LƯỢC GIẢI NHỮNG PHÁP SỐ CĂN BẢN

Cư sĩ Hạnh Cơ biên soạn, đánh máy, trình bày
Làng Cây Phong ấn hành năm 1996


MỤC LỤC:
 
SỐ 1   SỐ 2   SỐ 3   SỐ 4   SỐ 5

SỐ 6   SỐ 7   SỐ 8   SỐ 9   SỐ 10

SỐ KHÁC


LỜI NÓI ĐẦU

Tại núi Linh-thứu (gần thành Vương-xá), trước khi khởi sự chuyến du hành bố giáo lần cuối cùng hướng về phương Bắc (rừng Câu-thi-na – nơi sẽ nhập niết bàn), đức Thế Tôn có dạy chư tăng về Bảy Phép Bất Thối, và Ngài kết luận: “Này các vị khất sĩ! Chừng nào mà các vị còn thực hành được bảy điều ấy, gọi là bảy phép bất thối, thì đạo pháp còn hưng thịnh và giáo đoàn không bị suy thoái”. Sau đó, tại rừng Đại-lâm (gần thành Tì-xá-li), Ngài lại dạy: “Các vị khất sĩ! Những gì mà Như-Lai đã thực chứng và đã truyền lại cho quý vị, quý vị hãy thận trọng và khéo léo mà học hỏi, giữ gìn, tu tập, chứng nghiệm, và truyền đạt lại cho những thế hệ tương lai. Nếp sống phạm hạnh cần được nối tiếp vì an lạc và hạnh phúc của mọi người và mọi loài”. Rồi tại rừng Câu-thi-na, trong những phút cuối cùng của cuộc đời hóa đạo, Ngài cũng còn ân cần nhắc nhở cho vị đệ tử cuối cùng là Tu-Bạt-Đà-La: “Subhadda! Ở đâu, trong đoàn thể nào mà có sự thực hành Bát Chánh Đạo là ở đó có người đạt đạo”.

Qua các lời dạy trên, chúng ta thấy rõ đức Thế Tôn đã rất quan tâm đến sự tu học, thực chứng, và thực hành giáo pháp. Chánh pháp phải được tu tập, thực chứng, thể hiện, và truyền đạt thì mới trường cửu ở thế gian. Pháp bảo không phải là những bộ Đại Tạng nằm im lìm trong các tủ kinh sách, mà chính là “nếp sống như pháp” nơi các đoàn thể tu học và nơi mỗi cá nhân của tăng đoàn và Phật tử. Bởi vậy, sự học hỏi, thực hành và truyền bá Phật pháp là việc vô cùng quan trọng của người tu học.

Chúng ta thường nghe nói, giáo pháp của Phật có đến tám vạn bốn ngàn pháp môn, bất cứ người có căn cơ, trình độ cao thấp ra sao cũng đều có pháp môn thích hợp để tu học. Lời nói ấy chỉ có nghĩa, giáo pháp của Phật luôn luôn là phương tiện hướng dẫn người tu học đạt đến thành quả cuối cùng là giác ngộ và giải thoát; chúng ta đừng hiểu lầm mà cho rằng, giáo pháp của Phật có tám vạn bốn ngàn pháp môn sai khác nhau, tách biệt nhau, độc lập với nhau. Sự thật thì Phật pháp là giáo pháp viên dung, bất cứ một pháp môn nào cũng hàm chứa trong nó những pháp môn khác; một pháp môn có mặt trong tất cả pháp môn, tất cả pháp môn có mặt trong một pháp môn. Vì vậy, khi “chọn lựa” một pháp môn để tu học thì không có nghĩa là chúng ta chỉ ôm giữ, miệt mài, “chết sống” với pháp môn đó thôi; mà chúng ta phải thấy rằng, trong lúc thực hành một pháp môn thì đồng thời chúng ta cũng đang thực hành nhiều pháp môn liên hệ khác. Bởi thế mà trong biển Phật pháp, có những pháp môn được gọi là “PHÁP SỐ”, tức là tập họp một số lượng pháp môn chi tiết có tính chất liên hệ mật thiết với nhau để làm thành một pháp môn tổng quát hơn, mục đích là giúp cho sự tu tập được nhất quán, toàn vẹn. Ví dụ: Hành động đầu tiên để trở thành một Phật tử là chúng ta phải phát nguyện quay về và nương tựa (quy y). Khi phát nguyện như vậy, chúng ta không thể nói: “Tôi chỉ quy y Phật và Pháp mà thôi, chứ không muốn quy y Tăng!”; mà phải nói: “Tôi phát nguyện quy y Tam Bảo”. Đã phát nguyện quay về nương tựa thì phải quay về nương tựa với đầy đủ Ba Ngôi Báu, tại vì theo đạo lí viên dung, trong Phật đã bao gồm có Pháp và Tăng, trong Pháp đã hàm chứa Phật và Tăng, và trong Tăng cũng đã hiện hữu Phật và Pháp; không thể nào có Phật nếu không có Pháp và Tăng, cũng như không thể nào có Phật và Pháp nếu không có Tăng... Như vậy, Ba Ngôi Báu (Tam Bảo) là một pháp số.

Các pháp môn có tên bắt đầu bằng các con số như một (1), hai (2), ba (3), mười (10),v.v... đều gọi là pháp số (cũng gọi là “danh số”). Trong ba tạng kinh điển, những pháp số như vậy rất nhiều. Các pháp số chúng tôi trình bày trong sách này là các pháp môn có tính cách căn bản, không những chúng xuất hiện bàng bạc trong cùng khắp kinh luận mà còn là những pháp môn nền tảng cho công phu tu tập, là những viên gạch rắn chắc cho con đường an lạc và giải thoát. Cho nên, chúng tôi sẽ trình bày các pháp số đó trong ý hướng tu học mà không phải là một “từ điển” về pháp số. Với những pháp số này, trong ý hướng tu học, chúng ta có thể khảo cứu, học hỏi, thực hành và trao đổi; lấy ánh sáng của pháp môn soi rọi cho đời sống hằng ngày, rồi lại đem những kinh nghiệm của cuộc sống phản chiếu làm cho pháp môn càng thêm sáng tỏ. Đó cũng là cách thực hành lời dạy bảo ân cần của đức Thế Tôn trước khi Ngài nhập niết bàn.

Chúng tôi hi vọng tập sách nhỏ này sẽ giúp ích phần nào cho sự tu học của đại chúng. Chúng tôi cũng mong mỏi được các bậc cao minh tôn túc chỉ bảo cho những điều sai sót mà chúng tôi biết chắc chắn là không thể nào tránh khỏi được.
Thành phố Edmonton, Gia-nã-đại,
đầu Hạ năm Ất-Hợi, PL. 2539 (1995)
Hạnh Cơ

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này