà tư. Phải xả mình vì người. Người khác xâm chiếm ta, không nên để ý đến, ngược lại còn bố thí ba la mật cúng dường họ, không xâm chiếm chút gì lợi ích của họ. Miệng không nói lời ác, thân không tà hạnh, mỗi niệm quan tâm xã hội, thương yêu chúng sanh, toàn tâm toàn lực giúp đỡ xã hội này. Chúng ta có thể tu hành như vậy, nhất định sẽ được chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần bảo hộ, phiền não của bạn cũng liền sẽ ít đi.
(Còn tiếp ...)
KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC
Lão Pháp sư Tịnh Không chủ giảng
Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ
Biên tập: PT. Giác Minh Duyên
Lão Pháp sư Tịnh Không chủ giảng
Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ
Biên tập: PT. Giác Minh Duyên
Nhận xét
Đăng nhận xét